Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH ở các TRƯỜNG CAO ĐẲNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.49 KB, 52 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở CÁC TRƯỜNG CAO
ĐẲNG

1


Cơ sở lý luận của việc sử dụng PPTLN trong dạy học
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Cao đẳng
Thảo luận nhóm và phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm
Khái niệm nhóm
“Nhóm là hai hay nhiều người cùng làm việc chung với
nhau để đạt được mục tiêu chung, cụ thể”[41]. Các nhóm tồn
tại để cùng hoàn thành những mục tiêu do giảng viên đặt ra.
Ví dụ, giải quyết một vấn đề của bài học, môn học cụ thể. Tuy
nhiên không phải bất cứ sự kết hợp nào cũng được xem là một
nhóm. Có nhiều người cùng đi chung, làm chung với nhau
nhưng lại không có cùng mục tiêu hay không có sự phụ thuộc
lẫn nhau thì không được coi là nhóm.
Khái niệm thảo luận nhóm
Có nhiều quan niệm khác nhau về thảo luận nhóm như:
“Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học xuất hiện
từ những năm 70 của thế kỷ 20, ở trường Đại học Sư phạm
của một số nước tiên tiến, bắt đầu từ môn học “Năng động tập
thể” (Group dynanies), một môn học dạy cho sinh viên kỹ
năng làm việc tập thể”[10;47]. Môn học này chuyên rèn luyện
kỹ năng làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên phương
2



pháp thảo luận trong dạy học ở tất cả các cấp học. Ở nước ta,
phương pháp TLN này được áp dụng rộng rãi trong dạy học
từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
“Thảo luận là hình thức tổ chức cho người học trao đổi,
tranh luận các vấn đề học tập, để tự rút ra được các kết luận
theo yêu cầu bài học”[7;98].
Trong cuốn “Giáo dục Đại học- phương pháp dạy và
học”, tác giả Lê Đức Ngọc cho rằng: “Thảo luận nhóm là một
sự trao đổi ý tưởng, quan điểm, nhận thức giữa các học viên,
để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các nội dung phù hợp với
hoạt động đào tạo” [12;33].
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận nhóm là
phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành
những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được
làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến
chung của nhóm mình về vấn đề đó”[16;233].
Theo Nguyễn Văn Cường: “Dạy học nhóm là một hình
thức xã hội của dạy học, trong đó sinh viên của lớp được chia
thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi
nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân

3


công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó
được trình bày và đánh giá trước lớp”[7;112].
PPTLN thực chất đã có từ rất lâu, theo ông Socratic nhà
triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, là một bậc thầy truy vấn
nổi danh. Đối thoại Socratic là hình thức hỏi – đáp nhanh trên

tinh thần dân chủ, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, để từ đó
những người tham gia cùng thảo luận, tìm ra chân lý. Thông
qua hình thức TLN, phương pháp này cũng thúc đẩy sinh viên
giúp đỡ lẫn nhau, dân chủ đưa ra ý kiến để giải quyết vấn đề.
Đây là phương pháp để sinh viên bàn luận, trao đổi trong
nhóm, giúp sinh viên tích cực chủ động, sáng tạo, tìm tòi
tham gia thảo luận, giảng viên đóng vai trò nêu vấn đề, gợi ý,
thiết kế và tổng hợp kết quả các nhóm.
Theo Nguyễn Đình Thọ: “Thảo luận nhóm là một kỹ
thuật thu thập dữ liệu phổ biến nhất trong dự án nghiên cứu
định tính. Việc thu thập dữ liệu được thực hiện qua hình thức
thảo luận giữa các đối tượng nghiên cứu với nhau dưới sự
hướng dẫn của nhà nghiên cứu. Nhà nghiên cứu trong trường
hợp này được gọi là người điều khiển chương trình”[11;78].
“TLN là một trong những phương pháp dạy học phát
huy được tính tích cực, tự giác của người học, tạo được một
môi trường học tập thuận lợi mà ở đó trí tuệ tập thể đã được
4


phát huy cũng như vai trò hoạt động xã hội của cá nhân được
trải nghiệm”[9;122]. Phương pháp này đòi hỏi ở giảng viên
phải có tâm huyết với môn học, với nghề và được đào tạo tốt,
hiểu rõ quy trình và có biện pháp tổ chức sử dụng hữu hiệu
phương pháp này thì người dạy có thể phát huy tối đa mặt tích
cực của phương pháp.
Các hình thức thảo luận nhóm
Dạy học là một quá trình kết hợp nhiều phương pháp
dạy học khác nhau. TLN là một hình thức dạy học phát huy
tính sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu

của sinh viên. Thông qua PPTLN sẽ phát huy được tính tích
cực, sáng tạo làm cho sinh viên thật sự là chủ thể, là trung tâm
của quá trình dạy học. TLN cũng gồm nhiều hình thức khác
nhau, hiệu quả của chúng tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Một số
hình thức TLN sau:
Nhóm nhỏ thông thường
Giảng viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ (5 - 7
người) để thảo luận một vấn đề cụ thể của nội dung bài học và
các nhóm phải nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về các vấn
đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các
phương tiện, kỹ thuật dạy học khác khi giảng dạy một bài
5


hoặc một tiết học. Nội dung thảo luận của nhóm thông thường
là các vấn đề có các câu hỏi nhỏ, ngắn gọn, nội dung súc tích,
thời gian ít khoảng (5 đến 10 phút.
Nhóm nhỏ rì rầm
Giảng viên chia lớp học thành các nhóm “cực nhỏ”
khoảng 2 - 3 người (thường là ngồi cùng bàn) để dễ trao đổi
với nhau và thống nhất trả lời một câu hỏi, giải quyết một vấn
đề, nêu một ý tưởng, một thái độ… Để nhóm rì rầm có hiệu
quả, giảng viên cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ liệu,
các gợi ý và nêu rõ các yêu cầu đối với câu trả lời để các
thành viên tập trung vào giải quyết. Việc chia lớp thành các
nhóm nhỏ “nhóm rì rầm” là biện pháp khắc phục tâm lý ỷ lại
của các thành viên khác, nhằm mục đích làm tăng hiệu quả
của PPTLN cũng như hiệu quả học tập của sinh viên.
Nhóm kim tự tháp
Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm. Sau khi thảo

luận theo cặp 2 - 3 người cùng bàn của nhóm rì rầm thì các
cặp nhóm kết hợp thành một nhóm có số lượng 4 - 6 người để
thống nhất phương án trả lời nhằm hoàn thiện vấn đề chung
của nội dung bài học.
Nhóm đồng tâm
6


Để thực hiện hình thức thảo luận nhóm theo hình thức
nhóm đồng tâm, giảng viên chia lớp thành hai nhóm: nhóm
thảo luận và nhóm quan sát, sau đó hoán vị cho nhau. Nhóm
có số lượng từ 6 - 10 người có nhiệm vụ thảo luận và trình
bày vấn đề được giao, còn các thành viên khác trong lớp đóng
vai trò là người quan sát và phản biện. Tiến hành TLN theo
hình thức nhóm đồng tâm rất có hiệu quả đối với việc làm
tăng ý thức trách nhiệm cá nhân trước và tạo cơ hội cho mọi
người trình bày ý kiến của mình trước tập thể lớp.
Nhóm khép kín và nhóm hở
Nhóm khép kín là các thành viên trong nhóm làm việc
trong khoảng thời gian dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt động
học tập từ giai đoạn đầu đến giai đoạn kết thúc. Nhóm hở là
các thành viên có thể tham gia một hoặc vài giai đoạn phù
hợp với khả năng và sở thích của mình. Hình thức này mang
lại cho người học có nhiều khả năng lựa chọn vấn đề phù hợp
để cá nhân chủ động về thời gian, về năng lực và sở trường
của mình.
Với phương pháp TLN, sinh viên được củng cố kiến
thức, được đào sâu, mở rộng nội dung bài học, môn học, bước
đầu biết phân tích, phê phán, lập luận, dẫn chứng để bảo vệ ý
kiến của mình trước tập thể. Qua thảo luận, giúp sinh viên nói

7


lên suy nghĩ, quan điểm của mình. Sự hiểu biết của họ trải qua
một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, kích thích được nhu cầu
nhận thức, phát triển trí thông minh, hứng thú trong sáng tạo.
Phương pháp thảo luận nhóm
Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
“Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt
động, phối hợp thống nhất giữa giảng viên và người học nhằm
thực hiện nhiệm vụ dạy học của nhà trường”[18;131].
Phương pháp thảo luận nhóm vừa phát huy được tính tích
cực, chủ động, tinh thần trách nhiệm, phát huy sự tự tin của
sinh viên, giúp phát huy các kỹ năng hợp tác làm việc nhóm,
kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề.
Từ những nghiên cứu trên, có thể khái quát định nghĩa
phương pháp thảo luận nhóm như sau: “Thảo luận nhóm là
một phương pháp dạy học trong đó lớp học được chia thành
các nhóm nhỏ để học sinh, sinh viên trong nhóm tích cực, chủ
động thảo luận những nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn
điều khiển của giảng viên”[18;223].
Đặc trưng của phương pháp thảo luận nhóm
Thứ nhất, phương pháp này được tiến hành bằng cách
thảo luận giữa các thành viên trong nhóm, tổng hợp thống
8


nhất kết quả sau quá trình làm việc tập thể của cả nhóm. Sinh
viên chủ động tìm tòi khám phá nguồn tri thức, theo sự hướng
dẫn và giao nhiệm vụ của giảng viên.

Thứ hai, phương pháp dạy học này giúp cho sinh viên
thêm chủ động, tích cực hơn trong việc vận dụng các tri thức
đã có để giải quyết nhiệm vụ học tập. Giúp hình thành cho
sinh viên các kỹ năng, tu duy, phân tích, suy nghĩ độc lập, khã
năng giao tiếp, tự tin trước đám đông.
Thứ ba, xây dựng tinh thần đoàn kết trong tập thể lớp,
phát huy ưu điểm và bổ sung hoàn thiện mặt hạn chế của cá
nhân.
Thứ tư, giúp rèn luyện các kỹ năng nhận xét, đánh giá
theo các tiêu chí cụ thể theo sự hướng dẫn của giảng viên.
Tóm lại, đây là phương pháp dạy học phát huy được mặt
tích cực của từng sinh viên và giúp các em nhận ra được mặt
hạn chế của cá nhân để khắc phục, tạo mối quan hệ giao tiếp
học hỏi, đoàn kết, xây dựng tinh thần tập thể, cá nhân có trách
nhiệm hơn với nhiệm vụ được phân công, hình thành kĩ năng
hợp tác và kỹ năng xử lý tình huống.
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm
9


Dạy học sử dụng PPTLN nếu được tổ chức tốt sẽ giúp
sinh viên có được những kiến thức và kỹ năng sau:
+ Tính chủ quan, phiến diện trong kiến thức của sinh
viên sẽ giảm đi và làm tăng tính khách quan khoa học. Nội
dung bài học sẽ được khắc sâu hơn, bền vững hơn và trong
quá trình giao lưu, trao đổi, tìm tòi kiến thức sinh viên sẽ nhớ
lâu và nhanh hơn. Kỹ năng diễn đạt và phương pháp tu duy là
hai ưu điểm của phương pháp này mà sinh viên có được.
+ Phương pháp TLN còn góp phần hình thành cho sinh

viên tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự tự tin. Nó đòi hỏi
sinh viên phải tự lực giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự
tham gia tích cực của các thành viên, có tinh thần trách nhiệm
với nhiệm vụ được giao và kết quả làm việc của mình.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc, tinh thần tập thể,
nên sinh viên yêu thích phương pháp này hơn. Kỹ năng cộng
tác làm việc, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và tính khoan
dung với người khác.
+ Sinh viên biết lắng nghe, chấp nhận ý kiến phê phán
người khác, phát triển năng lực giao tiếp, biết dùng lập luận, kiến
thức để bảo vệ chính kiến của mình.

10


+ PPTLN là phương pháp hỗ trợ quá trình học tập mang
tínhtập thể, cộng đồng, xã hội. Sinh viên được học tập trong
mối tương tác lẫn nhau, có thể giúp đỡ, chia sẽ lẫn nhau, tạo
lập, củng cố các mối quan hệ tập thể và không cảm thấy phải
chịu áp lực của giảng viên.
+ Tăng cường sự tự tin cho sinh viên, thông qua làm việc
giao tiếp, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc phải sai lầm.
+ Phát triển năng lực phương pháp làm việc nhóm, do
được rèn luyện học tập, thực hành với phương pháp làm việc
nhóm nên các em sẽ biết cách phối hợp và vận hành phương
pháp này.
+ PPTLN tạo khả năng dạy học phân hóa, các em sẽ
được làm quen với nhiều hình thức làm việc của phương pháp
này như: chọn theo hứng thú của chủ đề thảo luận, độ khó của
chủ đề thảo luận, cách thức học giống nhau hay đơn giản là

theo đội nam hay nữ.
+ Nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên, theo nghiên
cứu, so sánh các trường có kết quả dạy học tốt cao là do vận
dụng phương pháp dạy học TLN hiệu quả. Sinh viên có môi
trường thi đua lành mạnh, có mục tiêu phấn đấu chính đáng.

11


+ Tạo được mối quan hệ tốt giữa thầy – trò, giảng viên
có điều kiện hiểu rõ hơn về sinh viên của mình, thu được
những tri thức kinh nghiệm qua các ý kiến phát biểu có suy
nghĩ và sáng tạo của sinh viên, phát hiện và kích thích thi đua
lành mạnh, uốn nắn kịp thời cho việc học tập của sinh viên.
+ Thông qua PPTLN các em sẽ được chia sẽ những băn
khoăn, kinh nghiệm học tập lẫn nhau. Mỗi sinh viên sẽ biết
được sự hiểu biết của mình ở đâu để có kế hoạch học tập, trao
dồi kiến thức. Sự chủ động học hỏi lẫn nhau, đem đến kết quả
học tập như mong muốn. Sinh viên sẽ hăng say, nhiệt tình
tham gia hơn. Đây được gọi là phương pháp cùng tham gia.
Như vậy, sử dụng PPTLN được tổ chức tốt sẽ tăng
cường tính chủ động, tích cực của sinh viên, giúp sinh viên sẽ
tập trung vào bài học, phát triển các kỹ năng tư duy, óc phê
phán, giao tiếp và xã hội quan trọng khác.
Hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
Về phía giảng viên
+ Thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận: Việc lựa chọn vấn
đề thảo luận chưa hấp dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của
sinh viên.


12


+ Thao tác chia nhóm: Giảng viên chia nhóm quá lớn
hoặc quá nhỏ, do chưa nắm được tình hình lớp, không phù
hợp với vấn đề cần thảo luận và đặc điểm của lớp học.
+ Thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng do sinh
viên chọn một sinh viên khác trong nhóm chuyên trách,
không phải do nhóm tự bầu hoặc luân chuyển giữa các thành
viên trong nhóm. Nhiều sinh viên khác sẽ mất đi cơ hội được
thể hiện mình với nhiệm vụ được giao và trước lớp.
+ Thao tác giao nhiệm vụ: Một số giảng viên chưa giao
rõ ràng nhiệm vụ, chưa quy định cụ thể về thời gian thảo luận,
vì thế nhiều sinh viên lo làm việc riêng, không tập trung giải
quyết nhiệm vụ của nhóm, chưa hướng dẫn cách thức tình bày
sản phẩm của nhóm sau thảo luận.
+ Thao tác quan sát, hỗ trợ sinh viênkhi thảo luận: Do
sinh viên cao đẳng thường trên 50 em một lớp, nên giảng viên
dôi khi không bao quát hết lớp trong thời gian thảo luận. Đặc
biệt, khi nhóm gặp vấn đề khó thì không có giảng viên hỗ trợ,
tư vấn kịp thời.
+ Thao tác tổng kết: Nhóm trưởng đại diện nhóm sẽ
trình bày kết sản phẩm trước lớp. Sinh viên trong nhóm hoặc
nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giảng viên kết luận. Thao tác
này được lặp đi lặp lại khá đơn điệu.
Về phía sinh viên
13


+ Một số trường hợp giảng viên không giao nhiệm vụ

trước cho các nhóm chuẩn bị sẵn ở nhà, bên cạnh đó cũng còn
sinh viên về nhà không chuẩn bị bài trước giờ thảo luận.
+ Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít sinh viên làm
việc thật sự (nhóm trưởng và sinh viên khá, giỏi trong nhóm),
đa số các em thường ngồi nói chuyện và làm việc riêng. Hiện
tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu rìa,người
ngoài cuộc” diễn ra khá phổ biến, kể cả khi có người dự giờ
trong lớp. Do không ý thức được lợi ích của việc hợp tác thảo
luận nhóm mang lại nên nhiều sinh viên còn xem đó là cơ hội
để tan gẫu phí thời gian.
+ Câu trả lời của sinh viên thường lặp lại những vấn đề
trong giáo trình, thiếu sự sáng tạo.
+ Một số chủ đề thảo luận có nội dung phong phú, hấp
dẫn dễ khiến sinh viên thảo luận chệch hướng, tản mạn.
+ TLN thường gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
PPTLN nếu được đầu tư một cách bài bản sẽ mất nhiều thời
gian và đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo từ hai phía giảng viên và
sinh viên, do có nhiều công đoạn, nhiệm vụ nên đôi khi khó
mà tổ chức hoàn chỉnh trong một tiết học.
+ Do có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan và
cần sự đầu tư kỹ lưỡng nên đôi khi sẽ không mang lại kết quả
như mong muốn nếu không chuẩn bị chu đáo. Do đây là
14


phương pháp dạy học TLN nên sự thành công của tiết học phụ
thuộc rất nhiều vào tinh thần hợp tắc làm việc của từng cá
nhân trong nhóm.
+ Đây là phương pháp dễ gây hưng phấn cho sinh viên
nhưng cũng dễ tạo ta trạng thái mệt mỏi, trì trệ.

+ Nếu trong nhóm chưa có sự tập luyện về cách thức
làm việc nhóm, trưởng nhóm lại độc đoán, các thành viên lại
không tham gia thảo luận giải quyết nhiệm vụ, hoặc mọi
người trong nhóm đều bảo vệ quan điểm riêng của mình, thì
sẽ dễ dẫn đến mất đoàn kết nhóm và không hoàn thành nhiệm
vụ của nhóm.
+ Bên cạnh đó, có sinh viên còn bị động, sợ bị chỉ trích,
sợ phát biểu sai, sợ người khác thấy khuyết điểm, tránh tình
trạng hình thức, lạm dụng sử dụng phương pháp dạy học này
để chứng tỏ càng đổi mới.
Quy trình của phương pháp thảo luận nhóm
“Thảo luận là hình thức tổ chức cho sinh viên trao đổi,
tranh luận với nhau các vấn đề học tập để rút ra các kết luận
theo yêu cầu của bài học. TLN là phương pháp dạy học sử
dụng trí tuệ tập thể của sinh viên cùng đi tìm chân lý, một
trong những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện
15


nay”[22;30]. Tuy nhiên mỗi phương pháp thảo luận đều có
những ưu, nhược điểm riêng, vì vậy tùy thuộc vào tính chất,
nội dung và điều kiện dạy học khác nhau, giảng viên có thể
lựa chọn cho mình những hình thức TLN phù hợp nhằm mang
lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học.
Bước 1: Chuẩn bị nội dung thảo luận
+ Chọn chủ đề thảo luận
Giảng viên cần xác định rõ mục tiêu bài học, xây dựng
nội dung, cấu trúc chưng trình thảo luận, lên kế hoạch chi tiết
cho buổi thảo luận. Trước mỗi tiết thảo luận giảng viên cần
thông báo cho sinh viên về chủ đề, yêu cầu, nội dung thảo

luận để mang lại hiệu quả cao nhất.
Giảng viên cần cung cấp cho sinh viên chủ đề, câu hỏi
cần thảo luận để sinh viên định hướng và có sự chuẩn bị
trước. Giảng viên giới thiệu tài liệu, giáo trình cho sinh viên
tham khảo, hướng dẫn sinh viên cách thức tự đọc, tự tìm tòi
các kênh thông tin để sinh viên chắc lọc nội dung phù hợp,
cần nêu ra yêu cầu cụ thể đối với bài báo cáo của sinh viên
trước khi tiến hành thảo luận.
Giảng viên chuẩn bị tốt giáo án, nắm rõ quy trình thực
hiện, cách thức kiểm tra, đánh giá sau tiết dạy. Quy trình này
đòi hỏi người giảng viên phải nắm rõ những kiến thức lý luận
16


chung và kiến thức chuyên ngành nói riêng. Những nguyên
tắc, phương pháp, phương tiện, kỹ thuật dạy học được giảng
viên nắm vững và vận dụng hợp lý từng đối tượng sinh viên.
+ Xác định mục tiêu thảo luận nhóm
Giảng viên cần chỉ rõ cho sinh viên biết mục tiêu cần đạt
được sau buổi thảo luận là gì?
+ Thời gian thảo luận nhóm
Giảng viên quy định thời gian cụ thể cho tiết thảo luận là
bao lâu và tiến hành như thế nào và dự kiến các tình huống có
thể xảy ra trong quá trình thảo luận.
+ Yêu cầu các nhóm không thuyết trình vẫn phải tìm
hiểu, xem trước nội dung cần thảo luận, để chuẩn bị câu hỏi
trao đổi, thảo luận.
Giới thiệu một số mẫu báo cáo, thuyết trình trước đó
hoặc chính ngay cách trình bày của giảng viên để sinh viên
biết cách trình bày thảo luận, thành lập các nhóm thảo luận,

giới thiệu chủ đề, xác định nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm,
xác định cụ thể mục tiêu cần đạt được. Trước mỗi tiết thảo
luận giảng viên cần cung cấp cho sinh viên chủ đề, câu hỏi
cần thảo luận để sinh viên định hướng và có sự chuẩn bị
trước.
17


Bước 2: Tổ chức thảo luận nhóm
+ Chia nhóm thảo luận: Thảo luận nhóm bắt đầu từ TLN
rì rầm (có 2 sinh viên ngồi cùng bàn thảo luận với nhau), khi
cần mở rộng thì ghép hai nhóm ngồi đối diện nhau thành
nhóm 4, hoặc nhóm 8....Cả lớp có thể chia 4, 5 nhóm lớn.
+ Bắt đầu thảo luận
Giảng viên mở đầu tiết thảo luận: nêu rõ chủ đề thảo
luận, mục tiêu cần đạt được sau buổi thảo luận là gì?
+ Tiến hành thảo luận
Giảng viên tiến hành theo giáo án đã soạn, nêu ra các
câu hỏi, chủ đề thảo luận, các nhóm vào vị trí thảo luận.
Giảng viên quy định thời gian thảo luận, cách thức trình bày
báo cáo kết quả thảo luận của nhóm.
Các nhóm bầu nhóm trưởng, thư ký, phân công nhiệm
vụ cho từng thành viên trong nhóm tiến hành thảo luận. Giảng
viên quan sát tình hình thảo luận chung của lớp và có những
giải đáp kịp thời những thắc mắc của sinh viên khi cần cũng
như xử lý những tình huống phát sinh.
+ Tổng kết buổi thảo luận
Khi hết thời gian thảo luận, các nhóm lên trình bày kết
quả, các nhóm còn lại nhận xét bổ sung (nếu có). Giảng viên
18



đánh giá, nhận xét chung cho buổi thảo luận, chấm điểm cho
các nhóm. Sau đó, giảng viên nêu nhận xét về nội dung trình
bày của từng nhóm, nêu ưu, nhược điểm, đồng thời có thể nêu
thêm những vấn đề nảy sinh trong thảo luận để sinh viên tiếp
tục suy nghĩ. Khi thấy sinh viên đã trao đổi hết ý kiến, thì
giảng viên kết luận lại nội dung của nhóm trình bày và chuyển
sang nhóm kế tiếp.
Giảng viên có thể nêu một số vấn đề, câu hỏi để sinh
viên tiếp tục về nghiên cứu.
Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
Một là, chia nội dung bài giảng thành những vấn đề nhỏ,
những vấn đề này được coi là một chủ đề thảo luận.
Hai là, chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ, sử dụng linh
hoạt các PPTLN sao cho phù hợp với từng vấn đề thảo luận.
Ba là, mỗi nhóm đều phải có nhóm trưởng, thư ký để ghi
chép và tổng hợp ý kiến của từng thành viên trong nhóm.
Thứ tư, nên giao cho mỗi nhóm một chủ đề, do đó, cùng
một thời điểm có thể các nhóm sẽ thảo luận được nhiều vấn đề
khác nhau.

19


Thứ năm, giảng viên cần lưu ý, khích lệ những sinh viên
còn rụt rè, ngại ngùng chưa tự tin trong phát biểu, tạo cơ hội để
các em được thể hiện bản thân, mạnh dạn đưa ra quan điểm cá
nhân giải quyết nhiệm vụ nhóm.
Thứ sáu, giảng viên chủ động điều khiển buổi thảo luận

theo chủ đề nêu ra, một số vấn đề sôi nổi sinh viên dễ đi lạc
hướng.
Thứ bảy, các nhóm phải hoàn thành công việc được giao,
sau đó nhóm sẽ báo cáo, trình bày trước lớp để các nhóm khác
có thể có ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của các nhóm giảng viên sẽ
đưa ra kết luận.
Thứ tám, vận dụng phương pháp tích cực vào dạy học nói
chung và PPTLN nói riêng có một số giảng viên nhanh chóng
thích nghi, một số khác thì phải qua một vài lần mới có thể sử
dụng thành thạo được.
Tóm lại, khi áp dụng bất cứ phương pháp dạy học tích cực
nào cần phải có sự hiểu biết và sự đầu tư chuẩn bị của giảng
viên và sinh viên thì kết quả mới thành công. Có thể nói
phương pháp dạy học tích cực TLN là phương pháp mang lại
hiệu quả cao cho sinh viên, tăng cường tính chủ động, tích cực,
rèn luyện kỹ năng giao tiếp, khả năng tư duy giải quyết vấn đề,
20


tổ chức lãnh đạo, đề cao tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ
được giao và rèn luyện tác phong làm việc với tập thể, giúp sinh
viên phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế bản thân để tạo điều
kiện cho sinh viên có đầy đủ kỹ năng khi ra trường làm việc.
Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Cao đẳng
Nội dung môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, từ năm 2004, Bộ Giáo
dục và Đào tạo phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
– Sự thật xuất bản bộ giáo trình. Thực hiện các Nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là Nghị quyết Trung ương

5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu
cầu đổi mới, ngày 18-9-2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT ban hành Chương
trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên khối
không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất
bản giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng khối không chuyên ngành Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

21


Môn tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học được Bộ giáo
dục và Đào tạo quy định, được dạy ở bậc Cao đẳng chính quy
năm thứ 2, ở học kì I, với thời lượng 30 tiết – 2 tín chỉ.
Khái niệm Tư tưởng: “Là một hệ thống những quan
điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng
triết học (thế giới quan và phương pháp luận) nhất quán, đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc,
được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực”[4;9].
Khái niệm Nhà tư tưởng: “Theo Lênin một người xứng
đáng là nhà tư tưởng, khi người đó biết giải quyết trước người
khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về
tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải
một cách tự phát”[5;120].
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng

và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người”[4;12].
Cụ thể gồm chương mở đầu và 7 chương:
22


Chương Mở đầu: “Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
và ý nghĩa học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh” [4;9].
+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này là giới thiệu về đối
tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập môn tư
tưởng Hồ Chí Minh, thông qua các khái niệm, đối tượng,
nhiệm vụ nghiên cứu. Mối quan hệ của môn tư tưởng Hồ Chí
Minh với các môn học khác. Qua đó, môn tư tưởng Hồ Chí
Minh còn hướng dẫn phương pháp học tập nghiên cứu và nêu
lên ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
sinh viên.
Chương I: “Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển Tư
tưởng Hồ Chí Minh”[4;25].
+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này “là nêu lên cơ sở, quá
trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Bối cảnh
lịch sử, cơ sở khách quan và nhân tố chủ quan hình thành nên
tư tưởng Hồ Chí Minh”[4;26]. Qua đó, thấy được giá trị nền

23



tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng
Việt Nam và sự phát triển của thế giới.
Chương II: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc”[4;57].
+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này “là nêu lên vấn đề dân
tộc và dân tộc thuộc địa, mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc, tính chất, nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng
giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh làm phong phú
học thuyết Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa, soi đường
thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam”[4;60].
Chương III: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”[4;96].
+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này “là tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng
bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mục tiêu và động
24


lực của chủ nghĩa xã hội. Nêu lên đặc điểm, nhiệm vụ của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt Nam”[4;100].
Chương IV: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam”[4;128].

+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này “là quan niệm của Hồ
Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Xây dựng bộ máy nhà nước, công tác cán
bộ, về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống của cán
bộ đảng viên thật sự là Đảng trong sạch, vững mạnh”[4;130].
Chương V: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế”[4;163].
+ Số tiết giảng: 4 tiết
+ Số tiết thảo luận: 2 tiết
Nội dung chính của chương này “là tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Vai trò của
đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng, là mục tiêu nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc là
25


×