Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học môn TIẾNG ANH THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực học SINH của TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.09 KB, 56 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
CỦA TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết một số công trình
nghiên cứu có liên quan đến quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Anh như sau:
Các công trình nước ngoài có liên quan đến đề tài
Các công trình nước ngoài, qua tìm hiểu, chủ yếu bàn về
phương pháp, kỹ thuật dạy học tiếng Anh như: Teach English
của tác giả Adrian Doff, Practical Techniques For Language
Teaching của Michael Lewis và Jimmie Hill,

Teaching

English As a Foreign Language của tác giả Colin Dawson,
Teaching English Through English của tác giả Jane Willis...,
chưa thấy có công trình nào nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt
động dạy học tiếng Anh theo định hướng phát triển năng lực ở
Việt Nam.
Các công trình trong nước có liên quan đến đề tài
Trong nước có các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt
động dạy học Tiếng Anh ở các trường trung học, cao đẳng, đại
học, trung tâm ngoại ngữ lớn như:


- Đổi mới biện pháp quản lý dạy học của trung tâm
ngoại ngữ Học viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh của


tác giả Nguyễn Thiện Chí, trường Đại học sư phạm Hà Nội
(năm 2006);
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại
ngữ của chủ nhiệm bộ môn trường Cao đẳng sư phạm Trung
ương” của tác giả Bùi Phi Yến, trường Đại học sư phạm Hà
Nội (năm 2006);
- “Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy
học ngoại ngữ ở trường CĐSP Trung Ương”, tác giả Vũ Thị
Hồng Ngọc, trường Đại học sư phạm Hà Nội (2006);
- “Một số biện pháp tăng cường quản lý nâng cao chất
lượng dạy học môn ngoại ngữ ở trung tâm đào tạo bồi dưỡng
cán bộ - trường Đại học Hải Phòng”, tác giả Nguyễn Phương
Lan, trường Đại học sư phạm Hà Nội (2006);
- “Biện pháp quản lí hoạt động dạy học Tiếng Anh ở
trường Trung cấp kỹ nghệ Thanh Hóa” của tác giả Lê Thị
Hằng, trường Đại học sư phạm Hà Nội ( 2012).


Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học
môn Tiếng Anh ở các trường trung học như:


- “Một số biện pháp quản lý dạy và học ngoại ngữ ở các
trường THPT huyện Phúc Thọ- Hà Tây”, tác giả Nguyễn
Thanh Vân, trường Đại học sư phạm Hà Nội (2006);
- “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học Tiếng Anh của
Hiệu trưởng các trường trung học cơ sở quận Hoàn Kiếm –
Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh, trường Đại học sư
phạm Hà Nội (2007);
- “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học Tiếng Anh theo

chương trình đổi mới ở các trường THPT thành phố Sơn
Tây”, tác giả Kiều Thị Minh Trà, trường Đại học sư phạm Hà
Nội ( 2008);
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn
Tiếng Anh theo chương trình mới của Hiệu trưởng các trường
THPT huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc”, tác giả Bùi Văn Tuấn,
trường Đại học sư phạm Hà Nội (2009);
- “Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động
dạy học Tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông huyện
Đơn Dương – Lâm Đồng”, tác giả Nguyễn Văn Kháng,
trường Đại học sư phạm Hà Nội (2009);


- “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh
ở trường THPT huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng”, tác giả Hồ
Quang Tuyến, trường Đại học sư phạm Hà Nội (2013)
- “Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh theo
hướng phát triển năng lực học sinh”, tác giả Trương Thúy
Hằng, Học viện khoa học xã hội Việt Nam (2017).
Tuy nhiên, qua tìm hiểu các công trình nêu trên cho thấy
các nghiên cứu về quản lý dạy học môn tiếng Anh theo định
hướng phát triển năng lực ở trường phổ thông còn ít và chưa
có công trình nào nghiên cứu về quản lý dạy học môn tiếng
Anh tại các trường THPT huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng
theo định hướng phát triển năng lực.
Khái niệm và thuật ngữ liên quan
Quản lý


Quản lý (management) là một dạng lao động đặc thù của

xã hội. Hoạt động quản lý xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
nhà nước, tồn tại và phát triển theo sự phát triển chung của xã
hội. Trong hoạt động của bất cứ tổ chức xã hội nào, hoạt động
quản lý mang tính chất quyết định đến sự thành bại của tổ
chức đó. Chính vì lý do đó mà hoạt động quản lý từ lâu đã trở
thành khoa học. Đó là khoa học về quản lý. [15. 9]
Tùy thuộc vào những cách tiếp cận khác nhau mà có
nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Sau đây là một số khái
niệm về quản lý:


- Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Vi.Wikipedia:
“Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ chức nhân
sự nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm
việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung.
Công việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ (theo Henry Fayol):
xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát.
Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng và để quản lý là
nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên”. Cũng theo từ
điển bách khoa mở Vi. Wikipedia “Quản lý (tiếng Anh là
Management [ˈmænɪdʒmənt], tiếng Latinh manum- agere điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển và
dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ
chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn
tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá trị vô
hình)”. Đầu thế kỷ 20 nhà văn quản lý Mary Parker
Follett định nghĩa quản lý là "nghệ thuật khiến công việc
được làm bởi người khác".[25]
- Theo tác giả Trần Quốc Thành thì: “Quản lý là những
hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát quá
trình tiến tới mục tiêu”. [23. 3]



- Từ điển Việt - Hán –Nôm định nghĩa quản lý là “chăm
nom và sắp đặt công việc”[27]. Đây cũng là quan điểm của
các nhà khoa học ở Việt Nam. Họ cũng có những quan điểm
riêng về quản lý. Trong Tiếng Việt, quản lý là từ tiếng Việt
gốc Hán, “quản” tức là cai quản, giữ gìn, duy trì, chăm sóc,
thống trị, theo dõi, “lý” là sự sắp xếp, đổi mới, đưa tổ chức
phát triển một cách hợp lý. “Lý” nâng cao hiệu quả hoạt động
của “quản”. Nếu người quản lý chỉ lo “quản” mà không màng
đến “lý” thì tổ chức sẽ trì trệ, còn chỉ lo đến “lý” mà không
quan tâm đến “quản ” thì tổ chức sẽ không được đặt trên một
nền tảng ổn định, bền vững.[13.10]
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập
thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý
nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến” [29].
Theo Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống, là quá
trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất
định” [27].


Có rất nhiều khái niệm về quản lý, theo chúng tôi, quản
lý là sự tác động có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích, kế hoạch đề
ra, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức.
Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy là việc truyền thụ tri thức, tổ chức, điều
khiển hoạt động chiếm lĩnh tri thức của học sinh, giúp học

sinh nắm được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Hoạt
động dạy có chức năng kép là truyền đạt và điều khiển nội
dung học theo chương trình quy định. Có thể hiểu hoạt động
dạy học của giáo viên là quá trình hoạt động sư phạm của giáo
viên, làm nhiệm vụ truyền thụ tri thức, tổ chức, điều khiển
hoạt động nhận thức của học sinh [25; tr.111].


Mặt khác, hoạt động học là quá trình trong đó dưới sự
định hướng của người dạy, người học tự giác, tích cực, độc
lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh
bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc
tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày
càng hoàn thiện. Có thể hiểu hoạt động học tập của học sinh
là quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành hệ thống những kỹ
năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hoàn thiện
nhân cách của bản thân [25; tr.111].
Thực tế, hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động thống
nhất biện chứng, đó là hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh. Theo tác giả Phạm Viết Vượng “Nói
đến dạy học là nói đến hoạt động dạy và học của thầy và trò
trong nhà trường, với mục tiêu là giúp học sinh nắm vững hệ
thống kiến thức khoa học, hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ tích cực đối với học tập và cuộc sống” [25;
tr.110].
Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở trường
trung học phổ thông


“Quản lý hoạt động dạy học là quản lý một quá trình

hoạt động xã hội, một quá trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại
như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố như: Mục đích
và nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học
và phương tiện dạy học, giáo viên với hoạt động dạy, học sinh
với hoạt động học tập và việc kiểm tra đánh giá kết quả dạy
học để điều chỉnh sao cho chất lượng của hoạt động này ngày
càng tốt hơn”. [25; tr.110].
Hoạt động dạy học môn tiếng Anh
Mục tiêu hoạt động dạy học môn tiếng Anh
Dạy tiếng Anh ở trường THPT giúp học sinh sử dụng
ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp ở mức độ cơ bản dưới
dạng Nghe, Nói, Đọc, Viết, có kiến thức cơ bản, có hệ thống
phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi.
Nội dung hoạt động dạy học môn tiếng Anh
Dạy học ngoại ngữ, trong đó có tiếng Anh hiện nay trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang thực hiện theo
xu hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp qua các kỹ năng: Nghe, Nói,
Đọc, Viết và tư duy bằng ngoại ngữ.


Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
môn tiếng Anh của học sinh là bộ phận của quản lý hoạt động
dạy học trong nhà trường - đây là hoạt động chính, bao trùm
trong công tác quản lý của người Hiệu trưởng.
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên
Đối với công tác quản lý hoạt động dạy của giáo viên bộ
môn tiếng Anh, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn chỉ đạo của
cấp trên và căn cứ thực tế của nhà trường, Hiệu trưởng xác
định các mục tiêu đối với bộ môn, các yêu cầu cụ thể mà giáo

viên phải thực hiện trong từng năm hoặc một giai đoạn cụ thể
(5 năm hoặc 10 năm, tùy theo kế hoạch chiến lược phát triển
nhà trường).


Từ đó xác định nhiệm vụ cho giáo viên, định hướng cho
giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện, tạo điều kiện về vật
chất, tinh thần cho giáo viên để họ yên tâm thực hiện kế
hoạch. Hiệu trưởng khuyến khích giáo viên đổi mới phương
pháp dạy học, tích cực ứng dụng CNTT và sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại nhằm tạo hứng thú cho học sinh,
giúp học sinh học tiếng Anh dễ dàng và phát huy tối đa các
năng lực vốn có của các em.
Thực hiện các công việc trên, hiệu trưởng có thể thực
hiện thông qua các chức năng quản lý, gồm: lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện và chỉ huy, điều khiển hoạt động dạy và kiểm
tra việc thực hiện của giáo viên. Nội dung kiểm tra hoạt động
dạy của giáo viên thường bao gồm: kiểm tra công tác chuẩn bị
bài dạy của giáo viên, dự giờ kiểm tra trình độ tay nghề của
giáo viên, kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn (kế
hoạch giảng dạy, làm, sử dụng đồ dùng dạy học, chấm trả bài,
vào điểm...). Với các hoạt động kiểm tra này, hiệu trưởng có
thể trực tiếp kiểm tra hoặc ủy quyền cho tổ trưởng chuyên
môn. Về hình thức có thể kiểm tra đột xuất hoặc theo kế
hoạch...
Quản lý hoạt động học của học sinh


Đối với quản lý hoạt động học của học sinh đối với bộ
môn tiếng Anh, Hiệu trưởng thông qua hoạt động kiểm tra

việc thực hiện nội dung, chương trình, kiểm tra năng lực sư
phạm của giáo viên, kết quả học sinh tham gia các hoạt động
ngoại khóa, các cuộc thi tiếng Anh và qua kết quả các bài
kiểm tra, thi của học sinh có thể biết được hoạt động dạy học
bộ môn, nhất là hoạt động học của học sinh.
Tuy nhiên giáo viên trực tiếp dạy mới quản lý tốt hoạt động
học của học sinh. Qua quá trình dạy giáo viên nắm được năng
lực ngoại ngữ của từng học sinh, từ đó có kế hoạch tổ chức các
hoạt động dạy học phù hợp nhằm giúp đỡ những em yếu, tạo cơ
hội phát triển cho những học sinh học khá, giỏi môn Tiếng Anh.


Quản lý hoạt động học của học sinh thường bao gồm:
quản lý hoạt động học trên lớp và quản lý hoạt động tự học
(học ở nhà) của học sinh. Quản lý hoạt động học trên lớp chủ
yếu do giáo viên thực hiện thông qua tổ chức các hoạt động
dạy học, còn quản lý hoạt động tự học do chính học sinh quản
lý, giáo viên có thể biết thông qua việc học sinh có tích cực
chủ động làm bài tập về nhà hay không, có chuẩn bị bài tốt
hay không, trên cơ sở đó giáo viên có những giúp đỡ, hướng
dẫn để học sinh chủ động trong việc quản lý hoạt động tự học
của mình. Đối với môn Tiếng Anh thì tự học đóng vai trò rất
quan trọng trong việc phát triển các kỹ năng ngôn ngữ.
Như vậy, có thể thông qua tổ trưởng chuyên môn, Hiệu
trưởng biết được tình hình thực tế dạy học môn tiếng Anh
trong nhà trường từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm quản
lý hoạt động dạy học bộ môn tiếng Anh một cách có hiệu quả
như quản lý các môn học khác.
Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy học
ngoại ngữ của học sinh



Ngoài cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nói chung, bộ môn
tiếng Anh cần có cơ sở vật chất thiết bị phục vụ dạy học hiện
đại, bao gồm: máy cassette, phòng nghe nhìn (Language lab), đĩa CD, VCD, phần mềm dạy học (violet, question tools,
hot potatos...), máy chiếu đa năng....
Việc quản lý sử dụng thiết bị dạy học có hiệu quả là hết
sức cần thiết để đảm bảo quá trình dạy học bộ môn đạt hiệu
quả. Do đặc thù bộ môn nên giáo viên tiếng Anh thường
xuyên sử dụng CNTT nhằm tạo môi trường ngôn ngữ để học
sinh dễ lĩnh hội và thực hành kiến thức, do vậy điều kiện cơ
sở vật chất thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ bộ môn là rất
quan trọng.
Để quản lý tốt cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ cho
việc dạy và học tiếng Anh, đòi hỏi hiệu trưởng phải xây dựng
kế hoạch mua sắm, đầu tư phương tiện, thiết bị trước mỗi năm
học, thường xuyên khuyến khích giáo viên sử dụng, kiểm tra
hiệu quả sử dụng thiết bị, từ đó có những điều chỉnh thích hợp.
Ngoài ra cần quan tâm bồi dưỡng cho giáo viên năng lực tìm
kiếm, phân tích, xử lý và sử dụng thông tin từ internet (năng lực
ICT) để phục vụ bài dạy.


Quản lý CSVC, thiết bị dạy học tiếng Anh còn bao gồm
việc khuyến khích, thúc đẩy và tạo mọi điều kiện để tổ chức
cho giáo viên tự làm đồ dùng dạy học và ứng dụng CNTT vào
dạy học ngoại ngữ; khuyến khích học sinh học tiếng Anh qua
mạng internet.
Quản lý CSVC, thiết bị dạy học tiếng Anh còn bao hàm
việc quản lý hoạt động soạn giảng bài giảng điện tử của giáo

viên. “Bài giảng điện tử là một tập hợp các học liệu điện tử
được tổ chức lại theo một kết cấu sư phạm để có thể cung cấp
kiến thức và kỹ năng cho người học một cách hiệu quả thông
qua sự trợ giúp của các phần mềm quản lý học tập (Learning
Management System). Một bài giảng điện tử thường tương
ứng với một học phần hoặc một môn học”. [20. 22]
Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh theo hướng
phát triển năng lực học sinh
Năng lực
NL được quy vào phạm trù khả năng (ability, capacity,
possibility) - Đây là hướng tiếp cận năng lực thường thấy
trong các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài.


Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới (OECD)
quan niệm năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả
những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể” [30].
Chương trình giáo dục trung học bang Quebec, Canada,
năm 2004, xem năng lực là một “khả năng hành động hiệu
quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực” [33; tr. 78].
Theo K.E. Paprock: năng lực được xem như là "những
khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá
trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông
qua thực hành giáo dục" [31; tr. 89].
Còn theo D. Tremblay, năng lực là “khả năng hành động
thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu
quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống
trong cuộc sống” [34; tr.4].
Các tác giả khác, như Dooley, K. E. Paprock, I. Sun và
E. G. Gonzalez [26], P.A. McLagan và D. Suhadolnik [28];

L.M.; C. Overtoom [29] T. Powell và B. Hubschman [32]…
cũng có đồng quan điểm trên.


Theo tài liệu giới thiệu chương trình giáo dục phổ thông
mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Kèm theo Công văn số
465/BGDĐT-VP ngày 31 /01/2018 của Bộ GDĐT): “Năng lực
là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất
sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người
huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá
nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành
công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn
trong những điều kiện cụ thể” [....]
Khái niệm năng lực sử dụng trong luận văn được hiểu là
năng lực thực hiện, đó là việc sở hữu kiến thức, kỹ năng, thái
độ và đặc điểm nhân cách mà một người cần có để đáp ứng
các yêu cầu của một nhiệm vụ cụ thể; nói cách khác, phải biết
làm (know-how), chứ không chỉ biết và hiểu (know-what).
NL được quy vào những thuộc tính cá nhân - Đây là
hướng tiếp cận năng lực thường thấy trong các tài liệu nghiên
cứu trong nước.


Phạm Minh Hạc xem năng lực là “một tổ hợp phức tạp
những thuộc tính tâm lý của mỗi người, phù hợp với những
yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động
đó diễn ra có kết quả” [9; tr.334].
Nguyễn Quang Uẩn xem năng lực là “tổ hợp các thuộc
tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một
hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả "

[21; tr.178].
Còn theo Nguyễn Thành Hưng, “năng lực là thuộc tính
cá nhân cho phép cá nhân thực hiện thành công hoạt động
nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ
thể” [11].
Phát triển năng lực
Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng
điều chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện
trong hoạt động tích cực của con người dưới tác động của rèn
luyện, dạy học và giáo dục. Vì thế, “cần tiếp cận vấn đề phát
triển năng lực theo cách tiếp cận nhân cách. Việc hình thành
và phát triển các phẩm chất nhân cách là phương tiện có hiệu
quả nhất để phát triển năng lực” [12; tr.180].


Phát triển năng lực học sinh là một nhiệm vụ thường
xuyên, đặc biệt quan trọng đối với các trường phổ thông. Phát
triển năng lực học sinh là nhằm làm cho các năng lực chung
và năng lực đặc trưng cho từng môn học/lớp học/cấp học
được hình thành, củng cố và hoàn thiện ở học sinh. Ở trường
THPT, vấn đề phát triển năng lực học sinh phải được đặt ra
theo quan điểm toàn diện, thông qua các hoạt động giáo dục
cơ bản của nhà trường, trong đó có HĐDH, được tổ chức một
cách đồng bộ [12; tr.180].
Quản lý dạy học môn tiếng Anh theo hướng phát triển
năng lực học sinh
Quản lý HĐDH môn tiếng Anh là một trong những nội
dung quản lý quan trọng nhất ở trường TH. Việc quản lý
HĐDH môn tiếng Anh có thể tiếp cận theo những định hướng
khác nhau, tùy thuộc mục đích, yêu cầu của các chủ thể quản

lý.


Nếu theo định hướng nội dung, quản lý HĐDH môn
tiếng Anh tập trung nhiều vào việc truyền thụ kiến thức cho
HS và kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức của các em. Còn
nếu theo định hướng phát triển NLHS, quản lý HĐDH tập
trung nhiều vào đầu ra của HS, vào sự tiến bộ của HS trong
quá trình dạy học.
Nói cách khác, quản lý HĐDH môn tiếng Anh ở trường
theo định hướng phát triển NLHS đòi hỏi, từ xây dựng mục
tiêu dạy học, lựa chọn nội dung dạy học, sử dụng phương
pháp và hình thức dạy học đến kiểm tra, đánh giá kết quả dạy
học ở trường phải được tổ chức, điều khiển theo định hướng
phát triển NLHS [31; tr.96].
Từ đó, có thể hiểu, quản lý HĐDH môn tiếng Anh theo
hướng phát triển NLHS là quá trình lập kế hoạch, tổ chức chỉ
đạo và kiểm tra, đánh giá HĐDH môn tiếng Anh để đảm bảo
đạt được mục tiêu phát triển NLHS.
Khái quát về môn tiếng Anh trong
chương trình giáo dục phổ thông mới
Đặc điểm môn học


Tiếng Anh là môn học trong CT GDPT bắt đầu từ lớp 3
đến lớp 12. Là một trong những môn học công cụ ở trường phổ
thông, môn Tiếng Anh không chỉ giúp học sinh hình thành và
phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh mà còn góp phần
hình thành và phát triển các năng lực chung; để sống và làm
việc hiệu quả hơn; để học tập tốt các môn học khác cũng như

để học suốt đời.
Môn học tiếng Anh cung cấp cho học sinh một công cụ
giao tiếp quốc tế quan trọng, giúp các em trao đổi thông tin,
tri thức khoa học và kỹ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn
hoá, qua đó góp phần tạo dựng sự hiểu biết giữa các dân tộc,
hình thành ý thức công dân toàn cầu, góp phần vào việc phát
triển phẩm chất và năng lực cá nhân.


Nội dung cốt lõi của môn tiếng Anh giúp học sinh hình
thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua rèn luyện các
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và các kiến thức ngôn ngữ (ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp). Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức
ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị năng lực giao
tiếp cụ thể, trong các chủ đề và chủ điểm phù hợp với học
sinh phổ thông, nhằm giúp các em khi kết thúc cấp tiểu học
đạt được năng lực giao tiếp Bậc 1, khi kết thúc bậc THCS đạt
được Bậc 2 và khi kết thúc cấp THPT đạt Bậc 3 theo Khung
năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (ban hành theo
Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014
của Bộ trưởng Bộ GDĐT) [...].
Quan điểm xây dựng chương trình
Trên cơ sở quán triệt các qui định cơ bản được nêu trong
CT GDPT tổng thể, Chương trình GDPT môn tiếng Anh nhấn
mạnh một số quan điểm xây dựng CT như sau:
Xây dựng dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn, cập
nhật thành tựu của khoa học hiện đại;



×