Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT vấn đề TRONG dạy học CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH ở TRUNG tâm bồi DƯỠNG CHÍNH TRỊ HUYỆN PHÚ hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.21 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬDỤNG
PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
CHUYÊN ĐỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Cơ sở lý luận của phương pháp giải quyết vấn đề trong
dạy học chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Khái niệm Phương pháp giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề còn được gọi là dạy học nêu vấn
đề, dạy học giải quyết tình huống có vấn đề, dạy học phát hiện và
giải quyết vấn đề... Dạy học giải quyết vấn đề là giảng viên đặt ra
những tình huống có vấn đề, đưa người học tự tìm ra kiến thức để
giải đáp cho vấn đề được đặt ra, kích thích cho học viên tự học,
rèn luyện cho bản thân có sự độc lập trong học tập vả khả năng
nhận thức và phản biện, và làm cho người học tự nâng cao được
trình độ lý luận và tư duy của bản thân.
Có nhiều quan niệm về dạy học giải quyết vấn đề như:
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo: “Dạy học giải quyết vấn
đề là hình thức dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri
thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết
hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ bản của sự tìm
tòi khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững
chắc những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực và năng lực
sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ” [1, tr41]


I.Ia. Lecne nhận định: “Dạy học giải quyết vấn đề là phương
pháp dạy học trong đó học sinh tham gia một cách hệ thống vào
quá trình giải quyết các vấn đề và các bài toán có vấn đề được xây
dựng theo nội dung tài liệu học trong chương trình” [20, tr.5 - 6]
V.Ôkôn nhà giáo dục người Ba Lan cho rằng: “Dạy học


giải quyết vấn đề là toàn bộ các hoạt động như tổ chức tình
huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý giúp đỡ học sinh
những điều cần thiết để giải quyết vấn đề kiểm tra cách giải
quyết đó cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các
kiến thức tiếp thu được” [28, 103].
Dạy học bằng phương pháp giải quyết vấn đề đặt người
học trước những khó khăn, những mâu thuẫn đòi hỏi các học
viên phải tìm cách thức để giải quyết những khó khăn, những
mâu thuẫn đó bằng khả năng tri thức của mình dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của giảng viên. Qua việc học tập tự tìm lời giải cho
bài toán nhận thức, làm thay đổi tư duy và nâng cao vốn kiến
thức của người học khoa học và tốt hơn.
Khi tiến hành dạy học nêu vấn đề việc đưa ra bài toán nhận
thức và tiến hành cho học viên giải quyết bài toán nhận thức,
phù hợp với việc thay đổi cách dạy và học tính đến thời điểm
này. Từ đó, cho thấy phương pháp giảng dạy này làm thay đổi


một cách toàn diện về khả năng nhận thức và năng lực tư duy
học hành của người học, đưa người học từ người bị động thành
người chủ động trong học tập.
Đặc trưng của Phương pháp giải quyết vấn đề trong dạy
học
Đặc trưng thứ nhất của phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề là trình bày tính có vấn đề, sử dụng khi học viên gặp các
câu hỏi khó, không tự giải quyết được. Giảng viên trình bày
theo kiểu nêu vấn đề không chỉ nhắc lại các luận điểm, nguyên
lý, mà còn vạch lôgíc của quá trình đi tới những kết luận nào đó.
Nêu rõ những mâu thuẫn, lệch lạc trên đường đi tới kết luận, vạch
rõ nguồn gốc phát sinh mâu thuẫn lệch lạc, giảng viên còn cần giải

thích những quan niệm mới vấn đề đó. Từ đó, học viên
thấy được khả năng tư duy và tìm tòi kiến thức mới một cách
chủ động và phát huy những kiến thức sẵn có của họ.
+ Lưu ý: Giảng viên trình bày nêu một vấn đề cần phải thực
sự xúc tích và dễ hiểu để học viên hứng khởi tham gia học tập.
Khi trình bày nêu vấn đề cần kết hợp các phương pháp thuyết
trình, thảo luận nhóm, đàm thoại, đồ dùng dạy học trực quan, ...
tạo cho người học chú ý vào bài toán nhận thức có tính vấn đề để
từ đó người học thật sự tích thú khi tham gia học tập.


Đặc trưng thứ hai là đàm thoại nêu vấn đề, bao gồm các câu
hỏi giúp người học tập trung tư duy của bản thân để tìm tòi những
tri thức mới để trả lời cho vấn đề được giảng viên nêu ra.
+ Khi giảng viên đưa ra câu hỏi bao gồm hai phần, câu hỏi
tái hiện và câu hỏi nêu vấn đề, trong đó câu hỏi nêu vấn đề là
thành tố chính.
Câu hỏi tái hiện sẽ làm cho người học tự tìm tòi ra kiến thức
để trả lời cho nội dung của vấn đề.
Giảng viên đưa ra câu hỏi có vấn đề, nhằm tạo cho người
học thấy được mâu thuẫn và từ đó người học tìm kiếm kiến thức
để giải đáp cho vấn đề được đặt ra của nội dung môn học .
+ Để thực hiện phương pháp đàm thoại nêu vấn đề, giảng
viên sử dụng các câu hỏi tái hiện và câu hỏi có vấn đề phải thật
suông sẻ, để từ đó câu hỏi tái hiện sẽ tác động tích cực đến người
học viên tự nghiên cứu tìm lời giải cho các câu hỏi có vấn đề.
+ Khi giảng viên tổ chức đàm thoại cho người học, cần phải
đặt ra các câu hỏi theo trình tự, tạo cho người học tự tư duy theo
hướng tích cực. Giảng viên nêu câu hỏi trước lớp học và yêu cầu
người học tìm ra lời giải theo từng câu hỏi nêu ra. Trong kiểu tổ

chức đàm thoại này sẽ làm cho cả lớp học cùng nhau suy nghĩ, tìm


lời giải trước cùng một câu hỏi và từ đó làm cho người học kết nối
với nhau qua việc cùng nhau thảo luận theo nhóm tại lớp. Lúc đó
người học tự nhận biết các tri thức mới của nội dung môn học khi
giải quyết các vấn đề của môn học.
+ Việc cho lớp học đàm thoại nêu vấn đề sẽ tạo cho người
học có khả năng chiếm lĩnh được nội dung của môn học. Và khi
đó giảng viên sẽ nhận biết được năng lực nhận thức của người
học.
Đặc trưng thứ ba là phương pháp tự tìm tòi và nghiên cứu,
giảng viên ra các bài tập nêu vấn đề dưới hình thức các đề tài
nghiên cứu như: báo cáo, chuyên luận... Giảng viên hướng dẫn,
kiểm tra kết quả.
Ưu điểm, hạn chế của phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề
- Ưu điểm của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực. Quan điểm
“Dạy học lấy người học làm trung tâm”, có những ưu điểm như:
Một là, phương pháp này đặt người học vào vị trí chủ động
khi học tập, làm cho bản thận tự giác tìm tòi những kiến thức mới


để giải đáp các vấn đề đã nêu và phát huy năng lực phản biện.
Phương pháp này tạo người học thận thức được những vấn đề
đúng hoặc sai của vấn đề được nêu ra.
Hai là, phương pháp này tạo cho người học thấy được khả
năng của bản thân khi xem xét, phát hiện và tự trả lời cho vấn đề

cần giải quyết, người học sẽ thể hiện hết được vốn tri thức của bản
nhân, để đóng góp cho nhóm của mình tìm ra lời giải đáp cho câu
hỏi có vấn đề mà giảng viên nêu ra. Sự trao đổi lẫn nhau trong
nhóm giúp người học tiếp thu được kiến thức của nhóm từ đó tự
rèn luyện bãn lĩnh tự tin thuyết trình trước lớp học.
Ba là, phương pháp dạy học nêu vấn đề tạo ra không khí hứng
khởi và người học tự tìm tòi những tri thức mới. Người học từ chỗ
chỉ biết ghi nhớ kiến thức thụ động trở thành người học tự tìm kiếm
và tìm ra những tri thức mới.
Bốn là, phương pháp dạy học nêu vấn đề giúp cho giảng viên
nhận biết được năng lực trình độ của học viên khi giải đáp câu hỏi
có vấn đề mà giảng viên đưa ra, và từ đó giảng viên sẽ chủ động
thay đổi các cách thức giảng dạy phù hợp với những học viên mà
mình đang giảng dạy.
Năm là, phương pháp này giúp cho người dạy linh hoạt trong
cách thức dạy học khi đứng lớp, người giảng viên giống như là


một nhà tổ chức định hướng cho người học chủ động tìm kiến
thức và tìm ra lời giải cho nội dung của môn học. Từ chỗ là người
truyền tải các kiến thức của nội dung môn học trở thành người có
tác động thúc đẩy người học chủ động tìm ra lời giải cho câu hỏi
có vấn đề của nội dung môn học.
- Hạn chế của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
Thứ nhất, việc nêu vấn đề cho mỗi lần tổ chức dạy học cần
có thời gian đầu tư tương đối khó khăn, trình độ của người học
còn nhiều chênh lệch, không có tiêu chí để phân nhóm, nhiều
người học có tâm lý ngại học đối với phương pháp này.
Thứ hai, người thầy cần có khả năng tổ chức, tư vấn,
truyền đạt thông tin đến tất cả các học viên. Các học viên trong

nhóm phải thống nhất cùng nhau tập trung nghiên cứu và tìm ra
tri thức để giải đáp cho vấn đề cần giải quyết.
Thứ ba, dạy học nêu vấn đề cần phải đầu tư thời gian, tìm
kiếm nhiều sách tham khảo. Người dạy phải tạo ra được tình
huống, hướng dẫn học viên học tập chủ động thì mới đạt kết quả
như mong muốn.
Thứ tư, phải có đưa ra những cách thức nhận xét thật phù
hợp, cách thức kiểm tra phải linh hoạt và thay đổi cách đánh giá


để giúp người học tự nâng cao kiến thức cho bản thân, nếu không
sẽ làm cho người học chủ quan, lơ là trong học tập.
Từ những phân tích ở trên cho thấy dạy học vấn đề làm cho
công tác giảng dạy và học tập đạt hiệu quả như mong muốn, tạo
không khí hứng khởi học tập cho người học. Dạy học giải quyết
vấn đề sẽ rèn luyện và nâng cao khả năng tư duy cho người học.
Dạy học giải quyết vấn đề cần có quá trình chuẩn bị rất công phu:
xác định tính có vấn đề của môn học, nội dung học tập của bài,
nắm bắt trình độ học viên, chọn phương án đưa ra tình huống có
vấn đề. Trong dạy học nêu vấn đề làm cho học viên học tập chủ
động và giảng viên cũng phải linh hoạt cách dạy, với những vấn
đề mà giảng viên đã có đáp án nhưng khi nghe người học giải
quyết vấn đề, giảng viên vẫn giữ vai trò của trọng tài khoa học.
Giảng viên cần phải biên soạn “kịch bản” dạy học, cần kết cấu bài
giảng sao cho tính thông tin và tính nêu vấn đề được kết hợp một
cách hợp lý. Mặt khác, dạy học theo phương pháp giải quyết vấn
đề không thể tiến hành một cách tự phát. Nó đòi hỏi việc đổi mới
giáo trình, tài liệu hướng dẫn và hàng loạt biện pháp tổ chức, khoa
học và sư phạm nữa.
- Nguyên tắc và quy trình thực hiện phương pháp giải

quyết vấn đề trong dạy học chuyên đề “Tư Tưởng Hồ Chí


Minh”
- Các nguyên tắc của phương pháp giải quyết vấn đề trong
dạy học chuyên đề “Tư Tưởng Hồ Chí Minh”
Thứ nhất: Nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất giữa tính khoa
học và tính giáo dục
Dạy học chuyên đề “tư tưởng Hồ Chí Minh” giúp học viên
rèn luyện khả năng lý luận khoa học và các quan điểm ... góp
phần rèn luyện bản lĩnh của người cán bộ, đảng viên, đoàn viên
ưu tú. Tính khoa học của nội dung bài giảng là cơ sở để giáo dục,
thuyết phục tư tưởng người học, đồng thời trang bị cho họ tri thức
lý luận khoa học để tự giáo dục, tự vận dụng để thay đổi những
nhận thức sai lầm, sửa đổi những tư duy lạc hậu tồn tại lâu nay.
Nguyên tắc này đòi hỏi giảng viên phải luôn kiên định mục
tiêu dạy học, kiên định các vấn đề đặt cho người học là tạo ra các
phẩm chất, bản lĩnh học tập cho họ. Để đảm bảo nguyên tắc này
cần phải:
Bảo đảm tính hiện đại của nội dung dạy học, phải thường
xuyên cập nhật những vấn đề mới nhất của sự phát triển lý luận và
thực tiễn.
Tăng cường hướng dẫn phê phán các nhận thức sai trái, các


phương pháp nhận thức siêu hình, phiến diện, xơ cứng... để định
hướng phát triển chính trị đúng đắng cho học viên.
Giúp cho học viên làm chủ những tri thức khoa học một cách
chính xác, bằng cách trình bày ngắn gọn, rõ ràng, có sức thuyết
phục, kết hợp giảng giải với hướng dẫn cho họ tập trung học tập.

Thứ hai: Nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
Theo triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ hoạt động
vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
tạo tự nhiên, xã hội”.
Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một khối thống nhất không thể tách rời khi người giảng viên
trong công việc giảng dạy, tạo cho người học tự tiếp thu tri thức
cho bản thân. Lý luận với kinh nghiệm thực tiễn và sự kiện thực
tiễn trong đời sống xã hội là các nội dung không tách rời nhau
trong từng bài giảng, từng nội dung giảng dạy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi khai mạc lớp Lý Luận
Chính Trị khóa I ngày 09/09/1957 đã nhận định: “Thực tiễn là vấn
đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật; đối với bất kỳ
vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao”, đều phải suy nghĩ kĩ càng


xem nó có phù hợp với thực tế hay không?” Nếu chỉ tuân theo
sách vở một chiều là thiếu tính thực tiễn vì tri thức sách vở mà
tách rời hoạt động thực tiễn thì chỉ là tri thức phiến diện, không
hoàn chỉnh. Đồng thời thực tiễn sẽ xác minh hay phủ nhận sự
đúng đắn của những quan điểm lí thuyết. “Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng, lý luận mà không có thực
tiễn là lý luận suông”.
Việc áp dụng nguyên tắc này trong quá trình dạy học
chuyên đề “tư tưởng Hồ Chí Minh”, góp phần cho người học
tiếp thu những kiến thức của người dạy truyền đạt nội dung kiến
thức sao cho đảm bảo việc học tập đạt hiệu quả cao, việc dạy
học chuyên đề “tư tưởng Hồ Chí Minh” mang tính thực tiễn rất
cao. Người giảng viên phải kết hợp giữa lý luận và thực tiễn áp

dụng vào bài giảng một cách sinh động, dưới sự điều khiển của
giảng viên, học viên chủ động học tập. Học viên có được nhận
thức mới cho bản thân, năng lực diễn đạt tư tưởng, nhận thức, lý
giải các vấn đề để trau dồi trình độ lý luận cho bản thân và khả
năng tiến hành công tác tư tưởng khi học tập các chuyên đề.
Thứ ba: Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Để thực hiện dạy học vấn đề cần phải biên soạn “kịch bản”
dạy học, kết cấu bài giảng sao cho tính thông tin và tính nêu vấn


đề được kết hợp sao cho thật phù hợp, từ đó người giảng viên phải
tự trau dồi trình độ và khả năng sư phạm, phù hợp với mục tiêu
dạy học hiện nay.
Tuy nhiên không thể sử dụng phương pháp nêu vấn đề theo ý
muốn, mà cần phải đổi mới cho môn học khi giảng dạy, bài giảng
và tài liệu hướng dẫn, hướng cho học viên học tập sao cho phù
hợp trong việc giảng dạy chuyên đề “tư tưởng Hồ Chí Minh” và
các chuyên đề khác.
Thứ tư: Nguyên tắc phát huy tính tự giác, tích cực của
người học
Nguyên tắc phát huy tính tự giác, tích cực của người học
xuất phát từ quy luật của nhận thức. Con người nhận thức thế
giới khách quan trong quá trình tác động tích cực đối với thiên
nhiên, trên cơ sở thực tiễn sản xuất xã hội.
Chủ động trong học tập, có hiểu biết, có mục đích học tập rõ
ràng, sáng tạo và tạo ra các hoạt động hứng khởi trong học tập,
nắm bắt vững chắc kiến thức vận dụng chúng vào trong học tập.
Khi giảng viên giảng dạy phải tạo ra không khí học tập tích
cực mà còn góp phần cho học viên nắm bắt được kiến thức tích
cực hơn. Người thầy đóng vai trò quan trọng để tạo ra buổi học



thật tích cực, đặt người học vào vị trí trung tâm của buổi học, mục
tiêu học tập phải cụ thể, khuyến khích cho học viên tự học và
kiểm tra, theo dõi và đánh giá mức độ học viên tự học tập. Sử
dụng các bước dạy học dưới đây:
Giảng dạy theo phương thức đặt câu hỏi cho học viên để họ
chủ động học tập.
Giảng viên đặt ra câu hỏi có mức độ khó gây người học chú
ý học tập, nếu đặt ra câu hỏi đơn giản sẽ làm cho chất lượng học
tập không cao.
Ra các bài tập yêu cầu có tư duy sáng tạo.
Học viên phải thật chủ động trong học tập, tìm kiếm kiến
thức để đáp ứng cho việc học tập của mình.
Học viên biết cập nhật những thông tin kiến thức liên quan
đến môn học mà bản thân học viên đang học.
Biết vạch ra kế hoạch học tập cho cá nhân.
Biết chuẩn bị những tài liệu học tập phù hợp với nhu cầu,
hoàn cảnh cá nhân.
Học viên phải có khả năng nhận định về tri thức môn học.
Dạy học nêu vấn đề đối với chuyên đề “tư tưởng Hồ Chí


Minh”, người dạy cần tạo ra tình huống dạy học điều khiển học
viên phát hiện tính có vấn đề, hướng dẫn học viên tự học tập,
mạnh dạng tranh luận và tham gia tìm kiếm tri thức mới, tìm ra lời
giải đáp cho tình huống có vấn đề của môn học, năng nổ học tập
tích cực, nhận biết được rõ bản chất của vấn đề, liên hệ thực tế để
giải đáp vấn đề, trên cơ sở đó sẽ khuyến khích người học nghiêm
túc học tập, chủ động liên hệ thực tiễn, phát huy sáng kiến, tìm

kiếm kiến thức, để giải quyết bài toán của vấn đề được đặt ra
trong nội dung môn học. Dành thời gian nhất định cho thảo luận
tập thể ở tổ, nhóm, lớp.
Thứ năm: Nguyên tắc bảo đảm tính vừa sức
Nguyên tắc bảo đảm tính vừa sức có nghĩa là khi dạy học đặt
ra những yêu cầu, nhiệm vụ học tập được phải vừa sức với đối
tượng, sao cho người học hoàn thành khóa học bằng khả năng
nhận thức và thể lực của họ. Muốn vậy phải đảm bảo tính vừa sức
đồng thời sử dụng có hiệu quả những giáo cụ trực quan, dụng cụ
hỗ trợ dạy học...
Tính vừa sức trong dạy học có giúp cho người học nhận ra
năng lực khi học tập của họ. Tuy nhiên việc giảng dạy đặt ra
những vấn đề không có sự đổi mới hoặc mơ hồ, không rõ ràng sẽ
làm mất đi sự chú tâm của người học khi học tập.


Tính vừa sức trong dạy học nêu vấn đề đối với chuyên đề
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” cho thấy, đảm bảo tính vừa sức đối với
người học góp phần phát triển khả năng tiếp cận thông tin của
môn học. Giảng viên cần biết rõ năng lực học tập của từng học
viên về: tiếp nhận thông tin, học tập tự giác, thích thú học tập, khả
năng ghi chép và trình bày chính kiến của họ.
Khi giảng dạy, người dạy truyền tải kiến thức cho người học
từ vấn đề có mức độ dễ đến vấn đề có mức độ khó, vấn đề từ mức
độ đơn giản đến vấn đề có mức độ phức tạp. Khi ở trên lớp giảng
viên phải luôn theo dõi hoạt động và khả năng nắm bắt tri thức
của học viên, linh hoạt điều chỉnh việc học tập của học viên.
Khi giảng viên đứng lớp phải nhận biết những phản hồi từ
phía học viên thông qua ánh mắt, thái độ của họ khi học tập, qua
việc tổ chức đàm thoại, thảo luận và cả kiểm tra đánh giá để nắm

bắt được khả năng lĩnh hội kiến thức, mục đích của học viên để từ
đó giảng viên kịp thời điều chỉnh cách thức dạy học của mình.

- Quy trình thực hiện phương pháp giải quyết vấn đề trong
dạy học chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
Giai đoạn 1: Đặt vấn đề


Quy trình thiết kế
Giảng viên giao nhiệm vụ nhận thức thông qua việc đặt tình
huống có vấn đề, diễn giải tình huống đó với mục đích là giúp
người học hiểu được vấn đề, để tìm lời giải đáp cho vấn đề được
nêu ra.
Yêu cầu đối với giảng viên:
+ Giảng viên đặt ra vấn đề phải rõ ràng, dễ hiểu, không gây
sự nhầm lẫn ở người học, khiến người học khó tiếp cận tình huống
có vấn đề nêu ra.
+ Vận dụng các nguyên tắc dạy học của chuyên đề “tư tưởng
Hồ Chí Minh”.
+ Vấn đề đưa ra phải gắn với nội dung môn học, thu hút và
gây cho họ hứng khởi học tập.
+ Tình huống có vấn đề nêu ra phải trở thành mâu thuẫn cho
nhận thức của người học, tạo ra động lực thúc đẩy mong muốn
giải quyết mâu thuẫn.
+ Vấn đề nêu ra nên chứa đựng các gợi ý giải đáp vấn đề dẫn
đến xuất hiện giả thuyết và đưa ra câu trả lời đúng cho vấn đề đó.
+ Giảng viên cần nói chậm, chỉ ra các ý trọng tâm, các chỗ


nghi vấn để tạo cho học viên ghi nhớ thông tin theo lôgíc.

+ Giảng viên đưa ra vấn đề phải thích ứng với trình độ học
viên.
Trình tự thực hiện của giảng viên
+ Giảng viên nêu ra tình huống có vấn đề, hướng cho học
viên nhận biết được tình huống đó.
+ Giảng viên sẽ hệ thống các câu hỏi dẫn dắt ra để giúp đỡ
cho học viên giải quyết cho tình huống đưa ra.
+ Đặt ra câu hỏi nghi vấn, câu hỏi mở để tạo sự chú ý của
người học, từ đó làm cho học viên thấy được đó là việc học của
họ.
+ Làm cho người học biết đó là vấn đề mà việc giải quyết
hết sức cần thiết với chính họ.
Nhiệm vụ của học viên:
Học viên phải hiểu biết được vấn đề mà người dạy đặt ra,
biết được nội dung của môn học và tự họ rèn luyện để có khả
năng giải quyết vấn đề.
Quy trình thực hiện trên lớp


Nghiên cứu trước các vấn đề đặt ra, diễn đạt sao cho thật
ngắn gọn, xúc tích để trình bày vấn đề cho học viên dễ nắm bắt
nhất.
Giảng viên nêu ra vấn đề từ đơn giản đến phức tạp, vấn đề
đó phải dễ hiểu và phù hợp với trình độ của học viên, từ đó học
viên tự tìm ra lời giải đáp cho vấn đề đó.
Giảng viên cần nhấn mạnh ở câu hỏi có tính định hướng và
câu hỏi có tính trọng tâm tạo học viên chú ý đến bài học.
Giảng viên nên kết hợp cử chỉ, hành động, sơ đồ, tranh ảnh...
sao cho lớp học thật sự hứng khởi.
Cuối tình huống, giảng viên không diễn giải, không đưa ra

chỉ dẫn nhằm để học viên tự tìm lời giải cho vấn đề đặt ra.
Giai đoạn 2: Nghiên cứu và giải quyết vấn đề
Quy trình thiết kế
Giảng viên làm cho học viên biết được vấn đề vừa nêu ra
trong khả năng nhận thức của họ những kiến thức đã có, những
kiến thức chưa có, phải suy nghĩ để tìm ra lời giải đáp cho vấn đề
được nêu ra.
Yêu cầu đối với giảng viên


+ Giảng viên đưa ra vấn đề phải xúc tích, ngắn gọn và vấn
đề đó phải ở dưới dạng nghi vấn.
+ Định hướng cho người học tự xác định chính xác nội
dung cần nghiên cứu.
+ Kết hợp các phương thức dạy học thảo luận nhóm, đàm
thoại và giáo cụ trực quan để giúp người học tìm ra câu trả lời cho
vấn đề nêu ra.
+ Giảng viên đưa ra những câu hỏi dẫn dắt: bao gồm câu hỏi
chính, câu hỏi phụ, câu hỏi gợi mở giúp học viên tự giải đáp cho
vấn đề đó.
Trình tự thực hiện đối với giảng viên
+ Giảng viên nêu ra vấn đề ở dạng giả thuyết để học viên tìm
lời giải cho vấn đề được đặt ra.
+ Cho học viên thảo luận nhóm, các nhóm sẽ đưa ra ý tưởng,
các kiến thức cần có để giải đáp cho vấn đề nêu ra.
+ Quy định thời gian để học viên tìm ra câu trả lời.
+ Gọi học viên lên trả lời.
+ Giảng viên tổng kết và kết luận để đưa ra lời giải cuối
cùng.



Nhiệm vụ của học viên
Học viên phải biết tìm kiếm tài liệu, đọc sách và phải có khả
năng khái quát được nội dung tri thức của môn học, để từng bước
tìm ra lời giải đáp cho vấn đề cần giải quyết .
Quy trình thực hiện trên lớp
Giảng viên đưa ra vấn đề cho cả lớp cùng nhau tập trung
nghiên cứu.
Tổ chức thảo luận nhóm, giảng viên quyết định phân chia
nhóm, các nhóm tiến hành thảo luận, trao đổi tập hợp các kiến
thức của các bạn học trong nhóm. Giảng viên gọi nhóm trưởng
của các nhóm lên trả lời trước lớp.
Giảng viên yêu cầu những thành viên của nhóm góp ý cho
nhóm mình đồng thời phản biện, bổ sung lời giải cho nhóm khác.
Giảng viên kết luận lời giải cuối cùng.
Giai đoạn 3: Kết luận vấn đề
Quy trình thiết kế
Học viên tìm những kiến thức mới với sự hướng dẫn của
người dạy để tìm lời giải cho vấn đề đặt ra, và đặt ra mục tiêu học
tập mới.


Yêu cầu đối với giảng viên
Giảng viên gọi học viên lên trả lời và rút ra kết luận cho vấn
đề.
Giảng viên đánh giá và kết luận nội dung của vấn đề cần giải
quyết.
Giảng viên đưa ra các vấn đề học tập mới cho người học từ
kết luận vừa rút ra.
Quy trình thực hiện trên lớp

Giảng viên yêu cầu học viên lên trình bày nghiên cứu rút ra
kết luận vấn đề.
Giảng viên nhận xét, kết luận rút ra tri thức cho buổi học.
- Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp giải
quyết vấn đề trong dạy học chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” ở Trung tâm bồi dưỡng lý luận chính trị Huyện Phú
Hòa, Tỉnh Phú Yên
- Khái quát về Trung tâm Bồi dưỡng lý luận Chính trị
Huyện Phú Hòa, Tỉnh Phú Yên
Đặc điểm, tình hình của cơ quan:


Trung tâm bồi dưỡng Chính trị Huyện Phú Hòa là đơn vị “sự
nghiệp giáo dục trực thuộc cấp ủy và UBND Huyện Phú Hòa” đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy Phú
Hòa, làm nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng về chương trình lý luận
Mác – Lênin, “tư tưởng Hồ Chí Minh”, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên trên địa bàn Huyện Phú Hòa; tổ
chức thông tin thời sự; chịu sự hướng dẫn trực tiếp về nội dung,
chương trình đào tạo, của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên.
Số lượng cán bộ,công chức, viên chức của đơn vị hiện nay
có 4 đồng chí gồm: 01 Giám đốc làm công tác quản lý chung, chủ
tài khoản; 01 Phó Giám đốc là giảng viên chuyên trách; 01 cán bộ
Kế toán – Văn phòng; 01 cán bộ phụ trách hành chính giáo vụ
kiêm thủ quỹ cơ quan. Ngoài ra Trung tâm hợp đồng thời vụ 01
nhân viên bảo vệ cơ quan có thời hạn.
+

Trình


độ:

++

Học

vấn:

THPT

04/04 đồng chí
++ Chuyên môn nghiệp vụ: Đại học

04/04 đồng chí

++ Lý luận chính trị: Cao cấp

02/04 đồng chí

Trung cấp

02/04 đồng chí


Lực lượng giảng viên kiêm chức: 10 đồng chí
+

Trình


độ:

++

Học

vấn:

THPT

10/10 đồng chí
++ Chuyên môn nghiệp vụ: Đại học

10/10 đồng chí

++ Lý luận chính trị: Cao cấp

10/10 đồng chí

Công tác giáo dục lý luận chính trị năm 2017.
Kết quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng:
Trong năm 2017 Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đã
phối hợp các phòng, ban của huyện tổ chức mở được 23/15lớp,
đạt và vượt 153,3% kế hoạch, với tổng số học viên là
2.392/1.300 học viên, đạt và vượt 184% kế hoạch ở tất cả
chương trình. Các lớp học tại Trung tâm đều có tổ chức kiểm
tra, thi Tốt nghiệp, viết thu hoạch, cấp giấy chứng nhận, bằng tốt
nghiệp cuối khóa đúng theo qui định của Ban Tuyên giáo Trung
ương.Cụ thể như sau:



Đánh giá xếp

Số lớp
ST
T

loại

Chương trình
giáo dục, bồi
dưỡng

G

Số
Chỉ
tiêu
giao

Th

Tỷ

ực

lệ

hiệ


đạt

n

%

hi

học

Tru

viên

ng
bình

Kh Gi ch
á
ỏi ú

Chương trình
I

giáodục, bồi
dưỡng
23
học

Lớp Đối tượng

1

kết nạp Đảng

02

03

150

188

năm 2017

viên
đạt
12,2
%

2

Lớp Bồi dưỡng
LLCT

02

02

100


114

11

66

99

học học
viê viê
n

n

đạt đạt
55, 52,
1% 7%
38

65

dành

học học học

đảng viên Mới

viên viê viê

năm 2017


đạt

n

n


×