Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sư PHẠM NÂNG CAO HIỆU QUẢ sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG dạy học môn NHỮNG vấn đề cơ bản của CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.39 KB, 45 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG
DẠY HỌC MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH


- Nguyên tắc sư phạm trong thuyết trình dạy học
môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM
Theo tiếng La Tinh: "Pricipium" - nguyên tắc, là các tư
tưởng chỉ đạo, yêu cầu cơ bản, quy tắc cơ bản đối với hoạt
động, được xây dựng trên nền tảng nghiên cứu quy luật, bản
chất của hoạt động đó.
Nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học môn Những vấn đề
cơ bản của CNMLN và TT HCMđạt được mục tiêuđó chính là
nguyên tắc dạy học; Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn các
nguyên tắc dạy học người GV mới có thể vận dụng linh hoạt
trong việc dạy học. Tuy nhiên, việc sắp xếp và lựa chọn các
nguyên tắc dạy học thành một hệ thống nhất định chung cho
các môn học thì vẫn chưa có sự nhất trí.
Hiện nay, với sự phát triển của nền khoa học 4.0 là sự
nhận thức nhạy bén của con người, các nhà khoa học sư phạm
vẫn đang tìm hiểu, nghiên cứu về các nguyên tắc dạy học;
Điều này khẳng định, hệ thống các nguyên tắc dạy học đang
dần được vận dụng và hoàn thiện.


Dựa trên việc phân tích nhiệm vụ, mục tiêu về nhận thức
luận của CN Mác - Lênin của môn Những vấn đề cơ bản của


CNMLN và TT HCMthì người GV trong tiết dạy cần phải
quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu
Trước khi chuẩn bị buổi thuyết trình, cần xác định thật rõ
đâu là mục tiêu mà người giảng viên muốn hướng tới, việc
xác định đúng mục tiêu sẽ giúp cho giảng viên hình thành nội
dung và cách truyền đạt cho học viên một cách có hiệu quả
nhất. Điều này lại có mối quan hệ đến các yếu tố: những
nguồn tin mà người giảng viên muốn truyền đạt là gì, người
nghe là ai và bầu không khí tại địa điểm thuyết trình như thế
nào. Thường hầu hết các bài thuyết trình thành công đề phải
đạt 3 yếu cầu chính yếu: chuyển tải được những thông tin
mới, người nghe không chỉ “nghe” mà còn được “thưởng
thức” bài thuyết trình và các vấn đề trong bài thuyết trình cần
được trình bày rõ ràng, logic. Để thực hiện hiệu quả 3 yêu cầu
này giảng viên cần xác định cách diễn đạt phù hợp. Khi
truyền đạt thông tin, giảng viên cần trình bày theo một cấu
trúc hợp lý, logic. Khi muốn người nghe thư giãn, có thể nói
những câu dí dỏm, hài hước, những câu chuyện vui. Còn


trong trường hợp mục tiêu bài thuyết trình muốn cổ vũ người
nghe tham gia vào một số hoạt động nào đó thì bài thuyết
trình cần đem đến cho người nghe nội dung tích cực, được
trình bày với giọng điệu hào hứng, phấn khích để kích thích
tinh thần và sự hưởng ứng của người nghe. Điểm cần lưu ý ở
đây là khả năng tập trung của người nghe chỉ giới hạn trong
khoảng 45 phút. Trong khoảng thời gian đó, họ chỉ tiếp thu
khoảng 1/3 những gì bạn trình bày. Vì thế nội dung bài thuyết
trình cần được cụ thể thành 3-4 vấn đề quan trọng và nhấn

mạnh những điểm này trong phần mở đầu, phần giữa và nhắc
lại chúng ở phần cuối. Thông thường, các ý chính rơi vào các
vấn đề: - Tại sao “chủ đề thuyết trình” này lại cần thiết? - Nội
dung của “chủ đề thuyết trình” gồm những gì? - Kết quả
mong muốn sau buổi thuyết trình là gì? Ngoài ra cần tránh
trình bày các khái niệm liên quan đến chủ đề thuyết trình dưới
dạng lý thuyết vì chúng thường khó hiểu. Ví dụ, với tiêu đề
"Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân", có thể
một số người nghe hình dung bạn sẽ trình bày khái niệm về
giai cấp công nhân. Nếu phần trình bày của bạn cứ sa đà vào
các khái niệm này sẽ làm cho người nghe chán. Điều quan
trọng ở đây, người nghe sẽ thích thú hơn nếu họ hiểu các khái


niệm về "giai cấp công nhân" và chủ đề bài thuyết trình "Sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân" thông qua
cách trình bày đơn giản. Chẳng hạn thông qua một ví dụ nào
đó trong thực tiễn hay hình ảnh minh họa để họ hiểu về nhiệm
vụ của giai cấp công nhân trong lịch sử thay vì phải nghe các
khái niệm này dưới dạng lý thuyết.
- Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp (hay còn gọi là
nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức)
Khi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức và nội dung
dạy học, đảm bảo tính vừa sức là điều kiện cần thiết để đem
lại chất lượng của việc dạy và học.
Những yêu cầu của nguyên tắc này:
+ Cần xác định khối lượng nội dung trong bài học. Với
việc phát triển của khoa học, công nghệ và sự đổi mới trong
việc xây dựng để phát triển và bảo vệ đất nước, khối lượng tri
thức môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM

không chỉ giảm, thay đổi mà còn tăng thêm .
Trong dạy học, phần lớn giảng viên đã sử dụng quá nhiều
thông tin, tư liệu làm cho khả năng ghi nhớ bài học trở nên


giảm, gây căng thẳng cho học viên. Nhưng cũng có giảng viên
lại quá đơn giản với nội dung trong sách giáo trình, gói gọn
nội dung như một bản tóm tắt, hoặc có giảng viên lại quá tập
trung ở vài câu chuyện làm cho bài giảng không đạt yêu
cầu…
Vì vậy, việc xác định lượng kiến thức cần truyền đạt là rất
quan trọng nhằm tạo cho học viên tiếp nhận tri thức đạt kết
quả cao nhất. Muốn vậy, ở khâu chuẩn bị và tiến hành dạy
học, GV cần chuẩn bị kĩ và chọn lọc những kiến thức, những
nội dung cơ bản và cần cân nhắc kĩ khối lượng kiến thức và
các câu hỏi đưa ra phải thật chính xác.
+ Nắm rõ đối tượng dạy học, đặc điểm tâm lý, môi trường
xã hội mà học viên đang sống, những điều kiện sinh hoạt và
khả năng học tập của học viên.
Đối với lớp TCLL chính trị - hành chính thì đối tượng HV
rất phong phú về độ tuổi từ 27- 50 tuổi và nhiều thành phần
như: giáo viên mầm non, GV trung học cơ sở, GV trung học
phổ thông và cán bộ, công chức cấp xã, cấp huyện… với các
đặc điểm trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc lĩnh hội kiến thức
của HV, nên cần căn cứ vào các yêu cầu này để nhận định


mức độ tiếp thu của học viên để từ đó tìm ra những PPDH
phù hợp.
Khi nắm vững đối tượng thì giảng viên mới có thể chủ

động truyền thụ tri thức từ việc xác định tri thức, sử dụng
ngôn ngữ, cách thức diễn đạt… cho đến việc kiểm tra, đánh
giá kết quả nhận thức và lựa chọn PPDH; Như vậy, khi giảng
dạy môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM cần
căn cứ vào đối tượng HV để nâng dần mức độ phức tạp, mở
dần phạm vi của tri thức sao cho HV có thể từng bước thu
nhận tri thức, và cuối cùng nắm được thực chất vấn đề đã lĩnh
hội.
+ Để thực hiện tốt nguyên tắc này,đòi hỏi giảng viên cần
để ý đến đối tượng học viên “đặc biệt”; Đối tượng tham gia
lớp TCLL chính trị - hành chính thì học viên “đặc biệt” ở đây
là các anh, chị đồng bào dân tộc thiểu số. Với các HV này cần
kiên trì từng bước giúp đỡ nhằm nâng cao trình độ; bên cạnh
đó cần khuyến khích năng lực tư duy sáng tạo và khả năng
vận dụng nội dung bài học vào hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn; Có như vậy, thì vấn đề học tập sẽ trở nên dễ
dàng hơn và vừa sức đối với học viên này.


Cần lưu ý, việc thực hiện đúng nguyên tắc này trong dạy
học môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM cần
linh hoạt nhằm đánh giá đúng khả năng học tập của HV, từ đó
đưa ra những yêu cầu phù hợp với sự lĩnh hội tri thức của HV
trong quá trình học tập.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống
Nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong dạy học
các môn khoa học nói chung và môn Những vấn đề cơ bản
của CNMLN và TT HCM nói riêng, bởi vì dù một yếu tố nào
cũng đòi hỏi học viên cũng phải biết đến một yếu tố tri thức
khác thì mới hiểu được, mặt khác nó lại là một cơ sở để hiểu

một yếu tố tri thức khác nữa.
Do vậy, người GV phải biết cách xác định kiến thức có
trước để làm tiền đề cho việc xây dựng tri thức mới, từ đó sẽ
giúp cho HV xác định đúng mục đích bài học. Nghiên cứu
tính tuần tự trong hệ thống kiến thức có tác dụng tăng cường
khả năng liên tưởng của học viên.
Việc vận dụng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng ở
việc phát huy năng lực trí tuệ chung, rèn luyện năng lực trí tuệ
cơ bản như: trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích- tổng


hợp; thúc đẩy tư duy linh hoạt, sáng tạo, độc lập… Những
việc này thể hiện qua việc GV truyền đạt kiến thức cho HV,
làm cho HV quen và sử dụng thành thạo các thao tác thông
qua trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Mọi kiến thức có được đều cần có nguyên tắc và kinh
nghiệm thông qua một quá trình học tập lâu dài; Ngoài ra, có
thể áp dụng nguyên tắc này trong các hoạt động học hướng tới
động cơ, mục đích, tạo tiền đề… sẽ rất có hiệu quả khi giảng
viên làm cho học viên thấy được mối liên hệ giữa mục đích
đặt ra và tri thức mà học viên đã có.
- Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Có thể thấy, mọi hoạt động của con người đều xuất phát
từ thực tiễn, thông qua thực tiễn con người có thể đúc kết cho
mình nhiều kinh nghiệm, kỹ năng và các tri thức khoa học.
Trong dạy học, người GV cần khái quát hóa các tri thức khoa
học để các HV có thể tiếp cận nội dung bài học một cách
nhanh chóng, hiệu quả, tránh sự mò mẫn không cần thiết; Có
như vậy, HV có thể vừa nắm vững nội dung lý thuyết và vừa
biết vận dụng, liên hệ bài học vào trong thực tiễn và đời sống.



Nguyên tắc tính thực tiễn trong dạy học môn Những vấn
đề cơ bản của CNMLN và TT HCMgắn liền giữa lý luận và
thực tiễn. Trong dạy học, nếu GV chỉ giảng những nội dung
xoay quanh như khái niệm, nguyên lí, quy luật, phạm trù…
mà không liên hệ, đưa những nội dung này vận dụng vào cuộc
sống, thực tiễn của cá nhân, đơn vị thì bài giảng sẽ kém hấp
dẫn, không thuyết phục và dễ gây nhàm chán cho người học;
Thông qua nguyên tắc này sẽ giúp cho học viên nâng cao tư
duy và khả năng liên hệ vào thực tiễn. Bên cạnh việc liên hệ
vào thực tiễn sẽ làm cho những nội dung trong bài học trở nên
phong phú mà còn giúp HV có thể hiểu bài một cách nhanh
chóng, biết vận dụng những kiến thức đã học vào trong cuộc
sống, trong công việc và bổ sung tri thức vào một số hoạt
động khác. Muốn đạt được kết quả như vậy, thì người GV
phải có chuyên môn cao, nghiệp vụ sư phạm phải vững vàng
và trên hết là phải có kinh nghiệm thực tiễn; đối với học viên
phải học tập nghiêm túc, nắm chắc tri thức môn học thì mới
có thể vận dụng chúng một cách chính xác, linh hoạt cả trong
nhận thức và thực tiễn. Muốn thực hiện được điều đó, cần
thực hiện một số nội dung sau:


+ Thứ nhất, cần đảm bảo tính thực tiễn trong bài giảng;
dựa vào trình độ nhận thức, nội dung bài học và khả năng lĩnh
hội tri thức của học viên, có thể thực hiện nguyên tắc này một
cách linh hoạt. Do vậy, trong bài giảng nếu giảng viên chỉ ra
được những cơ sở thực tiễn của các luận điểm trong bài học
thì học viên sẽ nhanh chóng nắm bắt được tinh thần, nội dung

bài học và nhận thấy được tầm quan trọng của những tri thức
đó rất cần cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
+ Thứ hai, cần đảm bảo tính thực tiễn ở các hình thức
hoạt động khác của người dạy và người học; Mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn đóng vai trò chủ đạo trong nội dung
và PPDH; cho dù việc dạy và học có hình thức nào đi chăng
nữa thì người GV cũng cần kết hợp thực tiễn và lí luận. Để
thực hiện được điều này, tùy theo nội dung tri thức, khối
lượng tri thức và đối tượng HV cùng thực hiện hoặc HV có
thể thực hiện độc lập dưới sự định hướng của GV, mức độ
thực hiện có thể tăng dần từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Do
vậy, GV cũng cần phải chọn lọc, định hướng cho HV, đưa ra
nội dung và kế hoạch chi tiết bên cạnh đó phải khơi dậy sự
hiểu biết của học viên thì sẽ đem lại hiệu quả trong dạy học.
- Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng


PPTT trong dạy học môn Những vấn đề cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Thực hiện tốt các kỹ năng thuyết trình
-Về ngôn ngữ
Trong phương pháp thuyết trình, lời giảng của người
giảng viên giữ vai trò quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức
của học viên. Vì vậy:
+ Lời giảng phải chính xác, rõ ràng: trước tiên, muốn lời
giảng được chính xác, rõ ràng thì GV phải dùng từ ngữ (thuật
ngữ) chính xác, sử dụng câu, từ đúng ngữ pháp, ngắn gọn,
phát âm rõ ràng, không nói ngọng, nói lắp và phải cẩn thận
khi dùng các từ, thuật ngữ... Bác Hồ đã từng khuyên chúng ta
chớ sính dùng từ, những từ ngữ không hiểu rõ thì không nên

dùng; Vì vậy, trong khi giảng, GV không nên dùng từ ngữ
không rõ nghĩa hoặc đa nghĩa, nên sử dụng ngôn ngữ khoa
học thay cho ngôn ngữ văn học, nhưng không nên hạn chế
quá mức việc dùng từ ngữ làm cho bài giảng không truyền đạt
hết nội dung bài học, làm bài giảng trở nên khô khan, cứng
nhắc.


+ Lời giảng phải gợi cảm: trong dạy học, một yếu tố rất
quan trọng mang lại sự thành công trong bài giảng là sự thể
hiện cảm xúc của GV thông qua lời giảng vì nó có ảnh hưởng
đến tình cảm, ý chí của học viên và định hướng cho HV nhận
thức một cách đúng đắn, hứng thú học tập; sức gợi cảm của
lời giảng phụ thuộc vào tính hình tượng của lời giảng. Như
vậy, trong dạy học môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và
TT HCMthì GV có thể sử dụng ngôn ngữ văn học và dùng
thành ngữ, ca dao, tục ngữ tuy nhiên, không nên sử dụng
nhiều vì sẽ mang lại kết quả không tốt.
Ngoài ra, lời giảng gợi cảm còn thể hiện qua ngữ điệu của
GV, có nhiều cách để GV diễn đạt vì vậy sẽ có nhiều ngữ điệu
khác nhau và mang lại nhiều kết quả khác nhau; tuy nhiên,
tùy vào đối tượng và khả năng nhận thức của HV mà ngữ điệu
của GV phải phù hợp, có đôi lúc chỉ cần GV thay đổi giọng
nói thì HV sẽ tiếp thu tốt hơn, tích cực hơn giúp học viên nắm
vững kiến thức, có hiểu biết sâu, rộng và có thể vận dụng
trong thực tiễn, đời sống và trong nhận thức.
Vì vậy, trong khi dạy học giảng viên phải đảm bảo tốc độ
truyền đạt để học viên nghe rõ và ghi chép đầy đủ nội dung
bài học, tùy theo mục đích cần truyền đạt để học viên có thể



lĩnh hội nội dung bài học, giảng viên có thể thay đổi tốc độ lời
giảng để học viên thu nhận lượng kiến thức chính xác.
-Về điệu bộ, cử chỉ
Điệu bộ, cử chỉ phải chừng mực, mẫu mực, không khoa
tay quá nhiều trước học viên. Tư cách mẫu mực của GV dạy
môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT HCM có ảnh
hưởng đến khả năng học tập, tư duy và hành động của học
viên theo hướng đúng đắn. Đứng trước học viên, GV cần mặc
trang phục lịch sự, giản dị, gọn gàng phù hợp với địa phương
và phải thể hiện thái độ nghiêm túc, tự tin nhưng phải niềm
nở, nhiệt tình nhằm tạo quan hệ tốt đẹp giữa người dạy và
người học.
- Về sử dụng các phương pháp tư duy logic trong thuyết
trình
+ Phân tích- tổng hợp: Giảng dạy tri thức khoa học bắt
đầu từ sự phân tích chúng. Nói đến phân tích trong thuyết
trình là nói đến sự phân chia (tách ra) những kiến thức khái
quát, phức tạp, trừu tượng thành những kiến thức đơn giản
hơn, dễ hơn, cụ thể hơn để giúp HV tiếp cận dễ dàng hơn, có
hiệu quả hơn… Giảng dạy nhằm cung cấp tri thức hoàn chỉnh,


đầy đủ giúp học viên hiểu và nắm vững kiến thức cơ bản.
Mục đích ấy đạt được bằng cách tổng hợp kiến thức.
Tổng hợp là sự kết hợp, sự tái tạo các mối liên hệ tri thức
riêng lẽ trong tri thức chung và nắm lấy toàn bộ tri thức trong
sự thống nhất của chúng. Không giảng các tri thức cơ bản
chung nhờ tổng hợp thì học viên không nhận thức đầy đủ và
sâu sắc tri thức riêng lẻ. Đó cũng là lí do vì sao cần sử dụng

kết hợp hữu cơ giữa phân tích và tổng hợp trong thuyết trình.
Nhưng tùy vào tri thức của từng bài, khả năng nhận thức, tư
duy và vốn kiến thức sẵn có của học viên để giáo viên xác
định mức độ sử dụng phân tích và tổng hợp trên cơ sở truyền
thụ tri thức đầy đủ, sâu sắc, toàn diện theo nội dung bài học
đã được quy định.
+ Quy nạp - suy diễn: Trong dạy học, quy nạp được xem
như phương pháp chuyển từ tri thức từ cái riêng về cái chung,
khái quát các tri thức đó thành nguyên lý chung phản ánh quy
luật hoặc mối liên hệ cơ bản và tất yếu khác. Khi thuyết trình
giảng viên có thể sử dụng các phương pháp quy nạp khác
nhau như: quy nạp phổ thông, quy nạp khoa học…


Đối với môn Những vấn đề cơ bản của CNMLN và TT
HCM, kiến thức trang bị cho học viên mang tính khái quát và
trừu tượng cao, giảng viên cần sử dụng nhiều phương pháp
quy nạp khoa học; Bởi vì, kiến thức truyền đạt cho học viên là
vạch ra những dấu hiệu cơ bản, xác lập mối quan hệ bên
trong, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Cho dù sử dụng
phương pháp nào thì quy nạp không đủ luận cứ để chứng
minh, rút ra kết luận chung. Do đó, giáo viên cần dùng
phương pháp suy diễn. Suy diễn không chỉ là phương pháp
chuyển từ tri thức chung sang tri thức riêng, mà từ mỗi kết
luận đúng đắn trong số các chân lý đã biết rút ra từ những
chân lý mới nhờ các quy luật và các quy tắc của logic học.
Trong suy diễn, muốn rút ra được những kết luận chân
thực cần phải đáp ứng hai điều kiện: một là, các tiền đề phải
chân thực; hai là, quy luật và quy tắc của logic học phải được
áp dụng đúng đắn; Quy nạp và suy diễn vận động ở hai hướng

khác nhau. Sự đối lập đó thể hiện ở việc quy nạp là sự vận
động đi từ cái riêng đến cái chung, còn suy diễn là từ cái
chung đến cái riêng. Song, trong giảng dạy, chúng lại quan hệ
với nhau, bổ sung lẫn cho nhau; Vì vậy, giảng viên cần kết
hợp chúng mới đem lại kết quả cao.


+ Lịch sử - logic: khi truyền đạt kiến thức cho HV ở trên
lớp việc chỉ ra quá trình vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng xảy ra trong thế giới khách quan theo trình tự thời
gian và không gian… cũng như việc bản chất và quy luật, cái
chung, cái tất yếu, của quá trình phát triển lịch sử của sự vật
và hiện tượng là rất cần thiết. Đồng thời, giảng viên phải tái
tạo lại logic sự vận động, phát triển của các sự vật trong logic
nhận thức, tiếp thu tri thức về chúng. Có thể nói, lịch sử là
phong phú, là hiện tượng sinh động, còn logic là bản chất, sâu
sắc. Hai thao tác bổ sung, hỗ trợ cho nhau giúp ta nhận thức
sự vật ngày càng đầy đủ hơn, chính xác hơn. Tùy theo yêu
cầu, nội dung của từng bài mà GV kết hợp phương pháp logic
và lịch sử đạt kết quả tốt nhất.
+ Trừu tượng - cụ thể: cái trừu tượng và cái cụ thể tồn tại
trong tư duy để phản ánh cái trừu tượng và cái cụ thể trong
thực tế khách quan. Cái cụ thể trong thực tại là điểm xuất phát
của nhận thức chân lý; Cái trừu tượng trong tư duy tồn tại nhờ
sự trừu tượng hóa, khái quát hóa những mặt, những yếu tố và
phản ánh cái trừu tượng, cái cụ thể trong hiện thực, là nấc
thang để nhận biết cái cụ thể trong hiện thực; Mỗi cái trừu


tượng trong tư duy đều giúp cho ta có cách nhìn nhận sâu sắc

hơn giữa bản chất và hiện tượng của sự vật.
Cái cụ thể trong tư duy là điểm kết thúc cuả nhận thức
chân lý, nó giúp chúng ta nhận thức đúng, đầy đủ, toàn diện,
chính xác hơn các sự vật, hiện tượng; Vì vậy, nhận thức của
con người là quá trình bắt đầu từ cái cụ thể trong hiện thực
thông qua cái trừu tượng đến sự kết thúc bằng sự nhận thức
cái cụ thể có trong tư duy đó. Cho nên, trong thuyết trình
người dạy cần kết hợp chặt chẽ giữa chúng với nhau sao cho
sự lĩnh hội tri thức của học viên phải phù hợp với quá trình
nhận thức khoa học chung của con người và trình độ nhận
thức của từng học viên.
-Xây dựng kế hoạch dạy học sử dụng PPTT
Giảng viên cần xác định kiến thức cơ bản, có trọng tâm,
trọng điểm, nêu rõ bản chất và mối liên hệ của hiện tượng, sự
vật với nhau hoặc với các sự vật, hiện tượng khác và có thể lý
giải, vận dụng chúng vào thực tiễn. Vì vậy khi dạy học, GV
luôn giám sát kiến thức cơ bản của từng bài, không đi sâu vào
những chi tiết quá nhỏ; giảng viên phải nắm vững chương


trình, kiến thức cơ bản, vị trí, vai trò của từng bài ở từng
chương trình, tìm ra mối quan hệ tất yếu giữa chúng…
+ Về chuẩn bị:
Đầu tiên, cần xác định đối tượng người học, địa điểm dạy
học và phương tiện hỗ trợ và xác định rõ nội dung, mục tiêu
và cấu trúc bài giảng; Bên cạnh đó, cần phải đọc tài liệu (đọc
nhiều lần), phân tích tài liệu, cấu trúc tài liệu theo ý mình.
Lựa chọn các phương pháp hỗ trợ, đưa ra các tình huống phát
sinh và hướng giải quyết. Ngoài ra, còn phải lập kế hoạch
giảng dạy theo bố cục: mở bài, thân bài, kết luận cho cả bài.

+ Về thực hiện:
Người giảng viên chọn lựa những kiến thức cơ bản và
thiết thực. Trong mỗi bài giảng bao giờ cũng có trọng tâm và
trọng điểm, cần thực hiện tuần tự các bước sau:
Phần mở bài: cần mở bài cuốn hút học viên, tạo sự chú ý
cho học viên, GV có thể sử dụng một trong những cách sau:
việc đầu tiên cần chào hỏi và sau đó giới thiệu chương trình,
nội dung bài học trong tâm thế vui vẻ, thoải mái; có thể đưa ra
một vài thông tin liên quan đến bài học; nêu vấn đề, định


hướng hoặc trình bày sơ lược những vấn đề cần giảng; hoặc
chiếu một đoạn phim tài liệu, đưa ra một vài câu hỏi, tình
huống liên quan đến bài học.
Phần thân bài: nên chia nội dung thuyết trình ra thành
nhiều tiểu mục nhỏ, sau đó sử dụng kiểu thuyết trình tương
tác với học viên theo các cách:
Cách 1: GV thuyết trình (kể chuyện, diễn giảng, giải
thích) nội dung cần triển khai, liên hệ thực tiễn bằng cách nêu
ví dụ, đưa ra hình ảnh hoặc ra câu hỏi để học viên trả lời
nhằm kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học viên.
Cách 2: GV đưa ra một luận điểm yêu cầu học viên lấy ví
dụ thực tiễn để chứng minh sau đó GV sẽ giảng giải và kết
luận.
Cách 3: qua quá trình dạy học, người thầy sẽ đưa ra
những luận chứng, luận cứ, những số liệu, tình huống liên
quan đến nội dung cần được thuyết trình để học viên làm việc
theo nhóm, đóng vai… để đánh giá học viên, sau đó thông
qua lời giảng, GV tóm tắt kết quả thu được và dưới sự hướng
dẫn của mình thì học viên có thể tìm hiểu các vấn đề liên

quan.


Phần kết luận: có nhiều cách để kết luận một bài học theo
phương pháp thuyết trình:
Cách 1: GV kết luận thông qua việc dùng lời nói để nhấn
mạnh nội dung trọng tâm của bài học hoặc có thể đưa ra một
vài câu hỏi về các nội dung bài học và sau đó giới thiệu bài
học mới ở tiết sau.
Cách 2: GV sử dụng PPDH khác như: nêu vấn đề, đàm
thoại… để tóm tắt bài học; Cuối cùng, GV nhận xét và kết
luận hoặc đưa ra các câu hỏi để học viên suy nghĩ và trả lời ở
bài học sau.
- Kết hợp thuyết trình với các phương pháp dạy học
khác
* PPTT kết hợp phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại là sự tương tác giữa GV và học
viên, được thể hiện thông qua nhiều câu hỏi, GV "hỏi" và học
viên "trả lời" sao cho câu trả lời của học viên phải tương ứng,
phù hợp với câu hỏi mà GV đặt ra. Dưới sự hướng dẫn của
GV thì học viên phải có tư duy linh hoạt, thể hiện được ý


tưởng của mình, tăng cường sự khám phá và lĩnh hội kiến
thức. Thông thường, đàm thoại có hai hình thức sau:
Đàm thoại có chủ đích: nghĩa là GV sử dụng các câu hỏi
được sắp xếp định hướng có hệ thống vào chủ đề, bao gồm:
đàm thoại diễn giải là dùng lời nói để giảng giải, làm rõ các
khái niệm, phạm trù; đàm thoại dẫn dắt nhằm giúp học viên
nắm bắt từng chương, mục trong bài; đàm thoại tìm tòi là

buộc học sinh phải suy nghĩ, trả lời và rút ra kiến thức mới…
Đàm thoại tự do (gợi mở): là phương pháp GV đưa ra
những câu hỏi lớn, sau đó thông báo cho học viên, tiếp đến
chia câu hỏi lớn ra thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn mang tính hệ
thống để học viên có thể hình dung việc trả lời những câu hỏi
nhỏ sẽ dẫn đến thực hiện được câu hỏi lớn; Mục đích của đàm
thoại gợi mở là để học viên giải đáp một vấn đề mới nào đó;
câu hỏi buộc học viên tìm tòi, giải đáp để đi đến những tri
thức mới; Trong hệ thống câu hỏi đó, GV cần đưa thêm các
câu hỏi phụ nhằm dẫn dắt, định hướng nếu học viên có sai sót,
đi chệch hướng trong cuộc đàm thoại.
Phương pháp này có ý nghĩa tích cực trong việc kích thích
tư duy, tính tích cực, sự nỗ lực của học viên khi giải quyết vấn


đề mà GV đặt ra, nhờ vậy mà học viên nắm chắc nội dung bài
học và biết cách tự giải quyết các vấn đề, nắm vững thao tác
riêng của hoạt động sáng tạo trong học tập, lao động. Từ đó
người GV có thể kiểm tra năng lực, trình độ nhận thức của
học viên… Tuy nhiên, việc dùng phương pháp này mất rất
nhiều thời gian.
Hạn chế của PPTT là truyền đạt kiến thức một chiều, khi
PPTT kết hợp với phương pháp đàm thoại thì tính chất độc
thoại bị loại bỏ thay vào đó là mối quan hệ tích cực giữa GV
và học viên vì tri thức môn học này tương đối khó và liên
quan đến nhiều bộ môn khoa học khác nhau. Do vậy, đòi hỏi
GV phải khéo léo vận dụng PPDH này vào những nội dung tri
thức bài học. Một số lưu ý khi đặt câu hỏi đàm thoại, đó là:
Câu hỏi phải có mục đích dứt khoát, rõ ràng.
- Dựa vào thao tác tư duy có các loại câu hỏi sau:

Câu hỏi phân tích: giúp gợi ý HV tách riêng các nội dung
thành từng phần hoặc các thành phần của mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng
Câu hỏi tổng hợp: để HV xác lập tính thống nhất và mối
liên hệ thuộc tính của sự vật, hiện tượng.


Phân tích - tổng hợp: là hai thao tác tư duy liên hệ mật
thiết với nhau khi hình thành khái niệm và luôn đi kèm với
nhau và có quan hệ khắn khít với nhau... Dấu hiệu nhận biết
của hiện tượng được phát hiện bằng cách phân tích hiện
tượng đang nghiên cứu.
Câu hỏi so sánh, liên hệ: trong mối quan hệ nhằm liên hệ
các sự vật, hiện tượng.
Câu hỏi nguyên nhân- kết quả: đây là mối liên hệ phổ
biến trong các vấn đề lý luận chính trị nêu lên mối quan hệ
nhân quả.
Câu hỏi khái quát: dùng vào cuối chương hay câu hỏi
tổng kết cuối bài nhằm khái quát các kiến thức cụ thể.
- Dựa vào trình độ nhận thức: có thể căn cứ vào 6 mức độ
nhận thức sau:
Biết: là câu hỏi yêu cầu học viên nhắc lại một kiến thức
đã biết (tái hiện).
Hiểu: là câu hỏi mà thông qua ngôn ngữ của mình, học
viên diễn đạt lại những kiến thức đã học chứng tỏ là mình đã
hiểu.


Áp dụng: câu hỏi yêu cầu học viên vận dụng kiến thức đã
học vào tình huống mới khác với bài học.

Phân tích: là câu hỏi đòi hỏi học viên làm rõ nguyên nhân
hay kết quả của một hiện thượng kinh tế, xã hội.
Tổng hợp: là câu hỏi mà ở đó học viên kết hợp các kiến
thức cụ thể hoặc trong việc giải đáp một vấn đề khái quát hơn.
Đánh giá: là câu hỏi yêu cầu học viên nhận định, phán
đoán về một vấn đề .
* PPTT kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học mà ở đó GV
chia nhóm lớn (lớp học) thành các nhóm nhỏ với mục đích để
các HV trong lớp đều được làm việc, được trao đổi, được bàn
bạc và đưa ra chính kiến của mình khi giải quyết một vấn đề
nào đó.
Phương pháp thảo luận nhóm (Xemina) là sự phát triển
của phương pháp thảo luận trên lớp; Với phương pháp này sẽ
giúp người học lĩnh hội được hệ thống tri thức một cách
nhanh chóng, chủ động, để cho tất cả các học viên đều được
làm việc và phát biểu ý kiến, được tư duy và thể hiện khả


×