CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG ĐẠO
ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Chất lượng người giáo viên có đủ tài và đức là nhân tố quyết
định đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Người giáo viên cần hội
tụ đầy đủ năng lực sư phạm và đạo đức nghề nghiệp, bởi nghề sư
phạm là nghề có tính mô phạm. Hình ảnh người Thày cho dù ở
cấp học nào cũng luôn là tấm gương cho học sinh noi theo. Phẩm
chất đạo đức của người giáo viên là yếu tố quan trọng để làm nên
chất lượng giáo dục và giữ gìn giá trị của người làm nghề dạy học
trong cộng đồng và xã hội.
Chính vì vậy việc thường xuyên trau dồi bồi dưỡng và quản
lý bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ,bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp
cho giáo viên mầm non là việc hết sức thiết thực và cấp bách để
giáo dục mầm non có được đội ngũ đủ mạnh đáp ứng yêu cẩu đổi
mới giáo dục hiện nay.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới từ lâu vấn đề về đạo đức người Thày đã được
quan tâm và được đề cao. Khổng Tử (551- 479 TCN ) là nhà giáo
dục vĩ đại của Trung quốc đã cho rằng: Người Thày giáo trước hết
là người mẫu mực về đạo đức để làm nên tấm gương cho học sinh
noi theo. Muốn có được điều đó người Thày phải thường xuyên “
sửa mình theo lễ”; phải “dạy không biết mỏi” để trò học không biết
chán và tình cảm của thày - trò gắn bó như tình cảm cha - con. Như
vậy Khổng Tử đã đánh giá rất cao về đạo đức người Thày trong
nghề dạy học.
C. Mác và PH. Ăngghen là những người đầu tiên đặt nền
móng cho sự hình thành, phát triển của đạo đức của người cộng
sản và phẩm chất đạo đức của nhà giáo nói riêng. C. Mác đã từng
nhấn mạnh “ bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”
[29.tr10]
Kế tục những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen về đạo
đức,V.L Lênin khái quát lý luận về nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức bao gồm:
Thứ nhất: chủ nghĩa tập thể (đây là chuẩn mực nguyên tắc
hàng đầu của đạo đức mới.)
Thứ hai: lao động tự giác sáng tạo
Thứ ba: chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ
nghĩa quốc tế vô sản cao cả.
Thứ tư; chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Về việc bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cho nhà giáo Lênin cho rằng: người thày giáo
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa cũng cần phải có các chuẩn
mực đạo đức trên đây, tuy nhiên do yêu cầu của nghề nghiệp nên
các chuẩn mục đạo đức của người thày giáo được phản ánh mang
tính đặc thù hơn. “Thày giáo phải hòa mình vào cuộc đấu tranh
của quần chúng, ngành sư phạm phải có trách nhiệm tổ chức hoạt
động của giáo giới theo yêu cầu của xã hội xã hội chủ nghĩa.”
[28,tr 222].Về bện pháp giáo dục rèn luyện đạo đức, Lênin nhấn
mạnh vai trò tình cảm trong hành vi xã hội của đạo đức, đòi hỏi
đánh giá đạo đức phải thống nhất giữa động cơ tốt và hiệu quả tốt,
phải rèn luyện đạo đức trong sự nghiệp cách mạng, trong chiến
đấu và sản xuất.
S. Makarenko(1988 - 1939) là nhà giáo dục Xô viết lỗi lạc
có quan điểm đòi hỏi nhà giáo phải có phẩm chất đạo đức, phải
yêu trẻ, yêu nghề, mẫu mực trong lời nói ăn mặc, cử chỉ, có lý
tưởng, hoài bão ước mơ, sống lạc quan. Muốn vậy nhà giáo phải
rèn luyện và học tập không chỉ về phẩm chất tư cách mà cả về tri
thức, năng lực nghệ thuật giáo dục dạy học. Ông đã nói với các
thày,cô giáo rằng “Chúng ta không những phải cố gắng tối đa mà
phải có phẩm chất cao và tài năng khác thường” [28,tr 272]
Từ lâu nội dung đào tạo bồi dưỡng giáo viên đã được nhiều
nhà giáo dục trên thế giới nghiên cứu và công tác bồi dưỡng này
ngày càng được ngành giáo dục khẳng định là vô cùng quan trọng
và cần thiết. Ở Trung quốc: Chính phủ đã coi công tác đào tạo bồi
dưỡng giáo viên là “ máy cái ” của ngành giáo dục, là nền tảng
cho việc đào tạo thế hệ trẻ, để tạo nên những con người có đạo
đức tốt, có học vấn cao và sẵn sàng thích ứng với sự đi lên của thế
giới tương lai. Họ dành cho giáo viên những danh hiệu cao quí
như: “ Người vun trồng các bông hoa của dân tộc”, “Viên kim
cương của nhân loại”.... Họ đã tăng đầu tư ưu tiên xây dựng và
củng cố các trường sư phạm trọng điểm, coi đó là đối sách chiến
lược của toàn bộ sự nghiệp giáo dục coi việc làm tốt công tác giáo
dục sư phạm là chức năng của chính phủ” [ 15,tr15]
Ở Pháp: Đất nước có truyền thống coi trọng nghề dạy học. Họ
quan niệm:
“ Giảng dạy là một nghề đòi hỏi có trình độ chuyên sâu và
được đào tạo về nghề nghiệp rất cao” [15,tr 21]. Việc bồi dưỡng
giáo viên ở Pháp được thực hiện theo 3 hướng chính: Coi trọng
việc tự nâng cao trình độ nghề nghiệp của giáo viên. Tạo ra sự
phù hợp với công việc đối với tất cả giáo viên đặc biệt là đối với
giáo viên dạy các môn học mà lĩnh vực đó luôn có sự phát triển
mạnh mẽ và các thiết bị trở nên lạc hậu. Định kỳ xác định những
kiến thức sẽ phải đưa vào tổng thể chương trình bồi dưỡng để tổ
chức bồi dưỡng giáo viên.
Có thể nói ở Pháp luôn có sự chú trọng tới vấn đề bồi dưỡng
giáo viên, bởi họ luôn mong muốn có đội ngũ giáo viên có chất
lượng cao nhằm bảo đảm mục tiêu,kế hoạch giáo dục và đào tạo.
Cuốn sách “ Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên “của hai
tác giả Piere Besnard( Đại học Paris V- Sorbonne) và Benrnard
Lietard ( Đại học Geneve)có bàn về nội dung người lớn tham gia
đào tạo bồi dưỡng.
Tác phẩm: “Một số vấn đề đào tạo giảng viên” của tác giả
Michell Develey đã nói đến nội dung đào tạo giáo viên gồm nhiều
công đoạn: Nội dung; phương thức đào tạo; tính chất bản sắc nghề
nghiệp. Tác phẩm đã góp phần đổi mới công tác giáo dục.
Jacques Nimie với tác phẩm “Giáo viên rèn luyện tâm lý” đã
khẳng định việc đào tạo giáo viên không chỉ là công việc của các
trường sư phạm mà còn là cả quá trình trong cuộc sống và thực
hành nghề nghiệp sau này của mình, người giáo viên luôn phải tự
rèn luyện và phấn đấu.
Nhìn chung trên thế giới đều rất quan tâm đến vấn đề bồi
dưỡng đào tạo giáo viên và họ đều có hệ thống bồi dưỡng đào tạo
giáo viên rất bài bản từ trung ương đến địa phương. Hình thức bồi
dưỡng giáo viên còn tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia,
họ xây dựng quy trình theo hệ thống để phù hợp từng bước nâng
cao trình độ và chất lượng cho đội ngũ giáo viên.
Đạo đức nhà giáo luôn được các nước trên thế giới quan tâm
và xác định là yếu tố then chốt có vai trò quyết định đối với quá
trình giáo dục. Mỗi nhà giáo phải luôn tu dưỡng rèn luyện bản thân
để đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp.
Nội dung giáo dục bồi dưỡng đạo đức giáo viên được hình
thành từ rất sớm trong lịch sử và là một phần không thể thiếu
trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nhà trường.
Các công trình nghiên cứu trong ở trong nước
Cùng với nội dung giáo dục bồi dưỡng đạo đức giáo viên thì
nội dung quản lý bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp giáo viên cũng
được nhiều nhà khoa học đã đầu tư công sức trí tuệ để nghiên cứu
và tổng kết những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý để nâng
cao chất lượng giáo dục và chất lượng đội ngũ giáo viên qua đó
cũng nhằm bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ
quản lý, giáo viên.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng nói: “ Phi trí bất hưng”,
nghĩa là quốc gia muốn hưng thịnh thì không thể không quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục. Giáo dục là sinh mệnh mỗi quốc gia. Đảng
và nhà nước ta cũng xác định:
“ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nhiệm vụ của ngành
giáo dục và đào tạo là “ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi
dưỡng nhân tài”, đào tạo ra những con người mới có đạo đức cách
mạng, có kiến thức khoa học, có tình yêu tổ quốc. Để thực hiện
được công việc đó không ai khác chính là các nhà giáo và cán bộ
quản lí ngành giáo dục, những người đang thực hiện sự nghiệp “
trồng người ”.
Nhân cách của học sinh được hình hành và chịu ảnh hưởng
lớn từ tấm gương đạo đức của nhà giáo Bởi vậy việc các nhà giáo
nâng cao đạo đức nghề nghiệp là vấn đề vô cùng quan trọng đặt ra
ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, thời đại nào.
Việt Nam với truyền thống “ tôn sư trọng đạo” khi đến
trường “ tiên học lễ hậu học văn” đã tạo cho mỗi người Thày khi
bước lên bục giảng đã được đón nhận ở học trò sự tôn trọng, học
cái đức của Thày trao. Từ xưa câu nói “ Hiền tài là nguyên khí
quốc gia” đã cho thấy tầm quan trọng,giá trị đạo đức con người
luôn được đề cao, nó làm nên sự hưng thịnh cho quốc gia, tạo nên
cốt cách trân quý của mỗi con người, đặc biệt là đạo đức của
người Thày giáo lại càng trân quý hơn, khuôn vàng thước ngọc
cho học sinh noi theo. Danh tiếng của Thày giáo Chu Văn An từ
xưa đã cho chúng ta thấy ngoài việc dạy cho học sinh kiến
thức,Thày còn rất nghiêm khắc trong rèn đạo đức cho các học trò
của mình..
Nguyễn Trãi với rất nhiều các tác phẩm chứa đựng nhiều về
tư tưởng quan điểm về giáo dục và đặc biệt là nội dung giáo dục
đạo đức. Ông cho rằng điều quan trọng của người Thày là tấm
lòng nhân hậu, yêu thương con người đồng loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kính yêu của dân tộc chúng ta.
Người đã từng là một người Thày giáo thời tuổi trẻ, cho đến khi
trở thành nhà lãnh đạo của đất nước Người luôn dày công với việc
xây dựng nên những chuẩn mực giá trị đạo nghề nghiệp với từng
cương vị công tác, đồng thời tư tưởng,đạo đức phong cách của
Người luôn là tấm gương sáng cho mỗi người dân Việt Nam cần
học tập rèn luyện phấn đấu noi theo.
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là yếu tố nền tảng của người
cách mạng, nhà giáo cũng là những cán bộ cách mạng, vì thế phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ một
cách vẻ vang. Là người Thày của nền giáo dục hiện đại Việt Nam,
Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao công lao của các thầy, cô giáo,
Người nói: “ Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân
dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được”. Vì vậy
nghề thày giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang. Bác thường nhắc
nhở các Thày, cô giáo “ Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả
tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng đó là cái gốc rất là quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng.
đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một
lòng một dạ phục vụ nhân dân[ 14].
Đề cao vai trò và coi đạo đức cách mạng là linh hồn của
người Thày giáo vì thế Bác thường căn dặn: “Muốn cho học sinh
có đức thì giáo viên phải có đức. Cho nên Thầy cô giáo phải
gương mẫu …” [14], phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo
đức nâng cao trình độ chuyên môn“ dù khó khăn đến đâu cũng
phải thi đua dạy tốt học tốt” Hồ Chí Minh luôn coi trọng và dành
sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục, đặc biệt là người luôn nhắc
nhở đến sự trau dồi rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của người làm
công tác giáo dục. Người cho rằng cùng sự trau dồi đạo đức là
nguyên tắc để phát triển các phẩm chất đạo đức cách mạng.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng là người luôn dành sự
quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của đất nước. Ông cho rằng nghề
thày giáo là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Người
Thày là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục đóng vai trò
quan trọng đến việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Vì
thế Ông đòi hỏi “ Thày ra thày”, phải “sẵn sàng cống hiến cuộc
đời, tâm hồn, trí tuệ tài năng của mình, phong cách làm việc và
những thành quả của mình vào sự nghiệp giáo dục cao quý, coi đó
là lẽ sống”.
Khẳng định về yêu cầu đạo đức của người làm công tác giáo
dục đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nghị Quyết trung ương
khóa VIII xác định “ Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất
lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ
đức tài”. Luật giáo dục hiện hành quy định “ Nhà giáo phải có
những tiêu chuẩn đạo đức sau đây: “ Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng
tốt đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, lí
lịch bản thân rõ ràng” [23].
Các nhà khoa học Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn,
Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Văn Lê trong cuốn
sách “ Bàn về giáo dục Việt Nam” đã viết một số quan điểm cá
nhân của mình “...Tư duy và nhân cách quan trọng hơn kiến
thức...Người Thày dở là người chỉ đem kiến thức cho học trò,
người thày giỏi là người biết đem đến họ các tự tìm ra kiến
thức...” Đây là cuốn sách với nhiều bài viết về nhiều vấn đề của
giáo dục Việt Nam, với triết lý sâu sắc tầm nhìn rộng của một
người tâm huyết với giáo dục nước nhà.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bồi dưỡng chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên, tác giả Phạm
Minh Hạc trong cuốn ‘ Tâm lí học: đã viết tại chương VIII nội
dung đề cập đến người Thầy giáo. Tác giả đã chỉ ra các thành tố
tạo nên nhân cách người Thày giáo; đó là năng lực và đạo đức của
người Thày giáo [16].
Tác giả Nguyễn Kế Hào trong cuốn “ Giáo trình tâm lí học
lứa tuổi và tâm lí học sư phạm “ cũng đã đề cập đến phẩm chất
nhân cách người Thày giáo, từ đó khái niệm “ đạo đức nghề
nghiệp” được nhắc đến theo tác giả, trong nhân cách nhà giáo giai
đoạn kinh tế thị trường, có một số phẩm chất nổi lên, được kết
tinh như sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc sống và sự nghiệp của người
thày giáo. Đó là các phẩm chất lý tưởng nghề nghiệp, tính trung
thực trong cuộc sống, hoạt động nghề nghiệp và lòng tin. Khi đã
hội tụ đầy đủ những phẩm chất này thì nhân cách của người thày
mới hoàn thiện và có bản lĩnh nhà giáo để thực hiện nhiệm vụ cao
cả mà xã hội giao phó. Việc hình thành các phẩm chất là nhiệm vụ
bắt buộc và thông qua hai con đường; trường sư phạm và trong cả
quá trình hành nghề.[17 ]
Thực tế đã chứng minh việc nhận thức tầm quan trọng của bồi
dưỡng đạo đức nghề nghiệp và quản lý bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp cho giáo viên nói chung và giáo viên mầm non
nói riêng nên trong những năm trở lại đây đã có rất nhiều các công
trình, đề tài nghiên cứu về nội dung trên:
Luận văn Thạc sĩ của Dương Bích Ngọc (2010) “ Biện pháp
bồi dưỡng giáo viên mầm non ngoài công lập thành phố Việt Trì
tỉnh Phú Thọ theo Chuẩn nghề nghiệp ”
Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Thanh Hương (2010) “ Biện
pháp quản lí công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non của Sở GD &
ĐT thành phố Hà Nội”
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Diễm (2012) “ Quản
lí hoạt động bồi dưỡng giáo viên mầm non của Sở GD & ĐT tỉnh
Lâm Đồng ”
Luận văn Thạc sĩ của Trương Thị Hải Yến (2014) “ Quản lí
hoạt động bồi dưỡng giáo viên mầm non của phòng giáo dục và
đào tạo huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ”
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Cúc (2015) “ Quản lí
hoạt động bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho giáo
viên mầm non thành phố Hòa Bình”
Luận văn Thạc sĩ của Lê Quỳnh Nga (2016) “ Quản lí bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non Quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp”.
Mỗi đề tài nghiên cứu ở cấp độ và phạm vi khác nhau,chủ
yếu tập trung nghiên cứu các biện pháp bồi dưỡng giáo viên mầm
non nâng cao kĩ năng nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong giai
đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên mầm non là việc làm vô
cùng cấp bách, đặc biệt trước những hiện trượng vi phạm về đạo
đức nghề nghiệp thì công tác quản lí bồi dưỡng đạo đức nghề
nghiệp giáo viên mầm non là nội dung mà đề tài này tác giả tập
trung nghiên cứu, nhằm tìm ra các biện pháp quản lý bồi dưỡng đạo
đức nghề nghiệp cho giáo viên mầm non quận Lê Chân,thành phố
Hải Phòng.
Các khái niệm cơ bản
Đạo đức nghề nghiệp
Mỗi ngành nghề trong xã hội đều có những chuẩn mực quy
tắc yêu cầu về đạo đức về nghề nghiệp riêng biệt. Đạo đức còn
được xem là khái niệm nói về luân thường đạo lý con người. Nó
nói về những điểm tốt - xấu; đúng - sai của con người. “Đạo đức
thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong mọi
quan hệ xã hội; với thiên nhiên; với con người; với công việc; với
hiện tại quá khứ và tương lai” Đạo đức là thước đo thang giá trị
của con người trong mọi thời đại. Giá trị đạo đức không bao giờ
thay đổi, có chăng nó chỉ thay đổi cách nhìn và đánh giá về giá trị
ấy. Thời đại ngày nay con người có cách nhìn nhận và cách đánh
giá về những giá trị đạo đức nghề nghiệp mới.
Trong cuộc sống mỗi người cần có một công việc để làm để
sống và để khảng định mình. Theo E.A.Kimov: “ Nghề nghiệp là
một lĩnh vực sử dụng lao động vật chất và tinh thần con người
một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công của xã
hội mà có), nó tạo cho con người có khả năng sử dụng lao động
của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển ”.
Nhưng mỗi công việc lại cần có tiêu chí về đạo đức nghề
nghiệp riêng. Đạo đức nghề nghiệp là một khái niệm nhạy cảm
đối với bất cứ một ngành nghề nào trong xã hội đặc biệt trong thời
đại ngày nay.
Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội, thể hiện một cách
đặc thù cụ thể trong mọi lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể.
Với tính cách là một dạng của đạo đức xã hội, nó có mối quan hệ
chặt chẽ với đạo đức cá nhân, thông qua đạo đức của cá nhân để
thể hiện. Đồng thời đạo đức nghề nghiệp liên quan đến hoạt động
nghề và gắn với một kiểu quan hệ sản xuất trong một giai đoạn
lịch sử nhất định nên nó cũng mang tính giai cấp tính dân tộc.
Đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống chuẩn mực đạo đức
của người lao động trong một lĩnh vực sản xuất, hoạt động xã hội
cụ thể. Nó thể hiện ra ngoài là ý thức với công việc với người
xung quanh với môi trường.... Đạo đức nghề nghiệp của nghề dạy
học là yếu tố quan trọng phản chiếu về nhân cách sư phạm của
người Thày, là thước đo phẩm chất giá trị đạo đức, nội lực bên
trong của mỗi giáo viên, góp phần tạo nên hiệu quả công việc.
Ngày nay cụm từ “ đạo đức nghề nghiệp ” được nhắc đến
thật nhiều, mỗi con người sinh ra và để sống thì cần có một việc
làm, có nghề nghiệp vì thế bất cứ một nghề nghiệp nào cũng cần
đạo đức nghề nghiệp để tạo ra giá trị lợi ích cho xã hội.
Bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Nxb, Từ
điển Bách khoa, Hà nội 2010), Bồi dưỡng - đó là làm cho tăng
thêm sức của cơ thể bằng chất bổ và tăng thêm năng lực phẩm
chất. Khái niệm “ bồi dưỡng” được coi là một giai đoạn ngắn, bổ
trợ, nhằm bồi bổ thêm, làm tốt thêm và nâng cao hơn các tố chất
vốn đã có sẵn của khách thể.
“ Bồi dưỡng” là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến
thức, kĩ năng làm việc. Bồi dưỡng là quá trình truyền đạt thêm
một lượng kiến thức nhất định cho một đối tượng học tập cụ thể
trong đó không nhất thiết phải làm rõ về quá trình và hệ phương
pháp truyền đạt thêm, cũng không nhất thiết ta phải thay đổi cơ
bản chất lượng năng lực và kiến thức của người học, mà ta chỉ cần
cung cấp thêm năng lực và kiến thức cho họ. Thông qua hoạt động
bồi dưỡng đối tượng được bồi dưỡng sẽ nâng cao khả năng, tiềm
năng vốn có để phát huy tốt năng lực làm việc của họ.
Quản lý bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp
Để hiểu về quản lý bồi dưỡng đạo đức giáo viên mầm non,ta
hiểu khái niệm quản lý là gì? Có rất nhiều khái niệm khác nhau về
quản lý. Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “ Quản lí - phạm trù của
khoa học quản lý, tác động qua lại của chủ thể quản lý và khách
thể quản lý trong đó chủ thể quản lý đóng vai trò chủ đạo, vận
dụng các nguyên tắc quản lý trong xác định mục tiêu quản lý, nội
dung quản lý, phương pháp quản lý, phương tiện quản lý, kết quả
của từng công đoạn trong quy trình quản lý (Lập kế hoạch quản
lý; Tổ chức các nguồn lực để thực hiện kế hoạch quản lý; Thực
hiện kế hoạch quản lý; Kiểm tra thực hiện kế hoạch quản lý; Hành
động hiệu chỉnh để đạt mục tiêu chung của quản lý trong kế hoạch
quản lý đã lập)[1;Tr 74]
Tác giả Trần Kiểm: “ Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những
thành tựu của xã hội ” [18,Tr 28].
Tác giả Bùi Minh Hiền cho rằng; “ Quản lí là sự tác động có
tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu để ra” [13 Tr 48].
Qua các khái niệm trên, ta có thể hiểu khái niệm “ Quản lý là
hoạt động được thực hiện trong một tổ chức tác động có tính định
hướng của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý, nhằm phối hợp
sự nỗ lực của các cá nhân để thực hiện và hoàn thành mục tiêu của
tổ chức đó” [13].
Như vậy bản chất của hoạt động quản lý là “sự tác động có
mục đích của người quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt mục
tiêu quản lý”[13]. Trong giáo dục nhà trường đó là “ tác động của
người quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng
khác nhằm thực hiện các mục tiêu kế hoạch giáo dục của nhà
trường” [13,tr31].
Dù có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý nhưng
đều đề cập đến các nhân tố cơ bản của quản lý đó là: chủ thể quản
lý; đối tượng quản lý; mục tiêu quản lý. Hai yếu tố cơ bản cuả quản
lý: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Hai yếu tố này “ quan hệ
với nhau bằng những tác động quản lý trong đó chủ thể quản lý là
hạt nhân tạo ra các tác động. Đối tượng quản lý là bộ phận chịu tác
động của chủ thể quản lý”. Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng, có tính
không đồng cấp và bắt buộc.Và nói đến quản lý ta không thể không
nhắc đến 4 chức năng cơ bản của quản lý đó là: “Lập kế hoạch; Tổ
chức; Chỉ đạo; Kiểm tra”[13].
Từ đó có thể hiểu quản lý bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp
cho giáo viên mầm non là quản lý thực hiện mục tiêu, quản lý các
nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức việc bồi dưỡng nâng
cao năng lực của người giáo viên mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục mầm non và phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non.
Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non
Đạo đức với tư cách là những chuẩn mực xử sự được xã hội
thừa nhận, được hình thành và vận dụng từ chính thực tế của cuộc
sống xã hội. Trong những năm qua cơ chế thị trường đã ảnh
hưởng không ít đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó
đạo đức là một trong những lĩnh vực bị tác động và ảnh hưởng
nhiều trước thực tế đó mỗi ngành nghề trong xã hội đều có những
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đặc thù cho lĩnh vực của mình và
giáo dục mầm non cũng không ngoại lệ.
Đạo đức nghề nghiệp theo Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên mầm non
Yêu cầu chuẩnđạo đức nghề nghiệp giáo viên mầm non được
quy định tại chương 2 của “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm
nonban hành kèm theo Quyết định số 02/2008/QĐ - BGD ĐT
ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo”
[29] quy định:
“ Giáo viên mầm non có nhận thức tư tưởng đạo đức chính
trị, thực hiện trách nhiệm của một công dân, một nhà giáo đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bao gồm các tiêu chí sau:
+ Tham gia học tập, nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng,
chủ trương chính sách của Nhà nước;
+.Yêu nghề, tận tụy với nghề, sẵn sàng khắc phục khó khăn
hoàn thành nhiệm vụ;
+ Giáo dục trẻ yêu thương, lễ phép với ông bà,cha mẹ. người
lớn tuổi thân thiện với bạn bè và biết yêu quê hương;
+ Tham gia các hoạt động và bảo vệ quê hương đất nước góp
phần phát triển đời sống kinh tế,xã hội, cộng đồng.
Chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước. Bao gồm
các tiêu chí sau:
+ Chấp hành các quy định của pháp luật, chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước;
+ Thực hiện các quy định của địa phương;
+ Giáo dục trẻ thực hiện các quy định ở trường,lớp, nơi công
cộng.
+ Vận động gia đình và mọi người xung quanh chấp hành
các chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy định
của địa phương.
Chấp hành các quy định của ngành, quy định của trường, kỉ
luật lao động. Gồm các tiêu chí sau:
+ Chấp hành quy định của ngành, của nhà trường;
+ Tham gia đóng góp xây dựng và thực hiện nội quy hoạt
động của nhà trường;
+ Thực hiện các nhiệm vụ được phân công;
+ Chấp hành kỉ luật lao động, chịu trách nhiệm về chất lượng
giáo dục trẻ ở nhóm lớp được phân công.
Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của
nhà giáo, có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp. Bao gồm
các tiêu chí sau:
+ Sống trung thực, lành mạnh,giản dị, gương mẫu, được
đồng nghiệp người dân tín nhiệm trẻ yêu quý;
+ Tự học, phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh và thường xuyên rèn
luyện sức khỏe;
+ Không có biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống, trong chăm
sóc giáo dục trẻ;
+ Không vi phạm các quy định về các hành vi nhà giáo không
được làm.
Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng
nghiệp; tận tình phục vụ nhân dân và trẻ, Bao gồm các tiêu chí
sau:
+ Trung thực trong báo cáo kết quả chăm sóc, giáo dục trẻ và
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công;
+ Đoàn kết với mọi thành viên trong trường có tinh thần hợp
tác với đồng nghiệp trong các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ;
+ Có thái độ đúng mực và đáp ứng nguyện vọng chính đáng
của cha mẹ học sinh;
+ Chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương yêu, sự công bằng
và trách nhiệm của một nhà giáo” [29]
Đạo đức nghề nghiệp theo Điều lệ trường mầm non
Đạo đức nghề nghiệp giáo viên mầm non theo Điều lệ
trường Mầm non đã quy định:
“Bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của trẻ em trong thời
gian trẻ ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập;
Thực hiện tốt công tác nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ em
theo Chương trình Giáo dục mầm non;lập kế hoạch chăm sóc,giáo
dục; xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em; đánh giá và quản lý trẻ em; chịu
trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em;
tham gia các hoạt động Tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ,
nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất danh dự uy tín của nhà
giáo; gương mẫu thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng
nhân cách trẻ em; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ
em; đoàn kết giúp đỡ đồng nghiệp.
Tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho cha mẹ trẻ.
Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục
trẻ em.
Rèn luyện sức khỏe; học tập văn hóa; bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng,chăm sóc, giáo dục
trẻ.
Thực hiện các nghĩa vụ công dân các quy định của pháp luật
và của ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của Hiệu
trưởng” [30]
Đạo đức nghề nghiệp theo Quy định về đạo đức nhà giáo
của Bộ GD và ĐT
Trong Quy định về đạo đức nhà giáo của Bộ giáo dục và đào
tạo ban hành kèm theo “Quyết định số 16/2008 /QĐ - BGDĐT
ngày 16 tháng 04 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo” [31] ghi rõ:
“ Giáo viên cần tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn
danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng
nhân ái, bao dung độ lượng, đối xử hòa nhã với người học, đồng
nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
Luôn tận tụy với công việc, thực hiện đúng điều lệ, quy chế,
nội quy của nhà trường, của ngành.
Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực
chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh
thành tích, chống tham nhũng lãng phí.
Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm
túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái
pháp luật, quy chế quy định; không gây khó khăn, phiền hà với
người học với nhân dân;
Không gian lận thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu
khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy giáo dục.