Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NGUYÊN tắc và QUY TRÌNH THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 10 PHẦN “CÔNG dân với đạo đức” ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG NGUYỄN DU TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.35 KB, 26 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ QUY TRÌNH
THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY
HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 10 PHẦN “CÔNG DÂN VỚI
ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN DU
TỈNH PHÚ YÊN


- Một số nguyên tắc thực hiện quy trình thảo luận
nhóm
- Đảm bảo mục tiêu môn học
Mục tiêu của môn GDCD được xậy dựng trên cơ sở mục
tiêu giáo dục của cấp học bao gồm chuẩn kiến thức, kĩ năng
và thái độ. Trong đó chuẩn kiến thức, kĩ năng là các yêu cầu
cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà học
sinh cần phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng còn là căn cứ để biên soạn sách giáo
khoa ở từng môn học nhằm bảo đảm tính thống nhất, tính khả
thi của chương trình môn học, đảm bảo chất lượng và hiệu
quả của quá trình dạy học. Mục tiêu dạy học của từng bộ môn
phải được xây dựng trên cơ sở lí luận và thực tiễn, phải quán
triệt mục tiêu chung của cấp THPT.
Căn cứ vào những yêu cầu trên, mục tiêu môn GDCD
được xác định như sau:
Về kiến thức:
- Cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu về thế
giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, hiểu các



giá trị đạo đức, pháp luật cơ bản của con người Việt Nam.
- Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện pháp
luật, hoạch định chính sách và quản lí kinh tế.
- Hiểu đường lối quan điểm của Đảng, các chính sách
quan trọng của Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay
- Hiểu trách nhiệm công dân trong việc thực hiện đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước
- Hiểu được trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tham gia
phát triển kinh tế của công dân.
Về kĩ năng:
- Trên cơ sở những kiến thức được cung cấp, học sinh biết
vận dụng những kiến thức đó vào nội dung bài học để phân
tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề trong thực
tiễn cuộc sống phù hợp với lứa tuổi.
- Biết lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp
với các giá trị xã hội


- Biết bảo vệ cái tốt, cái đúng, cái đẹp và phê phán, đấu
tranh với các hành vi, hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù
hợp với khả năng của bản thân.
Về thái độ:
- Học sinh biết yêu cái tốt, cái đúng, cái đẹp không đồng
tình với hành vi, việc làm tiêu cực
- Biết yêu quê hương, đất nước, biết trân trọng và phát
huy các giá trị truyền thống của dân tộc
- Tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, tôn
trọng các chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định

chung của cộng đồng. Có ước mơ và mục đích sống cao đẹp.
Việc nhận thức đúng mục tiêu môn học không chỉ dừng
lại về mặt lí luận mà còn phải quán triệt trong mọi hoạt động
của việc dạy học bộ môn. Vì vậy việc thể hiện mục tiêu môn
học trong việc xây dựng chương trình và đổi mới PPDH là rất
quan trọng.
- Đảm bảo tính khoa học:
Nguyên tắc tính khoa học của việc sử dụng phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD là đảm bảo cung


cấp đầy đủ, chính xác hệ thống tri thức cơ bản, thiết thực hiện
đại phù hợp thực tiễn của môn học và đặc điểm nhận thức của
học sinh.
Nội dung môn học nào trong trường THPT cũng phản ánh
một cách đầy đủ, trung thực nhất những tri thức khoa học cơ
bản. Nói cách khác, nội dung của môn học bao giờ cũng mang
tính khoa học. Tính khoa học của nội dung môn học sẽ quyết
định tính khoa học của việc lựa chọn phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học bộ môn. Nội dung môn GDCD bao gồm
những vấn đề cơ bản nhất của các môn khoa học Mác - Lênin,
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật
của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế,
môn GDCD mang tính khoa học sâu sắc, do đó việc giảng dạy
môn học này cũng phải đảm bảo tính khoa học.
Trong trường THPT, môn GDCD trực tiếp trang bị cho
học sinh một cách có hệ thống những tri thức về thế giới
quan, phương pháp luận, về đạo đức pháp luật, về các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội. Hệ thống những tri thức này chủ yếu
được trình bày dưới dạng khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy

luật, luận điểm và được khái quát từ thực tiễn, phản ánh đúng
đắn bản chất của hiện thực. Cho nên khi trình bày cần phải


thuyết minh và làm rõ các căn cứ khoa học của nó. Không thể
áp đặt học sinh thừa nhận một tri thức khi tri thức đó chưa
được luận giải và chứng minh trên cơ sở khoa học. Hơn thế
nữa hệ thống tri thức của môn giáo dục công dân nhằm góp
phần quan trọng vào việc giáo dục học sinh trở thành những
người công dân mới của đất nước. Nhiệm vụ này chỉ có thể
thực hiện được khi đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong
dạy học bộ môn.
Thực hiện nguyên tắc tính khoa học trong dạy học môn
GDCD sẽ đảm bảo được việc thực hiện những yêu cầu của
quy luật về sự thống nhất giữa dạy học và giáo dục, giữa dạy
“chữ” và dạy “người”. Thông qua dạy và học “chữ” để dạy và
học “làm người”, ngược lại. Đây là quá trình biện chứng, quy
định lẫn nhau của quá trình dạy học.
Đảm bảo tính khoa học trong dạy học môn GDCD là điều
kiện cần thiết để biến tri thức mà học sinh tiếp thu được thành
niềm tin, thôi thúc học sinh hành động theo lẽ phải, chân lí.
Học sinh sẽ say mê, hứng thú hơn với môn học. Tri thức khoa
học bao giờ cũng là cơ sở của việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo,
là tiền đề xậy dựng phương pháp tư duy khoa học, phát triển
trí tuệ, phẩm chất đạo đức, hình thành và củng cố những thói


quen tốt cũng như định hướng cho hoạt động của học sinh.
Quá trình xây dựng hệ thống giá trị của con người cho học
sinh luôn gắn với quá trình truyền thụ tri thức. Việc truyền thụ

tri thức mang tính khoa học càng cao bao nhiêu thì việc xây
dựng hệ thống giá trị sẽ càng nhanh chóng và vững chắc bấy
nhiêu. Như vậy, kết quả của việc dạy học môn GDCD không
chỉ đơn thuần là đánh giá mức độ học sinh thu nhận tri thức lí
luận của môn học mà điều cần thiết là đánh giá học sinh ở
mức độ tư tưởng, hành vi và thói quen được thể hiện trong đời
sống hàng ngày. Điều này cũng chỉ có được khi thực hiện tốt
nguyên tắc tính khoa học trong dạy học môn GDCD.
- Nguyên tắc tính thực tiễn:
Các tri thức của môn GDCD ở trường THPT liên quan
trực tiếp với những vấn đề đang diễn ra trong đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội...Do đó, nó có tác động trực tiếp và thường
xuyên tới nhận thức, cũng như hành động của học sinh, thông
qua học sinh tác động trực tiếp tới mọi thành viên của xã hội.
Vì vậy, việc giảng dạy và học tập môn GDCD gắn liền với
cuộc sống sinh động của xã hội, làm cho những tri thức của
môn học thực sự là cơ sở cho hành vi và hoạt động của học
sinh chính là bản chất của nguyên tắc tính thực tiễn trong dạy


học môn GDCD ở trường THPT.
Mọi tri thức khoa học suy cho cùng đều xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn, là kết quả nhận thức của con người trong quá
trình hoạt động thực tiễn.
Trong nhà trường, muốn học sinh tiếp thu được các tri
thức khoa học, tránh được sự mò mẫm trong hoạt động nhận
thức thì cần phải khái quát những tri thức khoa học sẽ trang bị
cho học sinh bằng những kết quả thực tiễn, quá trình dạy học
phải luôn liên hệ với thực tiễn, với đời sống. Tri thức được
truyền thụ cho học sinh càng gần với cuộc sống thực tiễn sinh

động, càng gắn với sự biến đổi không ngừng của hiện thực
khách quan bao nhiêu thì giá trị và vai trò của nó đối với quá
trình hình thành, phát triển nhân cách của học sinh càng cao
bấy nhiêu.
Đối với môn GDCD, thực tiễn là đường lối, chủ trương,
chính sách xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước ta. Cơ sở của những đường lối, chủ
trương, chính sách đó là các kiến thức về tự nhiên, xã hội, tư
duy được khái quát từ các bộ môn Triết học, Kinh tế chính
trị học, Đạo đức học, Pháp luật học...Đây cũng chính là nội


dung học tập của môn GDCD. Thực tiễn của môn GDCD
còn là những diễn biến xảy ra trong đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội ở nước ta và trên thế giới mà sách giáo khoa
không thể phản ánh hết được một cách đầy đủ, nhanh chóng.
Thực tiễn của môn GDCD còn bao gồm cả đời sống của bản
thân học sinh do hàng ngày, hàng giờ các em được tiếp xúc
với các hoạt động kinh tế - xã hội, đọc sách báo, nghe đài,
xem truyền hình, học tập và lao động sản xuất...Do đó, nếu
đảm bảo nguyên tắc tính thực tiễn thì dạy học môn GDCD sẽ
thuận lợi, sâu sắc và hiệu quả hơn.
Nguyên tắc tính thực tiễn trong dạy học môn GDCD là
nguyên tắc gắn liền với nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin về sự thống nhất giữa lí luận với thực tiễn. Trong quá
trình giảng dạy, nếu giáo viên chỉ dừng lại ở những luận
điểm khoa học chung, không gắn chúng với cuộc sống thì sẽ
dễ dàng đi đến chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa giáo điều, không
thể tạo ra ở học sinh niềm tin vào sự đúng đắn của những
luận điểm đó, bài giảng không có sức thuyết phục. Nhưng

nếu giáo viên lại sa vào những sự kiện cụ thể mà không
hướng vào việc dùng lí luận để khái quát, lí giải những sự
kiện thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy giác, coi thường lí luận, rơi


vào chủ nghĩa kinh nghiệm, điều đó sẽ làm cản trở việc hình
thành và phát triển tư duy lí luận, tư duy khoa học của học
sinh. Vì thế, chỉ có kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn tri thức
của môn học với thực tiễn sinh động trong quá trình giảng
dạy mới có thể khẳng định giá trị đích thực của môn GDCD,
mới giúp cho học sinh hiểu rõ ý nghĩa của môn học để từ đó
tạo ra sự say mê, niềm tin vào tri thức mà các em được trang
bị.
Trong quá trình dạy học môn GDCD, thông qua nguyên
tắc tính thực tiễn để thực hiện nguyên lí giáo dục: học đi đôi
với hành, nhà trường gắn liền với xã hội, rèn luyện năng lực
sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của học sinh.
Một mặt lấy thực tiễn để bổ sung cho nội dung dạy học
GDCD, làm cho nội dung đó ngày càng phong phú, sinh
động, mặt khác tập cho học sinh cách vận dụng tri thức đã
học vào cuộc sống học tập, lao động và các hoạt động khác.
Tuy nhiên để đạt đến những mức độ hoạt động thực tiễn có
hiệu quả, thì giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, học sinh
phải nắm chắc các tri thức của môn GDCD đến mức độ có
thể làm chủ được chúng, sử dụng tương đối thành thạo
chúng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của


mình.
- Nguyên tắc tính vừa sức:

Trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học, việc nâng cao dần mức độ
khó khăn trong học tập tương ứng và giới hạn cao nhất của
vùng phát triển trí tuệ gần nhất nhằm tạo nên sự căng thẳng về
mặt trí lực, thể lực một cách phù hợp với đặc điểm lứa tuổi,
đặc điểm cá biệt chính là bản chất của nguyên tắc tính vừa sức
trong dạy học. Nói cách khác, nguyên tắc vừa sức trong dạy
học được quan niệm là quá trình dạy học phù hợp với trình độ
tiếp thu tri thức mới của học sinh, kích thích thúc đẩy và đi
trước sự phát triển trí tuệ của học sinh.
Vừa sức trong dạy học không thể hiểu đơn giản là sức học
sinh đến đâu thì dạy đến đó mà bao giờ dạy học cũng đề ra
những nhiệm vụ khó khăn mà dưới chỉ đạo của giáo viên thì
học sinh bằng sự nỗ lực của mình có thể khắc phục được. Cần
lưu ý rằng mức độ khó khăn trong học tập của học sinh khác
với sự quá tải về mặt trí lực và thể lực, bởi vì sự quá tải đó sẽ
làm yếu đi sự nỗ lực ý chí, làm học sinh sớm bị mệt mỏi trong
học tập, khả năng học tập sẽ bị hạ thấp.


Trong thực tế thường có hai loại biểu hiện của dạy học
không vừa sức.
Thứ nhất, dạy những vấn đề quá mới, quá phức tạp học
sinh không thể tiếp thu nổi.
Thứ hai, dạy những vấn đề đơn giản, sơ sài, không có tác
dụng đối với học sinh.
Đảm bảo tính vừa sức trong dạy học phải nhằm hướng
vào việc phát triển các khả năng vốn có của học sinh, phát
huy tính độc lập, sáng tạo và tính tích cực học tập của học
sinh.

Nhờ hoạt động vật chất của bộ não nên quá trình nhận
thức của con người diễn ra bao giờ cũng phải phù hợp với quy
luật tâm – sinh lí của con người. Nhờ sự chuyển hóa giữa các
quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương
không vượt quá giới hạn quy định của các kích thích mà con
người có phản ứng với ngoại cảnh. Vì thế, với hệ thống tri
thức trừu tượng và khái quát cao của môn GDCD mà đòi hỏi
một cường độ học tập quá cao, vượt quá ngưỡng lĩnh hội tri
thức của học sinh sẽ làm cho học sinh sẽ không thể vượt qua
được khó khăn trong học tập.


Tính vừa sức đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi,
mỗi độ tuổi gắn liền với sự trưởng thành của những cơ quan
trong cơ thể và những chức năng của các cơ quan đó cũng
như sự tích lũy những kinh nghiệm về mặt nhận thức, mặt xã
hội và hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó. Do đó, lứa tuổi thay
đổi thì nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức cũng biến đổi.
Tuy nhiên, theo định đề của Burns không thể có hai học sinh
giống nhau, vì trong cùng một lứa tuổi cũng có những đặc
điểm khác nhau về hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, về sự
phát triển thể chất và tinh thần, về năng lực và hứng
thú...Điều đó cho thấy, vừa sức trong dạy học còn phải chú ý
đến cả những đặc điểm cá biệt của học sinh. Chính vì lí do đó
trong quá trình biên soạn sách giáo khoa GDCD tác giả phải
căn cứ vào đối tượng học sinh, đặc điểm tâm – sinh lí lứa tuổi,
trình độ lĩnh hội tri thức, những tri thức cơ bản và thiết thực
cần trang bị cho học sinh và thời gian hợp lí dành cho môn
học này để xác định được lượng tri thức có thể gây được
những khó khăn vừa sức với học sinh. Vì vậy, trong quá trình

dạy học môn GDCD người giáo viên cũng phải chú ý đến
những đặc điểm này. Đây chính là chỗ dựa vững chắc cho
giáo viên phát huy năng lực sư phạm và nghệ thuật giảng dạy


nhằm đạt được hiệu quả dạy học và góp phần phát triển những
tư chất tốt đẹp của học sinh.
Môn GDCD bao gồm những tri thức về triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, đường lối chính trị, đạo đức, pháp luật...Những
tri thức đó đã được nâng lên trình độ lí luận trừu tượng và
khái quát cao. Đảm bảo tính vừa sức là điều kiện cần thiết để
đem lại chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học
sinh. Đồng thời cũng đảm bảo được nguyên tắc tính khoa hoc,
tính thực tiễn trong giảng dạy bộ môn.
Từ những thực trạng và các nguyên tắc ở trên chúng tôi
xây dựng một quy trình thảo luận nhóm trong dạy học môn
GDCD lớp 10 “phần công dân với đạo đức” ở trường THPT
Nguyễn Du tỉnh Phú Yên.
- Quy trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn GDCD lớp 10
Quy trình này có 03 giai đoạn: Xây dựng kế hoạch; tổ
chức thảo luận; đánh giá kết quả thảo luận.
- Giai đoạn 1: Xây dựng kế hoạch thảo luận


* Đối với giáo viên:
Giáo viên phải thông báo trước cho học sinh về kế hoạch
thảo luận nhóm
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học
Bước 2: Xác định nội dung tri thức, xây dựng, thiết kế

bài học.
Bước 3: Lựa chọn phương pháp, cách thức dạy học,
hướng dẫn học sinh nội dung thảo luận cần chuẩn bị.
Bước 4: Từ bước trên, lập chủ đề thảo luận, cách thức
chia nhóm và phương pháp thảo luận nhóm.
Sau khi đạt được vấn đề, giáo viên hướng dẫn học sinh
tìm đọc tài liệu lien quan. Trước khi tổ chức thảo luận nhóm,
giáo viên phải kiểm tra thử xem nội dung thảo luận nhóm của
học sinh; các điều kiện hỗ trợ cho việc thảo luận...
*Đối với học sinh:
Bước 1: Xác định nội dung bài học
Bước 2: Học sinh xem sách, tài liệu, nghiên cứu, chuẩn
bị nội dung bài học trước khi lên lớp.


Bước 3: Lựa chọn phương tiện hỗ trợ giờ học
- Giai đoạn 2: Tổ chức thảo luận
* Đối với giáo viên:
Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung, vấn đề thảo luận
Bước 2: Giao nhiệm vụ cho từng nhóm, chia nhóm và
hướng dẫn.
Xác định nhiệm vụ, mục tiêu bài học giáo viên chia
nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể chio từng nhóm .
Bước 3: Học sinh bắt đầu nghiên cứu
Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm rõ mục tiêu và vấn
đề cần đạt được, ghi chép lại những suy nghĩ của mỗi học
sinh...
Bước 4: Tổ chức thảo luận theo cặp đôi
Hai bạn ngồi gần nhau bàn bạc, trao đổi cùng một chủ
đề. Bước này giáo viên phải quan sát kỹ để nắm bắt tình hình,

để có những hướng dẫn hợp lý cho học sinh tham gia thảo
luận, qua đó có được những cách khai thác và xử lý thông tin.


Bước 5: Bắt đầu thảo luận nhóm
Từ những bước thảo luận học sinh trong nhóm trình bày
ý kiến của mình trước nhóm, những học sinh còn lại góp ý
sau đó tổng kết lại.
Trong bước này giáo viên hướng dẫn, quy định thời
gian, đặt câu hỏi kích thích tư duy,ẩy nhanh hoạt động của các
nhóm.
Bước 6: Tiến hành thảo luận trước lớp và tổng két nội
dung học tập
Giáo viên sẽ mời đại diện trong nhóm trình bày kết quả
trước lớp, các nhóm còn lại phản biện, đóng góp ý kiến để đi
đến thống nhất kết quả học tập. Sau khi không còn ý kiến của
các nhóm, giáo viên tổng hợp, kết luận những kỹ năng và kiến
thức cho học sinh.
Bước 7: Trọng tài cố vấn, đánh giá kết quả
Giáo viên tiến hành đánh giá kết quả của buổi thao luận,
từ đó nêu len những ưu, khuyết điểm của mỗi nhóm.
* Đối với học sinh:


Bước 1: Thảo luận chung cả lớp, xác định nhiệm vụ,
công việc thảo luận.
Bước 2: Tham gia nhóm, tiếp nhận nhiệm vụ, công việc
và tự nghiên cứu.
Tham gia vào nhóm theo yêu cầu, hướng dẫn của giáo
viên và tiếp sau đó thảo luận.

Bước 3: Học sinh xác định nội dung bài học, tự nghiên
cứu, chuẩn bị câu trả lời.
Bước 4: Trao đổi, bàn bạc ý kiến với bạn ngồi cạnh. Sau
đó góp ý lẫn nhau để đi đến sự thống nhất chung và sữa chữa
những khuyết điểm của mình.
Bước 5: Thảo luận, trao đổi các ý kiến của các học sinh
trong nhóm. Sau đó, đại diện báo cáo kết quả thảo luận,
những học sinh còn lại trong nhóm đánh gia, nhận xét để bổ
sung kết quả thảo luận
Bước 6: Họa sinh của các nhóm đưa ra chứng kiến của
mình trước lớp học, đồng thời báo cáo kết quả thảo luận của
nhóm.. Những nhóm còn lại nghe và đánh giá ưu, khuyết
điểm.


Bước 7: Phối hợp với giáo viên tự đánh giá, kiểm tra:
Học sinh tập trung nghe và ghi chép những đánh gia, kết luận
của giáo viên để có cơ sở sữa chữa, hoàn thành kết quả học
tập của mình.
- Giai doạn 3: Đánh giá kết quả thảo luận:
* Đối với giáo viên:
Ở giai đoạn này giáo viên giúp học sinh cũng cố các kiến
thức đã học. Trên cơ sở đó rút kinh nghiệm bài học trong quá
trình thảo luận và giao nhiệm vụ cho bài tiếp theo
Bước 1: Cho câu hỏi đẻ học sinh về nhà tự nghiên cứu
với mục đích cũng cố lại kiến thức đã học. Sau đó, giáo viên
sẽ đánh giá hoặc cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau về kết quả
học tập.
Bước 2: Chuẩn bị bài tiếp theo
Giáo viên hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà

tự chuẩn bị bài và nghiên cứu nội dung bài học mới.
* Đối với học sinh:


Bước 1: Học sinh tự hệ thống lại kiến thức được học và
rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Bước 2: Nhận nội dung mới để chuẩn bị tốt cho buổi học
hôm sau.
- Một số yêu cầu sư phạm khi thực hiện
phương pháp thảo luận nhóm:
* Về phân nhóm:
Tuỳ thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề
học tập mà ta có nhiều cách chia nhóm. Tuy nhiên, nhóm từ 46 học sinh là tốt nhất, bỡi lẽ: Số học sinh như vậy vừa đủ nhỏ
để đảm bảo tất cả học sinh có thể tham gia ý kiến. Số lượng
này vừa đủ lớn để đảm bảo rằng, học sinh không thiếu ý
tưởng tham gia đóng góp ý kiến.
Các nhóm được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc
thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học. Khi
thành lập nhóm tại lớp cần chú ý: Nhịp điệu làm việc của các
thành viên trong nhóm; trình độ học lực của các cá nhân trong
nhóm; mối quan hệ giữa học sinh với nhau.
Các nhóm học sinh có khả năng khác nhau có thể làm


việc cùng nhau rất tốt. Tuy nhiên, vẫn phải tạo điều kiện cho
những học sinh có cùng khả năng, đặc biệt là những học sinh
có khả năng cao làm việc cùng nhau. Mỗi nhóm cần chọn một
trong những thành viên của nhóm làm nhóm trưởng. Nhóm
trưởng là người có khả năng điều khiển thảo luận. Đồng thời,
trong nhóm cần có một người ghi biên bản, ghi lại những

diểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước lớp. Học
sinh cần được luân phiên nhau làm “nhóm trưởng” và “thư
ký” và luân phiên đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo
luận.
Xây dựng đồng đội là việc làm cần thiết để giúp vượt qua
những vấn đề khác nhau. Do đó, giáo viên cần phải dạy cho
học sinh các kỹ năng xây dựng đồng đội, bao gồm: Khả năng
hiểu được nhu cầu của người khác; khả năng biểu đạt được
một quan điểm; khả năng nghe quan điểm của người khác;
khả năng đáp lịa, đặc câu hỏi, tranh luận và lập luận…Để học
sinh có những kỹ năng trên, giáo viên cần cho học sinh nhận
thức được mục đích của việc học tập hay làm việc theo nhóm
là: Để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, để nghe lẫn nhau, để suy
nghĩ.
* Ra quy tắc cho nhóm:


Đôi khi học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm có
những hành vi cản trở bao gồm tái độ định kiến, cạnh tranh,
bác bỏ người khác và xa lánh mọi người…Vì vậy, giáo viên
cùng học sinh đưa ra những quy tắc nhóm để giúp nhóm làm
việc tốt, chẳng hạn như:
+ Các thành viên trong nhóm đều được nói; cần tạo điều
kiện để học sinh phát biểu hết các loại ý kiến khác nhau, đặc
biệt là ưu tiên các học sinh yếu có nhiều cơ hội được trình bày
ý kiến; phải có sự phân công đều có nhiệm vụ, trách nhiệm
cho các thành viên trong nhóm đều giải quyết các vấn đề học
tập của nhóm.
+ Ủng hộ và giúp đỡ nhau bổ sung chi tiết.
+ Không cười nhạo điều ai đó nói sai.

+ Hãy suy nghĩ trước khi đặt câu hỏi.
Ghép đúng học sinh vào nhóm vào việc phù hợp cho từng
nhóm. Điều này quyết định lớn đến thành công của các nhóm.
Các thành viên trong nhóm phải giải đáp các vấn đề học
tập cho nhau trước khi trao đổi với giáo viên.
* Giao nhiệm vụ cho nhóm


Giáo viên phải giao nhiệm vụ cho nhóm thật cụ thể, thực
hiện bằng lời, bằng phiếu học tập, hoặc viết lên bảng…Nếu
các thành viên trong nhóm phải giải quyết những vấn đề khác
nhau thì giáo viên cần định rõ nhiệm vụ cho từng thành viên
từ đầu. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ, giúp đỡ cho
hoạt động các nhóm, đánh giá, khen thưởng nỗ lực tập thể
nhóm.
* Điều khiển quá trình thảo luận và tổng kết:
Để tổ chức có hiệu quả, giáo viên phải chú ý đến việc bố
trí chỗ ngồi sao cho mọi học sinh tham gia thảo luận có thể
nhìn thấy mặt nhau một cách rõ ràng (có thể sắp lại bàn ghế,
hoặc đổi hướng ngồi…).
Trong dạy học qua thảo luận, giáo viên không nên can
thiệp sâu vào cuộc thảo luận của học sinh mà cần thể hiện
đúng vai trò của mình.
+ Với tư cách là chuyên gia: trong nhiều tình huống giáo
viên phải đóng vai trò là chuyên gia duy trì sự chú ý của các
cá nhân hay nhóm dẫn dắt học sinh đến những cấp độ hiểu
biết cao hơn thông qua các phương pháp dạy học trực tiếp.
Chẳng hạn khi đại diện các nhóm trình bày các vấn về học tập



đã đứng hướng và người trình bày đã tỏ ra hiểu vấn đề nhưng
diễn đạt chưa rõ, chưa có bằng chứng thật thuyết phục, giáo
viên nên trợ giúp bằng cách chia nhỏ vấn đề đó ra cho dễ hiểu
hoặc đặt thêm câu hỏi gợi ý, hoặc hỗ trợ giải thích để giúp
làm rõ và bảo vệ ý kiến.
+ Với tư cách là người tạo điều kiện: trong khi các nhóm
thảo luận, học sinh có thể tự do tìm hiểu các ý tưởng và cộng
tác giúp nhau, giáo viên không nên thường xuyên tham vấn.
Giáo viên chỉ nên can thiệp bằng cách tổ chức thêm các tình
huống cho học sinh làm việc theo nhóm.
+ Với tư cách là người tham gia tức là làm cho học sinh
nói và nghe nhau nói, chứ không phải chỉ đạo mọi điều học
sinh nói.
Mục đích là học sinh cảm thấy độc lập và bình đẳng. Giáo
viên có thể cùng đưa ra ý kiến, ý tưởng hoặc kinh nghiệm của
riêng mình để kích thích học sinh suy nghĩ, thay vì hỏi quá
nhiều câu hỏi.
* Đánh giá hoạt động nhóm:
Đánh giá quá trình và kết quả thảo luận nhóm và việc


quan trọng. Giáo viên cần theo dõi hành vi hợp tác của các
nhóm:
Quan sát học sinh làm việc trong nhóm.
Đánh giá sự tiến bộ của nhóm trong thu thập những thông
tin về sự tiến bộ của mỗi thành viên trong nhóm, qua kết quả
báo cáo của nhóm, kết quả học tập chung của nhóm.
Sau khi đánh giá, cần đưa ra những phản hồi nhanh chóng,
tích cực với học sinh và nhận thức được các khó khăn cản trở
việc học tập của nhóm, dựa vào các biểu hiện: không chú ý, có ý

chống đối hoặc các câu hỏi chệch hướng.
Cuối cùng, cho điểm thưởng hoặc điểm phạt các cá nhân,
các nhóm có biểu hiện tốt hay không tốt.
Để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD lớp 10 “phần công dân với đạo đức” thì việc thực
hiện các nguyên tắc, quy trình thảo luận nhóm là hết sức cần
thiết. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học GDCD ở chương 1.
Chương 2, tác giả đề xuất các nguyên tắc, quy trình sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học GDCD lớp 10


×