CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP NÊU
VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC BÀI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH Ở TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ
Cơ sở lý luận của phương pháp nêu vấn đề trong dạy
học bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ” - chương trình Trung cấp LLCT –HC.
Một số vấn đề lý luận về phương pháp nêu vấn đề trong
dạy học
Khái niệm về phương pháp nêu vấn đề trong dạy học
Theo triết học duy vật biện chứng: Động lực thúc đẩy sự phát
triển là kết quả của việc giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn
trong mỗi sự vật hay quá trình.
Theo Kudiatxev, DHNVĐ là tạo ra những tình huống và giúp
HS giải quyết tình huống này bằng sự tự lực của học sinh và dưới
sự giúp đỡ của giáo viên.
Theo B. Okon, DHNVĐ là tổ chức tình huống CVĐ, giúp
đỡ người học GQVĐ, hệ thống hóa, củng cố và vận dụng kiến
thức mới. [24]
Dạy học nêu và GQVĐ là giúp người học có thói quen
tìm tòi GQVĐ một cách khoa học. Nó giúp người học thích
thú với nội dung học và hình thành năng lực GQVĐ. Điểm
nổi bật của PP là người học GQVĐ trong tình huống, từ đó
chiếm lĩnh nội dung bài học.[5]
Trong dạy học NVĐ, điểm mấu chốt là phải làm sao tạo
ra được các mâu thuẫn hay các tình huống có vấn đề. Từ đó
người dạy sẽ giúp người học phát hiện vấn đề, tích cực, chủ
động đưa ra được cách GQVĐ. Hơn thế nữa, dạy học nêu và
GQVĐ còn thúc đẩy sự tò mò, tìm kiếm cái mới của học sinh
khi áp dụng vào trong những vấn đề khác tương tự, đạt được
những mục đích học tập khác.
Dạy học nêu và GQVĐ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc phát triển tư duy và nhận thức của người học và
gắn bó mật thiết với các PPDH khác.[6]
Bản chất của phương pháp nêu vấn đề trong dạy học
GV đặt trước HS một loạt các nhiệm vụ HT chứa đựng
mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải ìm (vấn đề khoa học).
Đây không phải là những vấn đề rời rạc mà là một hệ thống
có quan hệ logic với nhau và được cấu trúc lại một cách sư
phạm gọi là bài toán nêu vấn đề - ơrixtic.
HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán ơrixtic như mâu
thuẫn của nội tâm mình và được đặt vào tình huống có vấn đề,
tức là trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải
quyết bằng được bài toán đó. [6]
Trong quá trình giải và bằng quá trình giải, bài toán nhận
thức mà HS được lĩnh hội một cách tự giác và tích cực cả
kiến thức, cả cách giải và do đó có được niềm vui sướng của
sự phát minh sáng tạo.
Bài toán nêu vấn đề orixtic là công cụ trung tâm, chủ đạo
của DHNVĐ ơrixtic. Vì vậy, cái quyết định đối với hiệu quả
của quá trình dạy học nêu và giải quyết vấn đề là cấu tạo
thành công bài toán nêu vấn đề ơrixtic. Đây là bài toán tìm tòi
khám phá.
Mâu thuẫn nhận thức trong bài toán tìm tòi cần được cấu
trúc lại một cách sư phạm để thực hiện đồng thời cả hai tính
chất trái ngược nhau (vừa sức, xuất phát từ cái quen biết và
không có lời giải đáp chuẩn bị sẵn). Cấu trúc này giúp HS tìm
tòi và phát hiện (dựa vào tình huống có vấn đề).[6], [10]
Như vậy điểm nổi bật của dạy học nêu và GQVĐ là sự
lĩnh hội tri thức diễn ra thông qua việc tổ chức cho người học
GQVĐ. Qua đó, người học thu nhận được kiến thức mới, kĩ
năng mới, thái độ mới.
*Tình huống vấn đề
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt về tình huống vấn đề.
Theo Rubinstein, tình huống có vấn đề là tình huống chứa
đựng những khâu hoặc những yếu tố chưa xác định, đòi hỏi một
cái gì đó chưa được vạch ra.
Ở góc độ tâm lý, tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lý
của sự khó khăn về mặt trí tuệ nảy sinh ở con người trong
những tình huống khách quan khi không thể giải quyết bằng
các tri thức đã có hay cách thức hành động quen thuộc trước
đây mà phải tìm tri thức hoặc cách thức hành động mới.
Theo tác giả Phan Hồng Vinh, tình huống có vấn đề là
tình huống tạo ra các mâu thuẫn khách quan giữa nhiệm vụ
nhận thức và khả năng của người học, được người học nắm
được và tìm cách giải quyết. [33]
Như vậy, dù tình huống có vấn đề đang được diễn đạt
khác nhau, nhưng có chung mấy điểm cơ bản:
Tình huống chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và chưa
biết, tức là người học chưa giải đáp được.
Nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, tức là tình huống phải
gây được sự tò mò, ngạc nhiên, căn thẳng và mong muốn giải
quyết ở người học.
Khả năng GQVĐ, người học có điều kiện, kiến thức, kĩ năng
giải quyết.
Đó cũng Chính là điều kiện để tình huống trở thành tình
huống có vấn đề.
Điều này đỏi hòi, tình huống có vấn đề trong DH đòi hỏi
GV khi nêu vấn đề cần dẫn dắt người học đến với những tình
huống vấn đề đảm bảo logic khách quan của tiến trình dạy
học, vừa sức với người học.
Cơ sở triết học và tâm lý của phương pháp NVĐ trong
dạy học
Cơ sở triết học của phương pháp NVĐ trong dạy học
Mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự phát triển. Quá trình
dạy học chỉ có thể phát triển nhờ có những động lực thúc đẩy.
Động lực đó Chính là việc phát hiện và giải quyết có kết quả
các mâu thuẫn tồn tại bên trong DH. Trong đó, mâu thuẫn
giữa trình độ hiện tại của người học với những nhiệm vụ học
tập đặt ra ngày càng cao là mâu thuẫn cơ bản và việc giải
quyết mâu thuẫn cơ bản sẽ tạo ra động lực chủ yếu thúc đẩy
quá trình DH phát triển.
Một trong những yêu cầu để giải quyết mâu thuẫn là
người học tham gia khám phá, thực hiện các nhiệm vụ trên cơ
sở phát hiện có mâu thuẫn trong vấn đề nảy sinh giữa hiểu
biết đã có của bản thân với cái chưa biết của bài học mới. Và
người học có nhu cầu hóa giải mâu thuẫn đó. Người học sử
dụng vốn hiểu biết, với sự trợ giúp của GV để tìm cách và
thực hiện các phương cách giải quyết mâu thuẫn đó. Giải
quyết được mâu thuẫn người học có thêm hiểu biết mới, và cứ
như vậy, trình độ nhận thưc, phương thức khám phá, GQVĐ
được nâng lên, phát triển thêm lên.
Đối với GV, thiết lập được THCVĐ là mấu chốt để thực
hiện DHNVĐ. Xây dựng THCVĐ, giúp người học phát hiện
và giải quyết mâu thuẫn là con đường tất yếu để khám phá,
làm chủ nội dung học tập.
Cơ sở tâm lý học:
Các hành động tư duy có vai trò quan trọng để con người
tiếp thu, lĩnh hội tri thức. Theo các nhà TLH, con người bắt
đầu tư duy tích cực khi có khó khăn về nhận thức.
Rubeinstein cho rằng, tư duy sáng tạo luôn bắt đầu từ
THCVĐ. Do đó, người dạy có nhiệm vụ tạo môi trường học
tập thuận lợi, thường xuyên khuyến khích quá trình tư duy.
Dạy học nêu và GQVĐ được đặc trưng bởi hoạt động nhận
thức độc lập của người học. Người học lĩnh hội kiến thức và
phương pháp nhận thức bằng con đường phát hiện và giải
quyết các vấn đề học tập.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: Dạy học là kết hợp
những phương pháp dạy và học có những nét cơ bản của sự
tìm tòi khoa học. Nhờ vậy đảm bảo cho học sinh lĩnh hội
vững chắc kiến thức của bài và có được PP khám phá, tự học
để hình thành cơ sở thế giới quan khoa học cho họ.
Như vậy, phương pháp DHNVĐ có thể hiểu:
Là hệ thống những tác động phối hợp giữa GV và HS
nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ DH.
Giáo viên điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh
bằng THCVĐ. Dưới sự dẫn dắt của GV, HS tìm ra và GQVĐ
ở các mức độ khác nhau nhằm thực hiện các nhiệm vụ học
tập.
Các mức độ và Quy trình thực hiện phương pháp
DHNVĐ
Các mức độ của DHNVĐ:
Căn cứ vào độ khó của vấn đề và đặc điểm người học có
thể tiến hành dạy học nêu và GQVĐ như sau:
“Mức 1: GV thực hiện toàn bộ các bước, đặt vấn đề , phát biểu
vấn đề, GQVĐ.
Mức 2: GV đặt vấn đề, phát triển vấn đề bằng câu hỏi
nhận thức, người học độc lập GQVĐ
-Mức 3: GV đặt vấn đề, người học ý thức được vấn đề,
phát biểu vấn đề thành câu hỏi nhận thức, nêu giả thuyết
GQVĐ.
Mức 4: Người học độc lập phát hiện vấn đề, nêu vấn đề
và giải quyết vấn đề.” [ 33, tr.131]
Các mức độ trên được phân chia theo theo mức độ độc
lập, khả năng của người học và vai trò của người dạy trong
quá trình phối hợp cùng nhau trong thực hiện nhiệm vụ dạy
học.
Quy trình của DHNVĐ: [22. Tr.221]
Bước 1: “Làm xuất hiện tình huống có VĐ và đưa người
học vào tình huống có vấn đề”
Đây là bước thứ nhất của quy trình triển khai phương
pháp này.
Về nội dung, bước này là “tổ chức điều kiện dạy học như
thế nào để làm xuất hiện tình huống có vấn đề”. Về mặt mục
đích của bước này là giúp HV “ý thức được nhiệm vụ nhận
thức, kích thích nhu cầu, hứng thú nhận thức và GQVĐ sáng
tạo”
Có nhiều cách để thực hiện bước này, GV có thể “Đưa ra
một câu hỏi, một bài tập”, “Giới thiệu một hiện tượng không
thể giải thiechs được bằng kiến thức có sẵn” hay cho HV
“quan sát sự kiện, hiện tượng” hoặc có thể “Giới thiệu và đặt
người học vào vai Chính để giải quyết vấn đề đặt ra lúc đó”
Kết quả của bước thứ nhất này phải: - Tạo tình huống gợi
vấn đề và phát biểu VĐ sao cho đặt ra được mục đích GQVĐ
đó.
Bước 2. “Đưa ra giả thuyết vầ luận chứng giả thuyết (có
thể gọi là giai đoạn nghiên cứu)”.
Đây là bước thứ 2 của quy trình thực hiện PPNVĐ.
Để thực hiện bước này tốt, GV cần hiểu rõ bản chất của
giả thiết. “Giả thiết là hình thức độc đáo của tư duy, không
những nó bao gồm sự phán đoán, suy lý, giả định mà còn là
Chính bản thân quá trình đề xuất vấn đề, chứng minh và giải
quyết vấn đề”.
Về mục tiêu, bước này cần đưa ra được giả thuyết: “Đây
là bước đưa ra kế hoạch tìm tòi (làm gì và làm như thế nào)”.
Yêu cầu là GV phải “lôi cuốn HV vào xây dựng giả thuyết,
lựa chọn giả thuyết, luận chứng giả thuyết và để dẫn tới chứng
minh tính đúng đắn của giả thuyết”.
Như vậy, HV phải thực hiện các thao tác tư duy như so
sánh, liên hệ với những cách giải quyết các vấn đề tương tự
đã biết cũng như tìm các cách thức giải quyết mới. Các hành
động HV cần thực hiện là:
Thực hiện phân tích vấn đề
Xây dựng các giả thuyết về vấn đề đặt ra theo các hướng
khác nhau.
Lập kế hoạch GQVĐ.
Đề xuất các hướng giải quyết có thể có.
Bước 3. “Bước chứng minh giả thuyết. Còn gọi là giai
đoạn giải quyết vấn đề”
Bước này cần tổ chức cho HV thực hiện những suy luận
“sử dụng một hay nhiều phán đoán mà tính chân xác đã được
công nhận để khẳng định tính chân xác của một phán đoán
đang cần chứng minh”. Các hành động cần thực hiện là:
Kiểm tra sự phù hợp thực tế của lời giải, kiểm tra tính hợp
lý hoặc tối ưu của lời giải. Trong bước này cần quyết định
phương án GQVĐ.
Đánh giá các phương án giải quyết đã được tìm ra.
So sánh để xác định phương án tối ưu.
Đưa ra các quyết định phù hợp trong trường hợp tìm được
phương án giải quyết tối ưu hay không.
Bước 4: Kết luận nhằm “Kiểm tra tính đúng đắn của việc
giải quyết vấn đề”.
GV cần tổ chức để HV:
Thảo luận về các kết quả thu được và đánh giá.
Khẳng định hay bác bỏ giả thiết đã nêu.
Phát biểu kết luận.
Bước 5: Vận dụng. Đây là bước có ý nghĩa trong việc
“củng cố và vận dụng độc lập tri thức mới”.
Tìm kiếm các phương hướng ứng dụng kết quả.
Biết cách vận dụng một cách khoa học vào các tình huống
thực tiễn để giải quyết,…
Đề xuất những vấn đề mới có liên quan.
Quy trình này phụ thuộc vào tính chất của vấn đề nghiên
cứu, trình độ của người học, sự dẫn dắt của GV… Do đó quá
trình vận dụng có thể thay đổi đơn giản hơn hoặc phức tạp
hơn. Trong dạy học, quá trình thực hiện dạy học nêu và
GQVĐ cũng không nhất thiết phải tuân thủ theo trình tự các
bước mà có thể vận dụng linh hoạt cho phù hợp.
Cách tiến hành PPNVĐ trong dạy học
Cách thức tiến hành phương pháp NVĐ trong dạy học thể
hiện tổ chức dạy học nêu vấn đề được thực hiện như thế nào.
Đây là những chỉ dẫn quan trọng cho giáo viên khi triển khai
phương pháp trong thực tiễn dạy học. Tổ chức dạy học nêu
vấn đề thường gồm 3 bước:
Tổ chức cho người học Phát hiện vấn đề:
Đây là bước giáo viên tạo cơ hội để “người học tham gia
phát hiện vấn đề, phát biểu vấn đề, phát biểu và nhận dạng
vấn đề nảy sinh và nêu vấn đề cần giải quyết ở các mức độ
khác nhau cho phù hợp” [6, tr.70]. Bước này cần được tổ chức
cho phù hợp với trình độ của đối tượng người học. Bước này
cần làm được mấy việc:
+ Tạo tình huống có vấn đề.
+ Giải thích tình huống có vấn đề.
+ Phát biểu vấn đề bằng câu hỏi nhận thức và đặt nhiệm vụ
giải quyết vấn đề.
Giải quyết vấn đề.
GV thường tổ chức cho người học làm mấy việc sau:
+ Đề xuât các giả thuyết
+ Lập kế hoạch GQVĐ
+ Thực hiện kế hoạch GQVĐ.
Giai đoạn này, giáo viên cần tổ chức cho người học phân
tích vấn đề, xác định cái cần tìm và cái đã biết, huy động kinh
nghiệm người học, tạo động lực để người học tích cực xây
dựng các giả thuyết khác nhau.
Kết luận vấn đề
Đây là bước cuối để tạo ra vòng tròn khép kín của
phương pháp. Ở bước này, từ kết quả kiểm chứng các giả
thuyết đã nêu, người học thảo luận để: “Phân tích, đánh giá
các kết quả thu được, khẳng định hay bác cỏ lý giả thuyết đã
nêu, tìm được giả thuyết đúng trong các giải thuyết” [ 6,
tr.71].
Bước này, GV cần thực hiện mấy việc:
+ Kiểm tra sự đúng đắn của các giả thuyết
+ Xác định lời giải, đáo án tối ưu, hợp lí nhất
+ Khái quát và hướng vận dụng kiến thức bài học.
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp DHNVĐ
Ưu điểm
Sử dụng phương pháp DHNVĐ tạo điều kiện cho người
học học thông qua khám phá, học bằng những trải nghiệm ở
các cấp độ khác nhau. Do vậy, PP “tạo cơ hội cho người học
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, phát triển năng lực
nhận thức, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề thông
qua các trải nghiệm” [6, tr.73].
Để thực hiện nhiệm vụ dạy học, người học phải phát hiện
và GQVĐ bằng cách huy động những kiến thức, kỹ năng đã
có để giải quyết vấn đề mới. DO vậy, phương pháp tạo môi
trường, điều kiện để phát triển tư duy logic, tư duy sáng tạo,
hình thành và phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn
đề, năng lực sáng tạo, năng lực tư duy và phản biện,… Đó là
những năng lực cơ bản đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển xã
hội hiện nay.
Kết quả của PPNVĐ mang lại là “Kiến thức, kỹ năng
được hình thành một cách sâu sắc và vững chắc”, HV sẽ “biết
cách chủ động chiếm lĩnh kiến thức và đánh giá được kết quả
học tập của bản thân” [6, tr.73]. Vì thế, NVĐ là phương pháp
có ưu thế trong DH phát triển năng lực HS.
Hạn chế:
Giảng viên cần dành nhiều thời gian để nghiên cứu nội
dung bài học, đầu tư trí tuệ để chuẩn bị bài dạy, tìm ra các
cách thức để đưa học viên vào tình huống có vấn đề.
Thành công của phương pháp cần rất nhiều vào sự tham
gia của người học (tâm thế, thái độ, năng lực tham gia).
Việc triển khai phương pháp nhiều khi cần có các điều
kiện hỗ trợ để tạo những thuận lợi cho học viên phát hiện và
GQVĐ, kích thích hứng thú, tập trung chú ý của người học.
[7]
Từ ưu điểm và hạn chế phương pháp, GV cần nắm được
bản chất của và mối quan hệ của phương pháp NVĐ với các
PPDH khác để phối hợp và vận dụng cho phù hợp với mục
tiêu, nội dung bài học, đặc điểm người học.
Phương pháp nêu vấn đề trong dạy học bài "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ"
Giới thiệu bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ"
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một nội dung cấu thành môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong chương trình Trung cấp LLCT-HC. Nội
dung Tư tưởng Hồ Chí Minh trong môn học được cấu trúc
thành 5 phần: 1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh; 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
đân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; 3. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết; 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân; 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ.[12]
Với thời lượng là 8 tiết, bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ là bài thứ 12 của môn học Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội
dung bài học góp phần làm sáng tỏ chúng ta không chỉ học tập
tấm gương Hồ Chí Minh về đạo đức mà còn học Hồ Chí Minh
về xây dựng tổ chức qua những luận điểm về cán bộ và công
tác cán bộ. [12]
Về mục tiêu bài học, bài học hướng tới phát triển nhận
thức, thái độ, kỹ năng cho học viên. Sau khi học xong bài
học, về nhận thức, học viên hiểu được cơ sở hình thành Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; Nắm vững
những luận điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ. Về kỹ năng, phát triển ở học viên kỹ năng
phân tích, đánh giá các vấn đề thực tiễn có liên quan. Từ đó,
học viên vận dụng bài học để rèn luyện bản thân. Về thái độ,
phát triển ở học viên thái độ tích cực trong học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh và tích cực rèn luyện và tự rèn luyện bản thân
theo tư tưởng HCM; ủng hộ và tham gia tuyên truyền cho
đồng nghiệp và nhân dân hiểu và noi gương Bác.
Về nội dung bài học, Bài học có 2 phần nội dung cơ bản
được cấu trúc như sau:
- Cấu trúc nội dung của bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ
Vị trí của cán bộ:
+ Là “dây chuyền”, là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ
và nhân dân…
+ Cán bộ có vị trí đặc biệt trong việc thi hành Chính
sách. Cùng với “cách tổ chức công việc” và “công tác kiểm
tra”, cán bộ là một yếu tố hàng đầu của “bộ ba” quyết định
hiệu quả của các Chính sách.
Vai trò:
+ Là gốc của mọi công việc…, là nhân tố quyết định đến
sự thành công của việc thực hiện các Chính sách của Đảng,
Nhà nước, đoàn thể.
+ Là người giải thích và hướng dẫn cho nhân dân về
những chủ trương, Chính sách của Đảng, Nhà nước…
Yêu cầu đối với cán bộ: Phải có đủ phẩm chất đạo đức,
trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp và phong cách…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài của người cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Quan niệm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và vai
trò của công tác cán bộ
Nội dung công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Khéo dùng cán bộ
Huấn luyện cán bộ
Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ
Đánh giá chung
Đánh giá cụ thể một số khâu của công tác cán bộ
Đánh giá cán bộ
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Sử dụng cán bộ
Vai trò của PPNVĐ trong dạy học bài "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ"
Phương pháp NVĐ có vai trò và ý nghĩa trong dạy học
bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ"
trong chương trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó thể hiện ở
mấy điểm: 1. Đó là con đường thuận lợi, phù hợp đối với sự
vận động của nội dung bài học nhằm thực hiện hiệu quả mục
tiêu bài học đề ra. 2. Đó là PP thích hợp để kích thích HV tích
cực học tập, phù hợp với dạy học cho đối tượng là người lớn,
là cán bộ. 3. Đây là PP góp phần thực hiện mục tiêu của môn
học; 4. Đây là PP tạo điều kiện để học viên dễ dàng học tập và
huy động tri thức kinh nghiệm để học tốt môn học và vận
dụng bài học vào thực tiễn.
Trước hết, nội dung bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ" có tính Chính trị sâu sắc đòi hỏi người
học phải có tình cảm và đạo đức cách mạng, có thái độ và sự
tích cực trong học tập. Đặc điểm nội dung bài học đặt ra
những yêu cầu đối với người dạy và người học phải có lập
trường của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản và của
nhân dân lao động, có thái độ Chính trị rõ ràng. Giá trị của bài
học là ở chỗ góp phần bồi dưỡng cho học viên thế giới quan,
nhân sinh quan, niềm tin, lý tưởng về cán bộ và công tác cán
bộ. Nội dung bài học là quan điểm của lãnh tụ về vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ trong xây dựng tổ chức, nhất là trong
xây dựng Đảng. Những vấn đề này đã được minh tính đúng
đắn qua thực tiễn lãnh đạo của Đảng và của Hồ Chí Minh.
Học viên nghiên cứu trên cơ sở có niềm tin và xây dựng tri
thức cho mình một cách vững chắc thông qua hoạt động: tìm
tòi, GQVĐ. Dựa vào đó để người học mài sắc tư duy, có bản
lĩnh để bảo vệ tính đúng đắn của Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ; đấu tranh trên mặt trận văn hóa tư
tưởng, trước các thế lực thù địch, chống phá. Từ đó bồi dưỡng
và củng cố niềm tin của cán bộ học viên về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Khẳng định quan điểm về cán bộ và công
tác cán bộ của Đảng trong xây dựng Đảng và xây dựng Nhà
nước Việt Nam. Do đó, phương pháp NVĐ là con đường quan
trọng để giảng viên tổ chức, điều khiển học viên chiếm lĩnh
nội dung bài học.
Với đặc điểm của phương pháp NVĐ là một hệ phương
pháp dạy học phức hợp và có tính đa năng. GV có thể kết hợp
với nhiều PPDH
khác nhau. Có thể xem đó là tiếp cận
phương pháp luận, nhưng lại là PPDH về mặt kỹ thuật. Tương
ứng với đặc điểm nội dung bài học, phương pháp NVĐ là
phương pháp dạy học ưu thế nhằm thực hiện tốt mục tiêu DH
cho đối tượng học viên là người lớn. Phương pháp NVĐ giúp
cho GV tạo môi trường thuận lợi để phát huy tính tích cực của
HV. Bên cạnh đó, đây là PP phù hợp để GV tổ chức cho HV
học một cách chủ động. Những hạn chế của dạy học theo tiếp
cận nội dung được hóa giải, không còn tình trạng thụ động
tiếp nhận tri thức theo kiểu một chiều của người học, tránh
được hiện trạng giáo viên độc thoại trong dạy học truyền
thống. Một thế mạnh nội dung bài học gắn liền với công tác
xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay, do đó
phương pháp cho phép GV có nhiều thuận lợi để đưa học viên
vào tình huống có vấn đề, giúp HV phát hiện và GQVĐ. Nhờ
đó, GV cũng huy động kinh nghiệm, hiểu biết đã có của người
học nhằm làm rõ nội dung Chính của bài học.
Mặc dù bài học có tính lý luận cao nhưng lại có tính thực
tiễn sâu sắc. Cho đến nay, những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ va công tác cán bộ vẫn còn
nguyên giá trị, nhất là trước hiện thực cán bộ vâ công tác cán
bộ hiện nay. Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII đã thảo luận về vấn đề này và đề ra
nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác cán bộ để xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp có đủ năng lực, phẩm chất ngang tầm
nhiệm vụ của thời kỳ mới. Phương pháp sẽ thúc đẩy, tạo môi
trường để học viên gắn nội dung bài học với thực tiễn, thấy
được tính đúng đắn trong các luận điểm của Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ, hiểu được sự vận dụng tư tưởng
của Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó mỗi
học viên tin tưởng, ủng hộ, thực hiện nghiêm những quy định
có liên quan của tổ chức. Đặc biệt, HV hiểu và biết vận dụng
để tự giáo dục, thực hiện tốt công việc ứng với vị trí việc làm
của bản thân.
Phương pháp NVĐ giúp giảng viên có cơ hội đánh giá về
người học, phân hóa người học dựa vào mức độ và chất lượng
tham gia GQVĐ của người học. Từ đó, GV có điều kiện đánh
giá, hiệu chỉnh, cải thiện chất lượng dạy học bài học. Hạn chế
và dần khắc phục tư tưởng coi học về Tư tưởng Hồ Chí Minh
như là trách nhiệm.
Qua việc phát hiện và GQVĐ, học viên được học bằng
hình thức khám phá, tự xây dựng tri thức cho mình, huy động
kinh nghiệm, gắn những hiểu biết mới với kinh nghiệm đã có,
hiểu biết đã có. Từ đó, học viên hiểu sâu, nắm vững những
luận điểm về cán bộ và công tác cán bộ đáp ứng mục tiêu dạy
học đề ra. Ý thức được sự cần thiết của nội dung bài học gắn
với thực tiễn công tác cán bộ và vị trí việc làm của bản thân
học viên giúp cho mỗi cá nhân học viên tham gia học tập
nghiêm túc, có trách nhiệm, có động cơ rõ ràng.Từ đó, người
học ý thức hơn, hứng thú hơn, chủ động hơn trong học bài