Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG dạy học môn NHỮNG vấn đề cơ bản của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN và tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.01 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG DẠY HỌC MÔN
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Lý luận chung về phương pháp thuyết trình
Khái niệm phương pháp thuyết trình
Khái niệm, bản chất phương pháp thuyết trình
Khái niệm "phương pháp" xuất phát từ thuật ngữ Hy Lạp
cổ "methodes" là con đường, phương tiện để đạt tới mục đích
hoặc có thể coi là con đường nghiên cứu, cách thức làm việc.
Phương pháp thuyết trình là PPDH đã có từ lâu và được
sử dụng rộng rãi trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay; đây là PPDH thường được nhiều giảng viên sử
dụng. Việc sử dụng hiệu quả phương pháp này phụ thuộc
nhiều vào kinh nghiệm, nghệ thuật diễn giải và thuyết phục
của giảng viên. Để hiểu hơn về phương pháp này, trước hết
cần làm rõ thuật ngữ “thuyết trình” là gì?
Trong cuốn từ điển Oxford (2005), thuyết trình được
định nghĩa là bài nói chuyện ngắn của một người với một
nhóm người để giới thiệu và mô tả một chủ đề cụ thể. Bên
cạnh đó, thuyết trình là một hình thức giao tiếp. Đây là hình
thức giao tiếp phức tạp, đòi hỏi có sự chuẩn bị kỹ càng trước


khi thực hiện nếu người thực hiện muốn có buổi thuyết trình
thành công.
Theo PGS.TS Dương Thị Liễu: “Thuyết trình là trình
bày bằng lời trước nhiều người về một vấn đề nào đó nhằm
cung cấp thông tin hoặc thuyết phục, gây ảnh hưởng đến


người nghe” [14, tr7]. Như vậy, thuyết trình diễn ra khá phổ
biến trong công việc, khi trình bày một vấn đề thuyết phục thì
người thuyết trình sẽ truyền đi một thông điệp trọn vẹn và
người nghe cũng sẽ tiếp thu như ý muốn, thông qua đó có thể
tăng uy tín của người thuyết trình cũng như khả năng ảnh
hưởng đến người khác.
Trong thực tiễn dạy học, phương pháp thuyết trình được
sử dụng khá thường xuyên. Vậy phương pháp thuyết trình là
gì?
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về phương pháp
thuyết trình:
Tác giả Nguyễn Văn Cư - chủ biên cuốn Phương pháp
dạy học CNXH khoa học, cho rằng: "Thuyết trình là phương
pháp giáo viên dùng lời nói để trình bày, giải thích nội dung
bài học một cách có hệ thống logic, theo chủ đích nhất định,


nhờ vậy người học sẽ tiếp thu bài giảng một cách có ý thức"
[4, tr58].
Tác giả Phùng Văn Bộ, cho rằng: "Thuyết trình là dùng
lời nói của giảng viên để trình bày, thuyết minh, khai thác,
phân tích nội dung lý luận nào đó. Thuyết trình nhằm mục
đích: truyền đạt kiến thức, thông báo hoặc thuyết lý một nội
dung khoa học" [2, tr71].
Tác giả Phan Trọng Ngọ, cho rằng: "Phương pháp thuyết
trình là phương pháp giáo viên sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về nội
dung học tập. Người học tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ
người dạy và xử lý chúng tùy theo tính chủ thể người học và
yêu cầu của dạy học" [15, tr187].

Tác giả Phạm Viết Vượng, cho rằng: "Phương pháp
thuyết trình là phương pháp giáo viên dùng lời nói để mô tả,
phân tích, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết giúp
cho học sinh nghe, hiểu và ghi chép đầy đủ" [23, tr181].
Như vậy, hiện đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về
PPTT, nhưng tựu chung lại, có thể hiểu, phương pháp thuyết
trình là phương pháp mà giảng viên sử dụng ngôn ngữ để


truyền đạt, giảng giải, trình bày sáng tỏ một nội dung khoa
học cụ thể, nhằm hoàn thành được nhiệm vụ giảng dạy của
mình.
Thuyết trình được sử dụng với hình thức tổ chức hoạt
động phong phú và vào các hoạt động dạy học khác nhau, qua
đó giúp người học lĩnh hội nhiều kiến thức mới, hình thành
nhiều kỹ năng, củng cố và hệ thống tri thức.
Các hình thức của thuyết trình:có 3 hình thức
Thuyết trình giảng giải:
Giảng giải là: GV sử dụng lời nói để giải thích, làm rõ
nội dung cho học viên hiểu và vận dụng các phạm trù, khái
niệm, quy luật. Thông thường, giảng giải được sử dụng khi
truyền đạt những kiến thức mới, bởi vì kiến thức này luôn
được xây dựng trên cơ sở của các phạm trù, khái niệm, quy
luật... Với loại thuyết trình này, GV cần diễn đạt rõ ràng,
chính xác theo trình tự logic, cần giảng giải tốt các phạm trù,
khái niệm, quy luật...
Thuyết trình diễn giải:


Diễn giải là: GV sử dụng phương pháp này để truyền đạt

một khối lượng lớn kiến thức có tính hệ thống và GV sử dụng
lời nói của mình để thực hiện việc diễn giải trong khoảng thời
gian rất dài. Diễn giải được dùng vào bài học có nội dung kiến
thức rộng, khó, phức tạp và khái quát cao. Điều đáng lưu ý
đối với GV cần đưa ra nhiều câu hỏi để hướng học viên tập
trung vào việc kích thích tư duy và giải quyết vấn đề của học
viên. Tuy nhiên, cần hạn chế tối đa các câu hỏi chỉ yêu cầu
học viên trả lời “có” hoặc “không”, mà cần đưa ra các câu hỏi
để học viên phải lập luận bằng những tri thức đã có hoặc bằng
thực tiễn. Diễn giải được thực hiện với ba bước:
Bước 1: GV đưa ra những kiến thức của nội dung bài cũ
và giới thiệu bài mới; nêu lên yếu tố quan trọng của nội dung
bài học hoặc nêu vấn đề, tình huống để giải quyết .
Bước 2: Đây là nội dung chính của bài học, giảng viên
phải tìm hiểu các nội dung của bài học để diễn giải theo cách
đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp với một logic chặt
chẽ...


Bước 3: GV khái quát lại nội dung bài học và nhấn mạnh
lại nội dung cốt lõi, cơ bản mà học viên cần nắm vững và
hiểu.
Thuyết trình kể chuyện:
Kể chuyện là: trong lúc dạy học giảng viên hướng dẫn
học viên tiếp cận và làm nổi bật nội dung của tri thức cần
truyền thụ bằng việc dùng lời nói biểu cảm. Nội dung câu
chuyện phải phù hợp với nội dung của bài học và kèm theo
cách kể chuyện lôi cuốn của GV sẽ giúp cho học viên dễ hiểu,
dễ nhớ và làm cho học viên chú ý bài học hơn. Qua câu
chuyện, GV nêu lên những hiện tượng, những sự kiện hoặc

nguồn gốc phát triển, phát sinh của những tri thức mà học
viên cần tiếp thu. Do vậy, giảng viên cần coi trọng việc chuẩn
bị các nội dung trước khi dạy học, việc chuẩn bị đó vừa phù
hợp trong phạm vi nội dung câu chuyện và vừa phù hợp với
nội dung bài học và cần tới việc sử dụng ngôn ngữ diễn đạt.
Lối kể chuyện phải dễ hiểu, trong sáng, không cầu kỳ và
không sử dụng quá nhiều ngôn ngữ văn học thay thế ngôn ngữ
khoa học của bộ môn. Các câu chuyện được được sử dụng để
kể trong bộ môn phong phú như chuyện kể về các nhà thông


thái, nhà triết học, hoặc những mẫu chuyện về người tốt, việc
tốt, khoa học,...
Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thuyết trình
Ưu điểm:
Với khoảng thời gian nhất định, bằng trình độ, kinh
nghiệm giảng dạy của mình trong thực tiễn, giảng viên sẽ
trình bày bài giảng một cách chủ động, lưu loát, hấp dẫn, có
tính hệ thống và qua đó sẽ chuyển tải đầy đủ lượng kiến
thức trừu tượng có tính khái quát cao mà các PPDH khác
khó thực hiện được.
Qua cách trình bày của GV khi sử dụng PPTT sẽ giúp
học viên nắm được nội dung bài học có tính hệ thống, logic;
việc đặt, giải quyết vấn đề và dùng ngôn ngữ diễn đạt các vấn
đề một cách chính xác, rõ ràng hơn.
Bằng phương pháp thuyết trình, giảng viên sẽ cung cấp
thêm thông tin thực tiễn từ bên ngoài so với tài liệu sách giáo
trình cho người học, giúp cho học viên ngoài việc nắm bắt lý
thuyết trên lớp sẽ có thêm kiến thức từ thực tiễn .



Trong quá trình lĩnh hội kiến thức, PPTT có khả năng
kích thích hoạt động học tập, tư duy của học viên, sẽ tạo niềm
tin, tình cảm của học viên.
PPTT sẽ định hướng người học khuôn mẫu về nhận
thức, tổng hợp các tài liệu học tập, hướng dẫn học viên cách
thức tự học, tự rèn luyện.
Hạn chế:
Trong quá trình thuyết trình, giảng viên sẽ tiếp nhận
được ít thông tin về phản hồi của học viên.
Sử dụng PPTT làm hạn chế tính tích cực của người học,
khả năng ghi nhớ nội dung của bài học thấp, làm cho học viên
bị thụ động, dễ mệt mỏi và nhàm chán..
Thời gian tập trung và duy trì sự chú ý của học viên vào
bài học thấp. Ngoài ra, thiếu điều kiện cho phép giảng viên
kiểm tra sự lĩnh hội tri thức của học viên.
Mặc dù có những hạn chế và có nhiều quan điểm phủ
nhận PPTT vì nó mang lại hiệu quả học tập thấp, tuy nhiên thì
PPTT vẫn có nhiều ưu điểm và chiếm nhiều lợi thế nếu chúng
ta biết sử dụng chúng hiệu quả.


Trong quá trình học tập, PPTT luôn đòi hỏi khả năng
diễn đạt của người thầy với chuyên môn cao và ngôn ngữ có
sức truyền cảm tốt cũng sẽ gây sự chú ý cho học viên. Với
những mặt tích cực của PPTT đó là trong khoảng thời gian
nhất định có thể đem lại nhiều kiến thức đối với học viên; học
viên có thể học được một cách giải quyết vấn đề khó từ giảng
viên, từ cách trình bày, phân tích nội dung như phân tích các
sự kiện lịch sử, các phạm trù, quy luật.. mà phương pháp khác

khó đem lại hiệu quả cao hơn như phương pháp thuyết trình.
Sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học môn
Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
-Đặc điểm tri thức môn học
Tri thức môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT
HCM là sự tích hợp tri thức các môn học:
+ Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần
I.1)
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh (phần I.2)


Chương trình môn học Những vấn đề cơ bản của
CNMLN và TT HCM dành cho học viên theo học lớp TCLL
chính trị - hành chính ở hai hệ: tập trung và không tập trung.
Kiến thức chung cho hai hệ gồm: 91 tiết. Trong đó, đối
với phần I.1- Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin
là 68 tiết, phần I.2- tư tưởng Hồ Chí Minh là 23 tiết.
Nội dung của bộ môn bao gồm kiến thức về: Những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và Những vấn đề
kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, Chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Liên minh công nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển TT HCM, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH,
TT HCM về đại đoàn kết, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân, TT HCM về cán bộ và công tác
cán bộ.
-Vai trò của thuyết trình với việc dạy học môn Những

vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM


Hiện nay, PPTT đang được sử dụng rộng rãi trong dạy
học môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM xuất
phát từ đặc điểm nội dung của bộ môn là sự khái quát những
vấn đề cơ bản của CN Mác - Lênin mà ở đó có các phạm trù,
khái niệm, quy luật… mang tính khái quát hóa, trừu tượng
hóa cao, được kết cấu theo logic và có mối quan hệ biện
chứng với nhau, chuyển hóa lẫn nhau cùng vận động phát
triển. Lúc này, PPTT được thể hiện tích cực vai trò của mình
trong việc giảng dạy lý luận chính trị với nội dung trừu tượng
tương đối khó, nếu người thầy không sử dụng tốt phương
pháp này thì bản thân mỗi học viên không dễ dàng lĩnh hội
đầy đủ kiến thức có trong giáo trình được.
Trong quá trình đổi mới PPDH, mặc dù không ít người
phê phán, thậm chí là chê bai, loại bỏ phương pháp này nhưng
thực tế cho thấy hiện nay và trong tương lai, PPTT vẫn đang
tồn tại và phát triển ngày càng phổ biến trong dạy học. Bởi lẽ,
việc sử dụng PPTT trong dạy học đã trở thành tập quán và
thói quen thường xuyên trong hệ thống giáo dục của nước ta.
Nếu loại bỏ hoàn toàn PPTT để thay thế bằng PPDH khác thì
chắc chắn chất lượng học tập sẽ bị giảm sút. Vì vậy, vấn đề


không phải là xem phương pháp này tốt hay không mà là xác
định những điều kiện để sử dụng nó có hiệu quả.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng phương pháp
thuyết trình
PPTT trong dạy học môn Những vấn đề cơ bản của

CNMLN và TT HCM là một việc không đơn giản, cần phải có
sự rèn luyện và tập luyện không ngừng. Có một số nhân tố từ
phía giảng viên và học viên ảnh hưởng đến hiệu quả thuyết
trình như:
Về phía giảng viên:
Thứ nhất, chuẩn bị không chu đáo
Dù là bậc thầy của thuyết trình cũng cần có sự chuẩn bị
chu đáo trước khi thuyết trình. Có thể với những nội dung
quen thuộc, người giảng viên thường tự tin và xem nhẹ khâu
chuẩn bị trước. Tuy vậy, mỗi lần thuyết trình đều có những
yêu cầu, đặc điểm khác nhau nên vẫn cần thiết phải có sự
chuẩn bị. Sự chuẩn bị không chỉ về nội dung và còn phải có
sự chuẩn bị về tâm lý. Để tránh được tình trạng này, không
nên chủ quan mà cần phải có sự chuẩn bị trước càng chu đáo


càng tốt. Chuẩn bị càng kĩ thì tỉ lệ thành công của buổi thuyết
trình càng cao.
Thứ hai, không đánh giá đúng đối tượng (người học
viên)
Đối tượng (người học viên) là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến thành công của bài thuyết trình. Một khi người
giảng viên không tìm hiểu thông tin, đặc điểm của đối tượng
mình sẽ truyền đạt tri thức như: giới tính, tầng lớp, trình độ,
nghề nghiệp… thì sẽ không xác định được phương pháp tác
động phù hợp. Tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng mà
người giảng viên sẽ chọn phương pháp tương ứng. Khi thuyết
trình trước chuyên gia hay đồng nghiệp cùng chuyên môn đòi
hỏi bài thuyết trình phải mang tính học thuật cao với những
lập luận hết sức logic, chặt chẽ thì mới có thể thuyết phục

được họ. Thuyết trình trước thanh niên sẽ có những yêu cầu
hoàn toàn khác so với lứa tuổi trung niên và người lớn tuổi.
Để có thể đánh giá đúng đối tượng thì trước khi sử dụng
PPTT cần tìm hiểu kỹ đối tượng mà chúng ta giảng dạy từ đó
sẽ xác định ra các phương pháp và hình thức thuyết trình phù
hợp với đặc điểm của đối tượng học viên và hiệu quả của


thuyết trình sẽ được đánh giá cao nhất, đạt đến sự mong đợi
tốt nhất..
Thứ ba, thiếu tự tin
Đây là tình trạng thường gặp phải của một số giảng viên
khi thuyết trình. Trong quá trình thuyết trình hầu hết người
giảng viên đều cảm thấy hồi hộp, căng thẳng, và nếu không
biết kiểm soát, chế ngự sự lo lắng thì chính những điều này sẽ
làm ảnh hưởng đến bài thuyết trình, làm cho bài thuyết trình
kém hiệu quả. Do vậy, người giảng viên cần nỗ lực nhiều hơn
khi thuyết trình và góp phần nâng cao hiệu quả của bài thuyết
trình.
Ngoài những yếu tố này, kiến thức, kinh nghiệm, tâm lí
của người giảng viên cũng rất quan trọng. Khi người GV
không có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm dạy học kém và
tâm lí không vững vàng, cũng sẽ làm cho bài thuyết trình kém
hiệu quả.
Về phía học viên:
Trong suốt quá trình học tập, người học đóng một vai trò
rất quan trọng; nếu như GV là người truyền đạt kiến thức thì


người học sẽ là người tiếp thu những tri thức đó. Tinh thần,

thái độ học tập, sự tích cực tham gia vào bài giảng của học
viên sẽ có vai trò rất lớn đến việc kích thích sự hưng phấn,
hăng say, nhiệt huyết của giảng viên và điều này ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả của bài thuyết trình. Mặt khác, trình độ
nhận thức, sự hiểu biết thực tiễn của học viên cũng là những
yếu tố tác động đến bài thuyết trình của giảng viên. Nó đặt ra
đòi hỏi giảng viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi
thuyết trình sao cho phù hợp với đối tượng…
Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng PPTT trong dạy học
môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Chính trị tỉnh Phú Yên
Khái quát về Trường Chính trị tỉnh Phú Yên
Trường đào tạo cán bộ công nông tỉnh Phú Yên (nay là
Trường Chính trị tỉnh Phú Yên) có quyết định thành lập ngày
14/11/1949. Sau ngày đất nước thống nhất, thực hiện chủ
trương hợp nhất hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa thành tỉnh
Phú Khánh, Trường Đảng tỉnh Phú Yên và Trường Đảng tỉnh
Khánh Hòa cùng hợp nhất từ ngày 10/01/1976 và lấy tên là
Trường Đảng tỉnh Phú Khánh. Sau khi tái lập lại tỉnh Phú


Yên, ngày 16/7/1989 Trường Đảng tỉnh Phú Yên chính thức
hoạt động trở lại. Ngày đầu thành lập Trường từ chỗ bộ máy
có 5 giáo viên và 4 chị vừa phục vụ vừa cấp dưỡng, cho đến
nay tổng số cán bộ, công chức, viên chức là 49 người, Đảng
bộ nhà trường có 31 đảng viên, có 25 giảng viên trong đó có 6
giảng viên chính, 1 chuyên viên cao cấp, 16 giảng viên có
trình độ thạc sĩ, 12 giảng viên có trình độ cao cấp lý luận
chính trị.
Trường Chính trị tỉnh là đơn vị sự nghiệp trực thuộc

Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường
trực Tỉnh ủy. Theo Quyết định số 3835-QĐ/TU, ngày 25
tháng 9 năm 2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị
tỉnh.
Trường Chính trị tỉnh có chức năng tổ chức đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp cơ sở,
cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh về lý luận chính trị hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính
sách và PL của NN; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về
công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và


các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản
lý Nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Nhiệm vụ của nhà trường:
+ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị
trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng ban,
ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó
phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương;
cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp
cơ sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; về Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và
Nhà nước và một số lĩnh vực khác.
+ Đào tạo TCLL chính trị - hành chính cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ, công
chức, viên chức của tỉnh.
+ Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo,

chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo,
quản lý; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở.


+ Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã, cấp thị xã và thành phố thuộc tỉnh.
+ Đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi
dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương.
+ Phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, hướng dẫn và
bồi dưỡng nghiệp vụ, PPDH cho đội ngũ giảng viên của
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
+ Tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học
tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở.
+ Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối tượng đã
nêu trên theo chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Đối tượng học viên của trường, gồm:
+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức, dự nguồn của
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân cấp cơ sở.
+ Cán bộ đương chức, dự nguồn trưởng, phó phòng, ban
cấp huyện và tương đương.


+ Trưởng, phó phòng thuộc sở, ban, ngành cấp tỉnh và
tương đương.
Với sự đa dạng về đối tượng như vậy nên chương trình
học tập của trường cũng được xây dựng đa dạng, phù hợp với
từng đối tượng: Lớp nhận thức về Đảng; Lớp TCLL chính trị hành chính; Lớp Bồi dưỡng kiến thức Quản lý NN; Lớp Bồi
dưỡng cho các đối tượng 3, 4 và bồi dưỡng chức danh; Lớp

bồi dưỡng giảng viên và giảng viên kiêm chức ở các huyện;
Lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ đoàn thể.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong những năm qua,
công tác GD và ĐT, bồi dưỡng được đẩy mạnh, cụ thể: qua 3
năm, từ năm 2011 đến năm 2016 nhà trường đã mở được 35
lớp hệ đào tạo, với 2.986 học viên (4 lớp cao cấp lý luận
chính trị - hành chính với 439 học viên; 30 lớp trung cấp lý
luận chính trị- hành chính, với 2.442 học viên, 1 lớp đại học
hành chính, 105 học viên); mở được 74 lớp hệ bồi dưỡng,
trong đó có: 4 lớp chuyên viên chính, 5 lớp chuyên viên và 2
lớp trí thức trẻ, liên kết với Sở Nội vụ và các sở, ban, ngành,
hội, đoàn thể trong tỉnh mở 63 lớp hệ bồi dưỡng ngắn ngày.
Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường trong
thời gian qua luôn vượt kế hoạch, việc giảng dạy đi vào nền


nếp, chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên; các GV
đã chú trọng đổi mới PPDH theo hướng lấy HV làm trung
tâm, tăng cường đối thoại, rèn luyện kỹ năng cho người học.
Nhà trường luôn quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo
viên có trình độ chuyên môn cao, bản lĩnh chính trị vững vàng
đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của học viên và xã hội.
Tập trung đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học để nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Xây dựng môi trường giáo
dục trong nhà trường lành mạnh, tăng cường quản lý dạy và
học, triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định, nội quy,
quy chế của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, của
Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân Tỉnh; tăng cường xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho nhà trường đáp ứng yêu cầu ngày càng
nhiều học viên về tham gia học tập tại trường, xứng đáng là

trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh; là bước kế tục
sự nghiệp cách mạng của cha anh trong giai đoạn cách mạng
mới.
Thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình trong
dạy học môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Chính trị tỉnh
Phú Yên


- Khảo sát thực trạng sử dụng PPTT trong dạy học môn
Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh
Trong hệ thống các PPDH ở nước ta, PPTT được sử dụng
ở tất cả các bộ môn và các cấp học. Trên thực tế PPTT, vẫn
tiếp tục tồn tại và tỏ rõ ưu thế của nó trong dạy học các môn
khoa học xã hội nói chung và các bộ môn lý luận chính trị tại
Trường Chính trị Phú Yên nói riêng so với các phương pháp
khác. Tuy nhiên, hiện nay bên cạnh một số giảng viên của
trường đã tích cực đổi mới PPTT trong dạy học một cách hiệu
quả cũng còn có những giảng viên chưa tích cực, chủ động,
ngại đổi mới, vẫn sử dụng PPTT theo lối truyền thống.
Tác giả đã khảo sát, lấy phiếu thăm dò ý kiến của 07 GV
của Khoa Triết học Mác-Lênin và học viên 2 lớp K95 (gồm
67 học viên) và K97 (gồm 70 học viên), về việc dạy và học
môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM ở trường
Chính trị tỉnh Phú Yên, với những nội dung như sau:
Trong quá trình dạy học, mức độ GV đã sử dụng các
PPDH.


Thái độ học tập môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN

và TT HCM của học viên.
Nhận thức của GV, HV về sự cần thiết phải đổi mới
PPTT trong dạy học môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN
và TT HCM.
Những khó khăn ảnh hưởng đến việc đổi mới PPDH của
GV.
Phương pháp nghiên cứu: dự giờ và phát phiếu khảo sát
điều tra để thu thập thông tin; thống kê toán học để đánh giá
kết quả điều tra.
Kết quả khảo sát giảng viên:
Với mục đích để tìm hiểu mức độ nhận thức của GV và
HV trong việc đổi mới PPTT dạy học môn Những vấn đề cơ
bản của CNMLN và TT HCM ở trường chính trị tỉnh Phú Yên.
Tác giả đã tiến hành khảo sát 07 GV của Khoa Triết học MácLênin và thu được kết quả như sau:
Tìm hiểu việc sử dụng các PPDH của các giảng viên
trong Khoa
- Kết quả tìm hiểu việc sử dụng các PPDH của GV


Sử
dụng
S
TT

PP sử
dụng

Ít sử

thườn



người
Thuyế

Đàm

Trực

2

S


người

Nêu

Thảo

Động

T
L%


người

T
L%


1

0

0

0

0

5

2

2

1

1

8,6
2

4

8,6
2

2


2

5

3

1

2

4

2

2

4

2
8,6

2

3

8,6
0

1

4,3

2,8

8,6
0

4,3

7,1

8,6

luận nhóm
6

S

7,1

vấn đề
5

L%

4

quan
4


sử dụng

00

thoại
3

T

7

t trình
2

dụng

g xuyên
S

1

Không

4
2,8

5

3


4


não
7

7,1

2,9

Đóng

0

0

0

0

0

0

Dự án

0

0


0

0

0

0

vai
8

Như vậy, qua kết quả ở bảng có thể thấy được PPDH
truyền thống như phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm
thoại được sử dụng rất nhiều, thường xuyên; phương pháp trực
quan, nêu vấn đề, thảo luận nhóm có sử dụng nhưng rất ít; còn
phương pháp đóng vai và phương pháp dự án không có GV
nào sử dụng.
Tìm hiểu nhận thức của GV về mức độ tích cực học tập
của học viên khi GV chỉ sử dụng PPTT trong dạy học môn
Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TTHCM
- Nhận thức của GV về mức độ học tập của HV
Mức độ

Số người

TL (%)

Rất tích cực

0


0

Tích cực

0

0


×