Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP về ý NGHĨA tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG hồ CHÍ MINH về GIÁO dục đối với VIỆC đổi mới GIÁO dục HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.19 KB, 41 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP VỀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG
HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐỐI VỚI VIỆC ĐỔI MỚI GIÁO
DỤC HIỆN NAY


- Yêu cầu cấp thiết đổi mới giáo dục hiện nay
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
đang đặt ra ngày càng cấp thiết. Thứ nhất, do chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo ở nước ta còn thấp so với yêu cầu của
công cuộc đổi mới, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp. Hiện nay, toàn quốc có hơn 70.000 cử nhân, kỹ sư,
thạc sĩ tốt nghiệp ra trường, nhưng không tìm được việc làm,
hoặc có việc làm nhưng không đúng nghề đào tạo; nhiều
người được tuyển chọn phải đào tạo lại mới sử dụng
được. Thứ hai, hệ thống giáo dục - đào tạo ở nước ta còn bị
khép kín, thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo, còn nặng lý thuyết, nhẹ thực
hành. Thứ ba, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên
cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị
trường, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Thứ tư, chưa
chú trọng đúng mức đến giáo dục đạo đức, nhân cách, lối
sống và kỹ năng, phương pháp làm việc. Thứ năm, phương
pháp giáo dục còn lạc hậu, chủ yếu truyền thụ kiến thức một
chiều; tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn thiếu thực
chất, mắc bệnh thành tích. Thứ sáu, đội ngũ nhà giáo và cán


bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu.
Thứ bảy, cơ chế, chính sách, đầu tư cho giáo dục, đào tạo
chưa phù hợp; cơ sở vật chất-kỹ thuật thiếu đồng bộ, còn lạc


hậu…
Như vậy, việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
đào tạo; phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết. Đó
vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp chúng ta vượt qua khó
khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Tuy
nhiên, nếu không quyết liệt đổi mới, hoặc đổi mới “nhỏ giọt”,
cục bộ, từng phần, tức là giáo dục, đào tạo vẫn không khác
hơn kiểu cũ thì nguy cơ tụt hậu xa hơn luôn ở kề bên; đường
lối đổi mới của Đảng sẽ mất dần động lực phát triển, chúng ta
sẽ không thể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thậm chí rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình”. Điều
kiện tiên quyết, suy đến cùng là do con người quyết định,
trong đó giáo dục, đào tạo, nền học vấn là nhân tố quan trọng
nhất. Đảng ta nhất quán khẳng định: “Giáo dục, đào tạo là
quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư
cho phát triển”.
Đổi mới giáo dục, đào tạo cần bắt đầu từ đổi mới quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp,
cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ


sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt
động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham
gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi
mới ở tất cả các bậc học, ngành học... Lâu nay, ở nước ta, các
trường chủ yếu trang bị kiến thức cho người học, lấy nó và
dựa vào nó để phát triển năng lực. Nhiều năm qua, chúng ta
đã nhận ra sự bất cập, hạn chế của việc này, nên đã chuyển
hướng sang phát triển phẩm chất và năng lực người học. Tuy
nhiên, do thiếu tính đồng bộ và nhận thức chưa thống nhất,

nên việc dạy và học vẫn theo cách cũ: Trang bị kiến thức là
chính, phát triển phẩm chất và năng lực là phụ. Một giải pháp
quan trọng được nêu trong dự thảo, đó là: Đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển
năng lực và phẩm chất của người học. Trên cơ sở xác định
đúng, trúng mục tiêu đổi mới giáo dục, đào tạo, công khai
mục tiêu, chuẩn “đầu vào”, “đầu ra” của từng bậc học, môn
học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo, thì việc
tiếp theo là đổi mới chương trình khung các môn học và nội
dung của nó theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm
chất người học, bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện


tốt phương châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề (trước
đây là dạy chữ, dạy người, dạy nghề).
Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh
giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và
ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức
pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ
bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn
hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của
Đảng. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng,
an ninh và hướng nghiệp. Dạy Ngoại ngữ và Tin học theo
hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của
người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc
thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho
người Việt Nam ở nước ngoài. Nói một cách khác, yếu tố đầu
tiên của triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay là tăng cường yếu

tố dạy người - chủ nhân của chế độ mới, của xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Cùng với đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, đào
tạo cần đổi mới công tác biên soạn sách giáo khoa, giáo trình,
tài liệu dạy học theo hướng đa dạng hóa, cập nhật tri thức


mới, đáp ứng yêu cầu của từng bậc học, các chương trình giáo
dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của từng đối tượng.
Cần khắc phục lối học tập trung vào một số môn học, một
“khuôn” trong một sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu. Ở giai
đoạn đầu của đổi mới, nên vừa nghiên cứu, biên soạn các sách
giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy và học chung cho mọi
người, vừa nghiên cứu, biên soạn các sách giáo khoa, giáo
trình, tài liệu riêng cho phù hợp với từng loại đối tượng, đáp
ứng nhu cầu phát triển phẩm chất, năng lực, năng khiếu cá
nhân. Vì vậy, trong xây dựng cấu trúc chương trình môn học
cần chú trọng nghiên cứu, biên soạn bổ sung các sách giáo
khoa, giáo trình, tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo, bổ trợ
phù hợp với phát triển phẩm chất, năng lực riêng của một lớp
đối tượng. Theo đó, cần vận dụng phương pháp, cách thức
xây dựng chương trình sau đại học để thiết kế, xây dựng các
chương trình khung cho các bậc học theo hướng chuyên đề
hóa dành cho người học có năng khiếu về những lĩnh vực nhất
định.
Đây là hướng mở để phát triển phẩm chất, năng lực cá
nhân người học, góp phần đào tạo chuyên sâu, chuyên gia.
Theo đó, nên chia tổng thời gian học thành hai phần, trong đó,
một nửa dành cho học các môn chung, số thời gian còn lại



dành cho việc học các môn riêng theo năng khiếu để phát
triển phẩm chất, năng lực cá nhân. Điều này đòi hỏi người dạy
phải tự đổi mới, nâng tầm cao tri thức và đổi mới phương
pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp. Hơn thế, nó cũng đặt
ra cho người quản lý, các khoa, trường sư phạm phải đổi mới
cách tuyển chọn nhân sự đào tạo giáo viên, giảng viên theo
hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người giáo viên,
giảng viên tương lai. Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục, đào tạo
được thay đổi căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải
thay đổi cho phù hợp.
Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người
học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người
thầy thêm tiến bộ, trưởng thành. Cùng với đó, cần đổi mới căn
bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, công
bằng. Cần gắn chặt giáo dục và đào tạo với nhu cầu phát triển
kinh tế-xã hội, với sản xuất, kinh doanh; gắn nhà trường, viện
nghiên cứu với các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp; gắn lý
luận với thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.


Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta được nêu trong văn kiện Đại
hội XII, về thực chất, là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực
này, hiệu ứng của nó sẽ làm biến đổi tích cực nhiều mặt của
đời sống xã hội Việt Nam, là sự vun trồng “nguyên khí quốc
gia”, làm cho nền học vấn nước nhà hưng thịnh, đất nước phát

triển bền vững.
- Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh về giáo dục đối với đổi mới giáo dục
Có những đường lối phát triển đúng đắn, phát huy tối
đa tiềm năng con người, coi đó là yếu tố nội sinh quyết định
sự phát triển của xã hội. Hơn nữa, trong suốt thời kì lãnh đạo
đất nước, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta nhiều bài học
quan trọng về giáo dục, không chỉ có giáo dục toàn diện, giáo
dục suốt đời mà quan trọng nội dung để giáo dục đó là gì, nội
dung giáo dục đó phải phù hợp không chỉ với đối tượng người
học mà còn phải phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của
đất nước. Thực tế đã cho thấy, mặc dù được trang bị nhiều
thiết bị hiện đại song do cơ sở vật chất còn thiếu đồng bộ,
trang bị mang tính vụn vặt, nhỏ giọt, nhiều phòng thí nghiệm
tại các trường hầu như không phát huy được vai trò của nó,
thay vào đó là các giờ mang tính giới thiệu, chưa chú trọng


việc thực hành, hay nói nặng hơn đó là ngay cả giáo viên cũng
chưa có kĩ năng hướng dẫn học sinh, sinh viên nghiên cứu.
Như vậy, trang bị đồng bộ là tốt, song chưa phải đã đạt hiệu
quả cao trong giáo dục, ngược lại gây lãng phí, chẳng bằng
việc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đánh giá khách quan
hiện trạng mỗi trường, mỗi địa phương để quan tâm, trang bị
cho phù hợp, điều này cũng giống như việc trang bị quần áo
sạch cho người ngồi máy cấy chứ không ai mặc quần áo sạch
đi cấy cả, tức là giáo dục nó phải thật phù hợp, không cứng
nhắc, dập khuôn mà linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc,

lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà giáo,
nhà văn hoá lớn của thế giới, Người sáng lập, đặt nền móng
và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới Việt Nam. Chỉ
riêng về giáo dục, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh cũng đã
là một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua
thực tiễn.
Một là: Nói đến tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về
giáo dục, trước hết, phải nói đến tư tưởng giải phóng con
người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở thành


một dân tộc văn minh, tiến bộ.Xây dựng một nền giáo dục
mang tính nhân dân, cách mạng và khoa học
Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng "tột bậc" của
Người. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh
nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập ; giải phóng họ
thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát
khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện
cho mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn
hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu tranh
đòi quyền dân sinh, dân chủ, dân trí của thế hệ những người
Việt Nam yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người đã
tố cáo đanh thép chế độ thực dân Pháp trong việc "làm cho
dân ngu để trị", "gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá
và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát", đòi quyền "tự do học
tập" và "thực hành giáo dục toàn dân".Đồng thời, Người đã
dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước

những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân
dân lao động - nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang
tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả, bảo đảm cho sự phát


triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người. Trong
suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết". Người
chỉ rõ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo
dục với cách mạng ; giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng
dân tộc và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: "Muốn giữ
vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu, thì mỗi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có
kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải "đa
dạng hoá các loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm
để tạo điều kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sỹ được đi
học". Khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây
dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa đất
nước thoát khỏi cảnh yếu hèn - đó là con đường phát triển
giáo dục. Người nói : "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và
kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành
một dân tộc văn minh, tiến bộ.
Tư tưởng ai cũng được học hành, mọi người được phát
triển hết những tiềm năng của bản thân, không chỉ thể hiện


quan điểm xây dựng một xã hội học tập mà còn thể hiện tính

nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Nếu như chế độ xưa gò ép con
người trong nhưng khuôn khổ, giáo lí, giáo luật, bị nô lệ và
sai dịch thì nay họ được tự do cả về thân thể lẫn tinh thần.
Được phát triển trong điều kiện hòa bình, được hưởng nền
giáo dục dân chủ, mọi người đều được đi học, tự do lựa chọn
ngành nghề. Nhà nước tạo mọi điều kiện để mọi người đều
được học tập, từ những em nhỏ ở những vùng khó khăn, chính
sách bám bản, bám làng, nhiều chiến sĩ trên mặt trận văn hóa
đã hi sinh cả tuổi thanh xuân cho công tác giáo dục, đào tạo,
đưa con chữ, tri thức đến với những bản làng xa xôi. Những
chính sách ưu đãi, trợ cấp cho con em thương binh, liệt sĩ,
người có công với cách mạng, con em những gia đình nghèo
để làm sao mọi thành phần, mọi người trong xã hội đều được
học tập, được tiếp xúc với khoa học kĩ thuật hiện đại. Tư
tưởng đó không chỉ thể hiện tính chất dân chủ của nền giáo
dục mà còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một chế độ xã hội dựa trên sự công hữu về tư liệu sản sản là
chủ yếu, một chế độ quan tâm đến con người và vì con người.


Hai là: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng
phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể
Người nói : "Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến
giữa các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em
một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này
góp phần mở mang quê hương của mình và xây dựng nước
Việt Nam yêu quý của chúng ta". Ngay trong hoàn cảnh cực
kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, giữa lúc
kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc
ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Người kêu gọi

toàn dân ra sức thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ vô cùng
trọng đại và cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt
giặc ngoại xâm. Nhờ vây, từ chỗ hơn 95% mù chữ, dân ta đã
trở thành một dân tộc có văn hoá, khoa học, đủ khả năng
giành độc lập, tự do cho đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải "nhận thức
đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân". Do
đó, các cấp uỷ, chính quyền, các ngành các giới, các đoàn thể
quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến phương
châm giáo dục mới như : phát huy cao độ dân chủ trong nhà
trường để tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy


với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà
trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát
triển giáo dục. Trong công tác quản lý giáo dục, Người đã chỉ
thị "phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh
nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn ; kết
hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình
hình thực tế và kinh nghiệm quý báu và phong phú của quần
chúng, của cán bộ và của địa phương". Phải coi "giáo dục
thiếu nhi là một khoa học". Mặc dù bận trăm công nghìn việc,
Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong
trào thi đua, như phong trào "dạy tốt, học tốt", đề xuất công
tác Trần Quốc Toản, phong trào "kế hoạch nhỏ"... cho các
cháu thiếu niên, nhi đồng nhằm tạo nên môi trường xã hội
rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục.
Ba là: Nét đặc sắc trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí
Minh về giáo dục là đào tạo toàn diện đối với con người

Một nền giáo dục toàn diện sẽ đào tào ra những con
người toàn diện cả mặt năng lực lẫn phẩm chất hay như Bác
Hồ vẫn nói cả Đức và Tài. Giáo dục không chỉ chú ý đến việc
truyền thụ tri thức mà hướng tới sự tự lĩnh hội tri thức dưới
sự hướng dẫn của nhà giáo dục. Phương pháp để đạt được


điều đó là “tự giác học”. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học ở thầy,
học ở bạn, học trong sách vở, học ở nhiều kênh thông tin
khác nhau và quan trọng là phải có chính kiến của bản thân,
không để tâm lí đám đông ảnh hưởng đến hành vi và tư duy
của mình, phải kiên quyết chống lại những điều sai trái,
không ba phải, có thái độ đúng đắn bảo vệ chân lí. Tư tưởng
về giáo dục toàn diện cũng yêu cầu mỗi con người phải luôn
luôn nỗ lực phấn đấu học tập và rèn luyện không ngừng. Nhất
là trong thời kì công nghệ hiện đại, với những bước phát triển
chóng mặt, nếu không tự trang bị tri thức, thụ động, ỷ lại thì
sẽ rơi vào lạc hậu, thụt lùi so với xã hội. Tư tưởng giáo dục
toàn diện cũng yêu cầu mỗi con người phải luôn biết kết hợp
giữa việc học văn hóa, chính trị với khoa học kĩ thuật. Điều
này cũng yêu cầu Nhà nước đưa ra các biện pháp cũng như
những chính sách đối với các trường đào tạo quốc tế. Khi mà
các trường thống nhất ở điểm không dạy chương trình lí luận
Mác – Lênin trong khung chương trình đào tạo. Đặt chúng ta
trước nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết: cho phép các
trường quốc tế được mở hay không, bài toán kinh tế, bài toán
công tác chính trị tư tưởng đặt ra trong thời kì mới, nhất là
trong qua trình toàn cầu hóa và chiến lược diễn biến hòa



bình trên thế giới hiện nay. Và phải khẳng định chắc chắn
một điều rằng không có bất cứ một nền giáo dục nào đặt
ngoài chính trị. Bốn nội dung giáo dục toàn diện mà Hồ Chí
Minh nêu ra cũng rất thiết thực. Đức để con người sống có
đạo lí, có nguyên tắc, sống có tình nghĩa với nhau. Trí là sức
mạnh trí tuệ giúp con người chinh phục tự nhiên, hẹp hơn thì
là những tri thức ngành nghề để con người áp dụng vào cuộc
sống, công việc. Thể dục, giáo dục cho con người phương
pháp rèn luyện cơ thể, rèn luyện sức khỏe để học tập và làm
việc. Mĩ dục, giáo dục thẩm mĩ có vai trò quan trọng trong
việc hình thành nhãn quan thẩm mĩ của mỗi người, định
hướng cho con người biết tiếp thu những cái có giá trị thẩm
mĩ và biết loại bỏ những cái lỗi thời, lạc hậu, không còn hợp
với bản thân trong hoàn cảnh mới. Giáo dục toàn diện ở đây
còn thể hiện việc xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng
đắn. Nếu như thời phong kiến học để kiếm cái bằng, làm
quan, phát tài thì nay học để làm cách mạng, học để phụng sự
nhân dân, phụng sự Tổ quốc, giai cấp và đồng loại. Những
điều đó muốn không trở thành sáo rỗng thì cần phải có những
nội dung giáo dục phù hợp để người học có thể xây dựng cho
bản thân được động cơ học tập này. Nhưng trong nhiều năm


gần đây hầu như tư tưởng này ít được nhắc đến, ngay cả
trong các giáo trình về giáo dục đạo đức. Hơn nữa do không
xây dựng được động cơ tích cực, lối học hiện nay của đa số
học sinh, sinh viên là lối học vẹt, tầm chương trích cú, học
theo kiểu kiểm tra, dồn hết sức lực vào và thời gian học tập
vào một số môn trong thời gian ngắn để thi cử. Hơn nữa, đề
thi cũng chưa cân xứng, cũng chỉ ở mức đánh giá mức độ

nhớ, cho nên, hằng năm số học sinh đạt điểm đỗ đại học khá
cao, tuy nhiên, khi lên đến đại học, với một chương trình theo
hướng khai thác năng lực, sinh viên thường có kết quả không
cao. Thêm vào đó, chương trình dạy học ở nhiều trường còn
mang tính hình thức, dạy và học cho xong, cơ chế xin cho
điểm không phải là không có, nhiều sinh viên ra trường
không tìm được việc làm, nạn thất nghiệp lớn làm nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội nan giải. Có lẽ đến đây, chúng ta cần
phải đánh giá thực chất hơn nội dung và cách quản lí đào tạo
tại các trường học nói chung để từ đó có hướng giải pháp
phù hợp. Tránh để lãng phí nguồn nhân lực trẻ khi mà thời
điểm cơ cấu dân số vàng sắp hết.
Bốn là: Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về giáo
dục là chìa khóa lí giải các hiện tượng nảy sinh trong giáo


dục và là cơ sở lí luận quan trọng trong việc xây dựng các
giải pháp đổi mới giáo dục hiện nay
Học hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội, giáo dục gắn
với lao động sản xuất là một những nội dung cơ bản của tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Hiện nay, vấn đề thất nghiệp đang là một bài toán vô
cùng khó đối với ngành giáo dục nói riêng và với toàn xã hội
nói chung.
Xét về nguyên nhân thất nghiệp trước hết phải kể đến
nội dung giáo dục đã lỗi thời, đó chính là vi phạm nguyên tắc
giáo dục lí luận gắn liền với thực tiễn. Nhiều sinh viên ra
trường cầm trong tay tấm bằng đại học, cao đẳng, tuy nhiên
tri thức về ngành mà họ theo học lại không phù hợp với nhu

cầu, cũng như yêu cầu về trình độ của nhà tuyển dụng. Nhiều
nơi phải đào tạo lại số sinh viên đã tốt nghiệp mới có thể làm
việc được. Như vậy, vấn đề ở đây chắc chắn ở phần nội dung
đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Các trường
mở tràn lan mà chưa tính đến chất lượng nguồn giáo viên,
quy trình đào tạo, hệ thống quản lí tạo ra nhiều lỗ hổng trong
quá trình vừa qua. Chương trình Đại học tại chức được đánh
giá là một chương trình tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu học


tập thường xuyên và suốt đời của nhân dân. Tuy nhiên, hiện
nay rất nhiều vấn đề bức xúc xoay quanh vấn đề này. Trước
hết ở việc, nhiều tỉnh tuyên bố không sử dụng nhân lực được
đào tạo từ hệ tại chức; thứ 2, nhiều công tác giáo dục, quản lí
đào tạo cũng còn nhiều vấn đề bất cập. Đa số bộ phận người
học tại chức là những người đã có công việc trong các cơ
quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập, việc học
mang tính chất là chuẩn hóa bằng, là cơ sở để thăng quan,
tiến chức.
Hơn nữa, hiện nay đang tồn tại sự mâu thuẫn trong
chính hệ thống giáo dục của nước ta. Cơ quan quản lí và chịu
trách nhiệm về chất lượng giáo dục trước Chính phủ đó là Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng là việc của
xã hội, Bộ không quản lí. Như vậy, vô hình chung đã tách biệt
hẳn quá trình đào tạo với nhu cầu sử dụng của xã hội. Nhiều
ngành nghề mới, kĩ thuật mới chưa được đưa vào giảng dạy.
Đó là chưa kể nội dung giáo trình học tập của từng ngành,
từng nghề cũng còn nhiều thiếu sót, thậm chí đã rất lạc hậu
so với thế giới. Và việc tách rời như vậy tất yếu dẫn đến tình
trạng không tìm được việc làm của sinh viên ra trường hiện

nay. Thậm chí, người ta vẫn chấp nhận một nghịch lí rằng,
mặc dù ngành sư phạm là ngành dễ tính nhân lực nhất, dựa


trên số trẻ được sinh ra, tuy nhiên ngành sư phạm lại là
ngành có tỉ lệ thất nghiệp thuộc top cao nhất. Việc thiếu quản
lí chặt chẽ trong đào tạo, việc cấp phép hàng loạt thành lập
các trường đại học, cao đẳng, đào tạo tràn lan là những điểm
lớn dẫn đến tình trạng này.
Trước những thực trạng giáo dục như hiện nay, nhiều
vấn đề đã được lí giải dưới nhiều góc độ khác nhau, nhiều
giải pháp đã được đưa ra, tuy nhiên, giáo dục Việt Nam vẫn
chưa thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó.
Năm là: Tư tưởng biện chứng về giáo dục của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra phương hướng cơ bản cho
chiến lược con người, chiến lược phát triển giáo dục ở
nước ta trong suốt mấy chục năm qua và cả thời gian sắp
tới
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta hết sức quan
tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Có thể nói, những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta trong thời gian qua đã đánh dấu một mốc son mới
trong công cuộc chấn hưng giáo dục nước nhà, góp phần giữ
vững mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu


học, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố và
tỉnh, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng

lên. Hoàn thiện thêm một bước hệ thống giáo dục quốc dân,
mở rộng mạng lưới trường học đến hầu hết các thôn bản, hiện
có hơn 23 triệu người đi học, góp phần giữ vững sự ổn định
chính trị, xã hội của đất nước. Quy mô và cơ sở vật chất giáo
dục được phát triển. Hệ thống các trường học dân tộc nội trú
tỉnh, huyện được củng cố và mở rộng. Mạng lưới các trường
đại học, cao đẳng, các trường chuyên nghiệp đang từng bước
được tổ chức sắp xếp lại. Hệ thống các trường đào tạo nghề
đã được phục hồi và bắt đầu phát triển. Chất lượng giáo dục
có chuyển biến bước đầu, hạn chế được một số hiện tượng
tiêu cực, nổi cộm trong giáo dục. Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, từ nay đến năm 2020, toàn Đảng, toàn dân
mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Thực hiện giáo dục
toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị,
nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối
hợp giữa nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia


đình. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư
duy dáng tạo, tăng năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc
làm. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu
nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng miền.
Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ
quốc tế.

Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện,


đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng
và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lớn
trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng đào
tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp
văn bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn,
trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo,
gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đào tạo với
sử dụng. Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên
mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc ít
người, nông thôn. Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ
sở, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi,
vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù
chữ, giáo dục cho người lớn. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng


nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa
một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc
cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công
nghệ cao. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức
học tập công đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế
của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập. Thực
hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ
học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng
chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Củng cố và tăng cường hệ
thống nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiêu số ; từng
bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo

toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh
các trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp
sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học
sinh dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào
tạo theo địa chỉ với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
có nhiều khó khăn.
Sáu là:Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về giáo
dục là cơ sở phương pháp luận để vận dụng những nguyên
tắc giáo dục vào thực tiễn. Bởi vì, một điểm nổi bật trong


phương pháp luận Hồ Chí Minh là lí luận gắn với thực tiễn,
học đi đôi với hành. Trong tư tưởng của Người có nhiều luận
điểm sáng tạo. Do đó, khi vận dụng tư tưởng của Người cũng
phải sáng tạo, linh hoạt và đảm bảo nguyên tắc.
Theo chúng tôi, có thể phân chia những nguyên tắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh làm hai loại cơ bản:
Thứ nhất: những nguyên tắc chỉ đạo hệ thống giáo dục
quốc dân
Thứ hai: Những nguyên tắc cụ thể chỉ đạo quá trình
giáo dục, dạy học
*Những nguyên tắc chung:
1. Giáo dục phục vụ nhiệm vụ chính trị, đường lối phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và phù hợp với xu thế phát
triển chung của thời đại – độc lập, văn minh, tiến bộ, bình
đẳng, hòa hợp quốc tế và khu vực
2. Học đi đôi với hành, lí luận liên hệ với thực tiễn, với
lao động sản xuất
3. Giáo dục gắn với đời sống, nhà trường gắn với xã hội
4. Đa dạng hóa giáo dục

5. Bình đẳng, dân chủ trong giáo dục
6. Giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời
7. Quản lí tốt công tác giáo dục
Những nguyên tắc cụ thể chỉ đạo quá trình giáo dục,
dạy học
*Về mục tiêu:
8. Đảm bảo tính toàn diện (đức, trí, thể, mĩ,...) của sự
phát triển nhân cách người học


9. Đảm bảo tính hài hòa giữa học tập, nghỉ ngơi, vui
chơi, giải trí, văn nghệ, thể thao, hoạt động xã hội và lao động
sản xuất
*Về nội dung:
10. Nội dung học vấn phải bao gồm hệ thống tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, phương pháp hoạt động sáng tạo và thái độ
11. Bảo đảm tính nhân dân, dân tộc, hiện đại, khoa học
của nội dung học vấn
12. Bảo đảm tính hệ thống và liên tục của quá trình dạy
học – giáo dục
13. Bảo đảm tính vừa sức, phù hợp với đặc trưng lứa
tuổi
14. Đảm bảo tính vững chắc trong dạy học
*Về phương pháp:
15. Kết hợp giữa trực quan với trừu tượng
16. Phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo, phát huy
sức mạnh nội sinh của người học.
*Về tổ chức quản lí:
17. Động viên người học tự tu dưỡng, rèn luyện, tự
quản dưới sự hướng dẫn của người dạy

18. Phối hợp chặt chẽ hoạt động cá nhân và tập thể
Hệ thống những nguyên tắc nêu trên được thể hiện
trong mọi lĩnh vực giáo dục, xây dựng trên cơ sở triết học của
Hồ Chí Minh, xoay quanh một luận điểm lớn, nổi bật là vấn
đề con người, tất cả vì con người, do con người. Điều này thể
hiện lòng thương yêu, tin tưởng, tôn trọng học sinh, chú trọng


×