Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị nâng cao chất lượng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh thanh hóa giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.7 KB, 39 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Đề án là trung thực, có nguồn gốc rõ
dàng và được trích dẫn đúng quy định. Đề án này phù hợp với vị trí,
chức vụ, đơn vị công tác của tôi và chưa được triển khai thực hiện
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
trong thực tiễn. CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TÁC GIẢ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH
HÓA
Trịnh Quốc Long
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Họ và tên học viên: Trịnh Quốc Long
Mã số học viên:
AP152343
Chức vụ: Phó trưởng Phòng Tổng hợp - Kế hoạch
Đơn vị công tác: Văn phòng UBND tỉnh Thanh Hóa
Lớp cao cấp lý luận chính trị: K66 - B24 Thanh Hóa

HÀ NỘI - NĂM 2017


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong đề án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích


dẫn đúng quy định. Đề án này phù hợp với vị trí, chức vụ, đơn vị công tác của
tôi và chưa được triển khai thực hiện trong thực tiễn.
Tác giả

Trịnh Quốc Long


iii
MỤC LỤC
Phần 1.
1.1.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.3.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
Phần 2.
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.3.1
2.1.3.2
2.1.3.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.

2.2.1.3.
2.2.1.4.
2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.2.
2.2.2.3.
2.2.2.4
2.3.
2.3.1.
2.3.1.1.
2.3.1.2.
2.3.2.
2.3.2.1.
2.3.2.2.
2.3.3.

MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
Mục tiêu chung
Mục tiêu cụ thể
NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
Đối tượng nghiên cứu của đề án
Phạm vi nghiên cứu
NỘI DUNG
CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Cơ sở lý luận
Cơ sở pháp lý
Lý luận về hòa giải ở cơ sở

Khái niệm và đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
Vai trò của hòa giải ở cơ sở
Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về hòa
giải ở cơ sở
NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
Thực trạng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Thực trạng pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa
Thực trạng về tổ chức hòa giải ở cơ sở
Thực trạng hoạt động hòa giải ở cơ sở
Đánh giá chung về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Thanh Hóa
Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện đề án
Xây dựng, củng cố, kiện toàn các Tổ hoà giải ở cơ sở
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở
Phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hoà giải ở
cơ sở
Hoàn thiện chế độ, chính sách, bảo đảm kinh phí hoạt động
TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án
Thuận lợi
Khó khăn
Điều kiện thực hiện đề án
Nguồn lực để thực hiện đề án
Kinh phí thực hiện đề án
Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án

Trang
01
04
04
04

04
05
05
05
06
06
06
06
07
07
09
10
13
13
13
16
17
19
22
22
23
24
25
25
25
25
26
26
26
26

27


iv
2.3.3.1.
2.3.3.2
2.3.4.
2.3.4.1.
2.3.4.2.
2.3.4.3.
2.3.4.4.
2.4.
2.4.1.
2.4.2.
Phần 3.
3.1.
3.2.

Thời gian thực hiện
Tiến độ thực hiện
Phân công trách nhiệm thực hiện đề án
Sở Tư pháp
Sở Tài chính
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố
Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hóa
DỰ KIẾN HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN
Sản phẩm của đề án
Tác động và ý nghĩa của đề án
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN

KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

27
27
28
28
29
29
30
30
30
31
32
32
33
34


1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
Xã hội bao giờ cũng có các mối quan hệ phong phú, đan chéo không
kém phần phức tạp. Nếu ứng xử không tốt các mối quan hệ đó sẽ làm phát
sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội. Do vậy để giữ gìn ổn định trật
tự xã hội, mỗi cá nhân, con người, tổ chức phải luôn lấy “hoà làm trọng”, coi
đối nhân xử thế là những lẽ sống ở đời, đồng thời đề cao những nét văn hoá
“tình làng nghĩa xóm”, “đạo vợ nghĩa chồng”, “anh em như thể chân tay”,
“chị ngã em nâng”... để duy trì tốt các mối quan hệ trong xã hội, chủ yếu là 3
mối quan hệ “đối với người”, “đối với việc”, “đối với mình”.

Phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc, đoàn kết, tương thân, tương
ái trong cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật trong nhân dân, góp phần giữ gìn, an toàn xã
hội, giảm bớt khiếu nại. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng
công tác hoà giải cơ sở, coi đây là một trong những yếu tố bảo đảm cho phát
triển kinh tế, ổn định về xã hội. Và thực tế cho thấy, ở những địa phương làm
tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo
đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở
những nơi coi nhẹ công tác hòa giải, mâu thuẫn xã hội phát sinh, tranh chấp
trong cộng đồng dân cư có chiều hướng tăng, dẫn đến tình hình mất ổn định
chính trị, trật tự kỷ cương và an toàn xã hội.
Để công tác hòa giải ở cơ sở phát huy hiệu quả trong việc giải quyết
các mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư, ngày 20 tháng 6 năm
2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở, khắc phục những hạn chế về
mặt pháp lý trong Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trước đây
(như: Một số quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể, chưa nêu rõ
trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể, vai trò, trách nhiệm của Ủy ban nhân
dân các cấp trong công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quy định rõ ràng, chưa
quy định các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải cơ
sở, chưa quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên...), tạo cơ sở


2
pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất điều chỉnh về tổ chức và hoạt động
của Tổ hòa giải và các tổ chức hòa giải thích hợp khác trong cộng đồng dân
cư. Tiếp đó, để thể chế hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở, ngày 27 tháng 02 năm
2014 Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở; ngày 18 tháng 11 năm
2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban

hành Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN hướng dẫn
phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở; ngày 30
tháng 7 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban
hành Thông tư liên tịch số 100/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công
tác hòa giải ở cơ sở... bảo đảm tốt hơn hiệu lực thi hành pháp luật trong hoạt
động hòa giải cơ sở; nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành
và toàn xã hội đối với công tác hòa giải ở cơ sở; nâng cao hiệu quả sự phối
hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cơ quan Tư pháp các cấp trong công
tác hòa giải cơ sở.
Nghiên cứu để đưa pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở vào cuộc
sống là vô cùng cần thiết, nhất là với một tỉnh đất rộng, người đông như
Thanh Hóa. Để tạo đà cho hoạt động hòa giải ở cơ sở, Ủy ban nhân dân, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành một số văn bản pháp luật
quan trọng như: Chỉ thị số 08/CT-CT ngày 28 tháng 01 năm 2005 về việc
củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa; Quyết định số 4463/QĐ-UBND ngày 15 tháng 12 năm 2009 phê
duyệt Đề án “Củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa
giải ở cơ sở”; Quyết định số 2447/QĐ-UBND ngày 07 tháng 7 năm 2016 về
việc công bố thủ tục hành chính được chuẩn hóa trong lĩnh vực phổ biến, giáo
dục pháp luật và lĩnh vực hòa giải ở cơ sở thuộc thẩm quyền giải quyết của
Ủy ban nhân dân cấp huyện tỉnh Thanh Hóa; Quyết định số 2448/QĐ-UBND
ngày 07 tháng 7 năm 2016 về việc công bố thủ tục hành chính được chuẩn
hóa trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật và lĩnh vực hòa giải ở cơ sở
thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh Thanh Hóa; Kế
hoạch triển khai thi hành Luật hòa giải ở cơ sở.... Nhờ vậy, công tác hòa giải ở


3
cơ sở những năm gần đây ngày càng đi vào nề nếp, có hiệu quả, đúng pháp

luật... góp phần giảm thiểu số vụ việc tranh chấp phải đưa lên cơ quan có
thẩm quyền và tòa án giải quyết, xây dựng đời sống văn hóa, gia đình, cộng
đồng, xã hội ổn định, phát triển.
Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, tuy nhiên công tác hòa
giải ở cơ sở tại Thanh Hóa vẫn còn bộc lộ một số hạn chế đó là: Một số địa
phương chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải nên
thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công
tác hòa giải, chưa thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hòa giải, chưa
theo dõi sự biến động để củng cố, kiện toàn kịp thời; việc chia, tách, thành lập
mới các Tổ hòa giải chưa phù hợp; kinh phí, chế độ chính sách dành cho hòa
giải viên ở cơ sở còn rất hạn chế; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm
công tác hòa giải có nơi còn chưa được thường xuyên; năng lực của một bộ
phận làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải còn chưa đảm bảo; sự phối
hợp giữa các cơ quan có liên quan trong công tác hòa giải ở cơ sở đôi lúc còn
chưa chặt chẽ....
Đi tìm câu trả lời “Vì sao có những hạn chế trên”, chúng tôi nhận thức
vấn đề cốt lõi là chưa có biện pháp đảm bảo hữu hiệu để Luật Hòa giải ở cơ
sở thực sự đi vào cuộc sống. Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản liên quan
đã quy định rất rõ vấn đề tổ chức, hoạt động cũng như vấn đề chế độ hỗ trợ
cho công tác hòa giải và hòa giải viên ở cơ sở. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy
khó đảm bảo được các quyền này của hòa giải viên và Tổ hòa giải ở cơ sở
một cách đầy đủ do ngân sách địa phương chưa bố trí được. Trong khi đó,
Luật Hòa giải ở cơ sở nêu rõ “Ngân sách Trung ương chi bổ sung cho các địa
phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa
giải ở cơ sở” (Khoản 1, Điều 6), nhưng thực tế việc này chưa triển khai.
Như vậy, quay về với thực tiễn “có thực mới vực được đạo”. Hòa giải
viên nếu cứ “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” thì dù có nhiệt tình đến mấy sẽ
có lúc hoạt động phải cầm chừng, khó đáp ứng được so với thực tế nhu cầu
của xã hội. Và đã đến lúc, các cấp, các ngành nói chung và tại Thanh Hóa nói
riêng cần quan tâm đến vấn đề “chính danh” hơn nữa cho Hòa giải viên,

không chỉ là việc ghi tên trong quyết định mà việc bầu, công nhận, miễn


4
nhiệm hòa giải viên phải đảm bảo theo Luật để khẳng định rõ niềm tin, sự kỳ
vọng của nhân dân vào tổ chức tự quản này.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên lựa chọn đề án: “Nâng
cao chất lượng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện
nay” làm đề án tốt nghiệp.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
1.2.1. Mục tiêu chung
- Kiện toàn, củng cố về tổ chức và hoạt động hòa giải để Tổ hòa giải tại
các thôn, bản, khu phố tồn tại, hoạt động phù hợp với từng địa bàn dân cư.
- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai
trò của công tác hòa giải ở cơ sở trong tình hình mới, tạo sự chuyển biến cơ
bản, bền vững, hiệu quả trong hoạt động hòa giải ở cơ sở, góp phần giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2020, công tác hòa giải ở cơ sở trong toàn tỉnh phấn đấu đạt
được kết quả sau:
- Về tổ chức: Tất cả các thôn, bản, khối phố, cụm dân cư trong toàn tỉnh
thành lập, củng cố, kiện toàn được Tổ hòa giải ở cơ sở phù hợp với đặc điểm
địa hình, địa bàn dân cư; thường xuyên củng cố, kiện toàn lực lượng hòa giải
viên, phấn đấu bồi dưỡng về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hòa giải cho 100% tổ trưởng và 90% tổ viên
Tổ hòa giải.
- Về hoạt động: Thường xuyên nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động hòa giải ở cơ sở, phấn đấu 100% những việc vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong nhân dân được tiến hành hòa giải ở cơ sở kịp thời, đúng quy

định của pháp luật; tỷ lệ hòa giải thành đạt từ 97% trở lên.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
- Làm rõ quan niệm về hòa giải, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, nội dung
hòa giải; nội dung pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh
Thanh Hóa qua khảo sát thực tiễn.


5
- Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề án:
Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ 01/01/2014
đến 31/12/2016.


6
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Cơ sở lý luận
Đề án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về hòa giải ở cơ sở. Đồng thời đề án còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê, tổng
kết thực tiễn trong quá trình giải quyết các vấn đề đặt ra của đề án.
2.1.2. Cơ sở pháp lý

Đề án được xây dựng dựa trên những căn cứ pháp lý chủ yếu sau:
- Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ,
nhân dân.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20 tháng 6
năm 2012.
- Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013.
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 75/2015/QH13 ngày 09 tháng 6
năm 2015.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày
22 tháng 6 năm 2015.
- Luật Ngân sách nhà nước số 85/2015/QH13 ngày 25 tháng 6 năm 2015.
- Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở.
- Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18
tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa


7
giải ở cơ sở.
- Thông tư liên tịch số 100/TTLT-BTC-BTP ngày 30 tháng 7 năm 2014
của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc lập dư
toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện
công tác hòa giải ở cơ sở.
2.1.3. Lý luận về hòa giải ở cơ sở

2.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm hòa giải ở cơ sở
a) Khái niệm hoà giải ở cơ sở:
Hiện nay Pháp luật các quốc gia rất đề cao hòa giải ở cơ sở, nhưng tên
gọi của các tổ chức đó được sử dụng rất khác nhau:
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gọi với tên là “Hòa giải nhân dân” theo
đó “Hòa giải nhân dân là quá trình một Ủy ban nhân dân thuyết phục các
bên liên quan đến một mâu thuẫn đạt được một thỏa thuận hòa giải trên cơ
sở thương lượng bình đẳng và tự do ý chí và mang lại một kết quả là giải
quyết mâu thuẫn giữa các bên” [59, tr.2].
Sigapore lại gọi là hòa giải cộng đồng, theo đó: “Hòa giải bao gồm
việc thực hiện bất cứ hành động nào nhằm xúc tiến việc trao đổi và giải quyết
tranh chấp; tập hợp các bên tranh chấp lại với nhau vì mục đích nêu trên,
theo yêu cầu của một bên tranh chấp hoặc do Giám đốc chủ động tiến hành
và tiếp tục giải quyết các vấn đề trọng tâm của việc trao đổi và giải quyết
đó” [32, tr.1].
Tại Việt Nam nhằm đề cao hoạt động nơi cơ sở, nơi cộng đồng dân cư,
làng xóm với lối sống tình làng nghĩa xóm nên gọi với tên là hòa giải ở cơ sở.
Hoạt động hòa giải ở Việt nam xuất phát từ thực trạng tại cơ sở, hiện nay yêu
cầu tự quản trong nhân dân được đặt lên hàng đầu nên hoạt động hòa giải ở cơ
sở không tổ chức theo mô hình có quá trình tham gia của Ủy ban nhân dân
hoặc thông qua Trung tâm hòa giải như ở một số nước ở trên. Tại khoản 1,
Điều 2, Luật Hòa giải ở cơ sở của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định hòa giải ở cơ sở “là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên
đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh
chấp, vi phạm pháp luật” [44].
b) Đặc điểm hoà giải ở cơ sở:


8
Hoạt động hòa giải ở cơ sở qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn thi hành

pháp luật tại cơ sở trong thời gian qua có thể thấy hòa giải ở cơ sở có một số
đặc điểm sau:
- Về bản chất của quá trình hòa giải: Hòa giải cơ sở là việc giải quyết
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật giữa các bên về quyền và lợi ích.
Trong hoạt động hoà giải, các bên tranh chấp cần đến một bên thứ ba làm
trung gian, giúp họ đạt được một thỏa thuận, giải quyết được những bất đồng.
- Về chủ thể thực hiện hòa giải ở cơ sở: Hoà giải viên tại các Tổ hoà
giải. Tổ hoà giải hiện nay không phải là một tổ chức chính quyền mà là một tổ
chức quần chúng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và được thành lập theo
đơn vị dân cư ở cơ sở: xóm, thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư. Việc
hoà giải, giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong nhân dân do hoà giải viên các tổ hoà giải thực hiện. Và hòa
giải viên trực tiếp tham gia trong quan hệ hòa giải, nhưng có vai trò trung lập
và độc lập với các bên tranh chấp. Hoà giải viên chỉ có quyền giải thích,
thuyết phục, cảm hóa hai bên tranh chấp thỏa thuận, tự nguyện chấm dứt
tranh chấp, mâu thuẫn hay xung đột mà không được áp đặt hoặc can thiệp vào
nội dung thỏa thuận của các bên.
- Nội dung thỏa thuận của các bên tranh chấp bảo đảm phù hợp với
chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt
đẹp của nhân dân; dù cho thỏa thuận đó thể hiện ý chí tự nguyện của các bên
tranh chấp, nhưng nội dung của thỏa thuận đó không phù hợp với quy định
của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì sẽ không được công nhận.
- Về chủ thể của quan hệ hoà giải ở cơ sở: Chính là các bên tranh chấp
vì họ chính là chủ thể của các tranh chấp, các mâu thuẫn, nên họ có toàn
quyền định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó, chứ không phải
là ai khác. Đây có thể nói là một trong những đặc điểm nổi trội của hoạt động
hòa giải ở cơ sở, đặc biệt đề cao quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp
trong việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật.
- Về nguyên tắc hoà giải ở cơ sở: Điều 4, Luật Hòa giải ở cơ sở đã đưa
ra 6 nguyên tắc cơ bản trong hoà giải, trong đó một trong những nguyên tắc

nền tảng, quan trọng nhất trong hoạt động hòa giải là “tôn trọng sự tự nguyện


9
của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở” [44].
Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền tự nguyện tham gia, tự nguyện quyết
định và tự nguyện chấm dứt các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên.
- Về phương pháp hòa giải hoà giải ở cơ sở: Trên cơ sở pháp luật, đạo
đức xã hội và bằng uy tín của mình, hòa giải viên giải thích, thuyết phục, giáo
dục, cảm hóa, động viên các bên tranh chấp tự hoà giải, đi đến thoả thuận giải
quyết tranh chấp, mâu thuẫn và những bất đồng với phương châm kiên trì và
bền bỉ không có giới hạn.
- Về mục đích của hoà giải ở cơ sở là hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp ngay từ ban đầu nhằm phát huy tinh thần
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng
họ và cộng đồng dân cư; xây dựng tình làng, nghĩa xóm, giữ gìn đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền
thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu hoà giải ở cơ sở là việc Hoà
giải viên vận dụng pháp luật, đạo đức xã hội để giải thích, hướng dẫn, thuyết
phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
những mâu thuẫn và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân
dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
2.1.3.2. Vai trò của hòa giải ở cơ sở
Với hiệu quả thiết thực của mình, công tác hoà giải ở cơ sở thực sự có
vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng ở cơ sở.

Thứ nhất, việc hoà giải các vi phạm pháp luật và các tranh chấp, mâu
thuẫn, bất đồng giữa các thành viên trong gia đình, giữa các cá nhân trong
cộng đồng dân cư đã góp phần giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng
cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và
cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.


10
Thứ hai, hoạt động hoà giải ở cơ sở góp phần tích cực trong việc hạn
chế đơn thư khiếu nại, tố cáo tràn lan, vượt cấp, kéo dài. Mỗi vụ việc xảy ra ở
cơ sở nếu được hoà giải, giải quyết kịp thời sẽ tiết kiệm được thời gian, công
sức, tiền bạc của chính các bên tranh chấp, cũng như của các cơ quan nhà
nước như chính quyền địa phương, toà án.
Thứ ba, hoạt động hoà giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng đối với công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Bằng việc vận dụng những quy
định của pháp luật để giải thích, phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp, tổ
viên tổ hoà giải góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật và quan trọng hơn cảm
hóa, giáo dục ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật cho các bên.
Tóm lại, hòa giải ở cơ sở là một hoạt động rất quan trọng nhằm giải
quyết mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư, qua
đó giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng, phòng ngừa vi phạm
pháp luật và tội phạm ở cơ sở thông qua việc phát hiện và giải quyết những
mâu thuẫn, tranh chấp, góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa bàn dân cư, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền tăng cường công tác quản lý xã
hội ở cơ sở.
2.1.3.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về hòa
giải ở cơ sở
Trước cách mạng tháng Tám, thuật ngữ hoà giải ở cơ sở chưa xuất hiện
tuy nhiên đã có khá nhiều hương ước, khoán ước quy định về hoà giải và đã

có nhiều quy định tiến bộ liên quan đến hoạt động hoà giải hay hoạt động tự
quản nơi làng xã. Sau này, thời kỳ đầu thế kỷ XX, hoạt động hoà giải đã có
nhiều tiến bộ, theo đó đã nhập thành Hội đồng hoà giải để giải quyết các kiện
cáo về dân sự hay thương sự.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công (1945), Nhà nước ta đã ban
hành các văn bản pháp luật quy định về hòa giải như Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký.
Theo đó: Ban Tư pháp xã có nhiệm vụ hoà giải tất cả các việc về dân sự,
thương sự.
Từ năm 1961 - 1981, sau khi Bộ Tư pháp giải thể (1961) nhiệm vụ
quản lý công tác hoà giải của Bộ Tư pháp được chuyển giao sang cho Toà án


11
nhân dân tối cao thực hiện. Tòa án nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 02-TC
ngày 26/02/1964 về việc xây dựng Tổ hòa giải và kiện toàn Tổ tư pháp xã,
khu phố.
Cuối năm 1981, Bộ Tư pháp được thành lập lại theo Nghị định số
143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ)
được giao nhiệm vụ quản lý và hướng dẫn hoạt động của Tổ hoà giải từ Toà
án nhân dân tối cao chuyển sang. Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 08/TT ngày
06-01-1982 hướng dẫn xây dựng và kiện toàn hệ thống các cơ quan tư pháp
địa phương, đặc biệt là tư pháp huyện và xã. Các cơ quan tư pháp này trực
tiếp quản lý và hướng dẫn hoạt động hoà giải. Từ năm 1982 đến năm 1987,
các Tổ hoà giải đã được thành lập ở các thôn, xóm, ấp, tổ dân phố... trong
phạm vi cả nước. Hoạt động hoà giải được tiến hành rộng rãi ở cơ sở và đã
góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa và giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp trong nhân dân.
Từ năm 1988 đến năm 1992, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, tổ chức
và hoạt động của Tổ hoà giải ở nhiều cơ sở bị giảm sút, có nơi một số tổ hoà

giải bị tan rã và hầu như không hoạt động hoặc có hoạt động, nhưng hiệu quả
không cao. Nguyên nhân chính là do các Phòng Tư pháp cấp huyện bị giải thể
do việc tinh giản biên chế. Trong khi đó, Tư pháp xã lại không có cán bộ
chuyên trách và Sở Tư pháp không đủ lực lượng cán bộ để đảm đương nhiệm
vụ xây dựng tổ chức và hướng dẫn hoạt động hoà giải đến từng thôn, xã.
Từ năm 1992 - 1997, hoạt động hòa giải từng bước được củng cố và phát
triển. Bộ Tư pháp đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương trước đây giải thể
Phòng Tư pháp khẩn trương thành lập lại; củng cố, kiện toàn Tư pháp xã, để
quản lý và hướng dẫn hoạt động hoà giải ở cơ sở. Và chế định hòa giải chính
thức được ghi nhận tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 “Ở cơ sở, thành lập các
tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và
những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” [34].
Từ 1998 đến nay, tiếp thu những quan niệm, những tư tưởng về hòa
giải, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này đã nhận
thức rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác hòa giải ở cơ sở và luôn
coi việc khuyến khích, tăng cường công tác hòa giải là một chủ trương nhất


12
quán trong quản lý xã hội. Và theo thời gian, các quy định pháp luật về hòa
giải ở cơ sở đã được hình thành một hệ thống và công tác quản lý hòa giải ở
cơ sở cũng trở nên hoàn thiện hơn, phù hợp hơn.
Trên cơ sở Hiến pháp, ngày 25/12/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở và tiếp đó ngày 18/10/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số
160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh. Hai văn bản
quy phạm pháp luật trên được ban hành đã đánh dấu bước phát triển quan
trọng của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục
củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ tổ viên Tổ hoà giải và tăng cường vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác, cơ quan

nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang và công dân đối với công tác hoà giải ở
cơ sở. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương
được thành lập, hoạt động trên phạm vi cả nước; các Tổ hoà giải đã thành lập
được kiện toàn và thành lập các Tổ hoà giải mới theo quy định của pháp luật
Tuy nhiên, qua triển khai thi hành Pháp lệnh tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở và một số văn bản pháp luật liên quan đến công tác hòa giải ở cơ
sở còn bộc lộ nhiều hạn chế: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hòa
giải ở cơ sở chưa thực sự đầy đủ và đồng bộ. Một số luật, pháp lệnh chuyên
ngành như Luật Đất đai cũng có các quy định liên quan đến hòa giải ở cơ sở
có những điểm khác với quy định của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở dẫn đến sự không thống nhất, đồng bộ trong thực tiễn tổ chức và
hoạt động hòa giải ở cơ sở; một số quy định trong Pháp lệnh về tổ chức và
hoạt động hòa giải ở cơ sở còn chưa rõ ràng, cụ thể, chưa nêu rõ trách nhiệm
của các tổ chức đoàn thể (Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân…) vì
vậy đã gây khó khăn cho hoạt động của Tổ hòa giải và hòa giải viên, làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động hòa giải.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ngày 20/6/2013, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Hoà giải ở cơ sở số
35/2013/QH13. Sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2014/NĐ-CP
ngày 27 tháng 02 năm 2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi


13
hành Luật Hòa giải ở cơ sở; Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính ban hành
Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30 tháng 7 năm 2014
quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách
Nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Những văn bản pháp luật này
có nhiều quy định mới so với trước đây như: Mở rộng phạm vi hòa giải theo
hướng loại trừ, chỉ quy định những việc không tiến hành hoà giải; bổ sung

thêm một số chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở;
sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, thủ tục bầu, công nhận hòa giải viên, quyền
và nghĩa vụ của hòa giải viên, của tổ trưởng Tổ hòa giải; đề cao vai trò nòng
cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công
tác hòa giải ở cơ sở… đã tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện, tổ chức thực hiện công tác hoà giải cơ sở, không can thiệp sâu,
nhiều vào hoạt động hoà giải cơ sở, để hoạt động hòa giải cơ sở trở thực sự là
hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định.
Nhìn chung, hệ thống chính sách pháp luật Việt Nam về hòa giải ở cơ sở
trong những năm qua đang từng bước hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất theo
hướng mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng
và quản lý nhà nước. Quyền lợi của hòa giải viên, của các bên tranh chấp ngày
càng được bảo vệ hơn. Và theo đó trách nhiệm, nghĩa vụ đặt ra với hòa giải
viên, với tổ trưởng Tổ hòa giải, với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về hòa
giải cũng ngày càng nặng nề hơn. Tuy nhiên với những quy định mới nhằm đề
cao dân chủ trong hoạt động hòa giải ở cơ sở tin rằng sẽ là chìa khóa vạn năng
để chúng ta có thể giải quyết mọi khó khăn trong đời sống hiện nay.
2.2. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
2.2.1.1. Thực trạng pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh Bắc Miền Trung với diện tích 11.130km2 với dân
số 3476,6 nghìn người (số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2013),
trong đó có 6 dân tộc cùng sống chung với người kinh được phân bổ trên 27
huyện, thị xã, thành phố, trên 6.000 thôn, bản, khối phố. Là tỉnh có điều kiện
tự nhiên phân bố thành 3 vùng rõ rệt với 10 huyện, thị xã, thành phố thuộc
vùng đồng bằng trung du gần 2 triệu dân/tổng số dân; 11 huyện miền núi với


14
6 dân tộc anh em có tổng số dân trên 1 triệu người và 6 huyện vùng biển với

trên 1 triệu dân.
Để quản lý các tổ chức hoà giải nhằm phát huy hết vai trò của công tác
này tại địa phương, đồng thời để các hoạt động hòa giải ngày càng hiệu quả
hơn, trên cơ sở Pháp lệnh Hòa giải ở cơ sở và Luật Hòa giải ở cơ sở, trong
những năm qua tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên
quan đến hoạt động hòa giải ở cơ sở. Trong đó nổi bật là Chỉ thị số 08/CTUBND ngày 28/01/2005 của UBND tỉnh Thanh Hóa về củng cố, nâng cao
chất lượng hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Chỉ thị đã
nêu rõ vai trò quan trọng của hoạt động hòa giải ở cơ sở đồng thời nhìn nhận
rõ một số tồn tại trong công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn. Đồng thời, yêu
cầu các cấp, các ngành cần tiến hành một số nhiệm vụ để kiện toàn tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở như: Xây dựng kế hoạch tuyên
truyền, phổ biến một cách sâu rộng, thiết thực, hiệu quả Pháp lệnh tổ chức và
hoạt động hoà giải ở cơ sở, các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ;
tăng thời lượng thoả đáng trong các chuyên trang, chuyên mục về Nhà nước
và pháp luật tại các cơ quan thông tin đại chúng để phản ánh hoạt động của
công tác hoà giải ở cơ sở; xây dựng kế hoạch khảo sát thực tế, nghiên cứu và
hướng dẫn xây dựng mô hình tổ hoà giải cho phù hợp với điều kiện, phong
tục, tập quán ở mỗi địa phương; kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ hoà giải ở cơ sở; hỗ trợ kinh phí cho các tổ hoà giải hoạt
động; tổ chức các lớp tập huấn cho hoà giải viên; in ấn tài liệu, sổ tay công tác
hoà giải ở cơ sở.... Qua đó công tác hòa giải ở cơ sở đã được triển khai tại
Thanh Hóa tương đối tốt, đặc biệt tại một số địa bàn như: Thành phố Thanh
Hóa, Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Yên Định, Như Thanh, Như Xuân, Nông Cống....
Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định số 4463/QĐUBND ngày 15/12/2009 phê duyệt Đề án “Củng cố, kiện toàn tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở”. Theo đó tập trung rà soát,
đánh giá, phân loại cụ thể Tổ hòa giải ở cơ sở, xây dựng, củng cố, kiện toàn
tổ chức hòa giải ở cơ sở để mỗi thôn, bản, khối phố, cụm dân cư thành lập
một Tổ hoà giải ở cơ sở. Đồng thời triển khai lồng ghép hoạt động hòa giải ở
cơ sở trong thực hiện các phong trào, cuộc vận động ở cơ sở do Mặt trận Tổ



15
quốc Việt Nam phát động; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ hoà
giải cho tổ trưởng và tổ viên Tổ hoà giải ở cơ sở; tăng cường công tác quản lý
đối với hoạt động hòa giải nhằm khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả lực
lượng làm công tác hòa giải ở cơ sở; phát hành thường xuyên và cung cấp tài
liệu hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ hòa giải; hướng dẫn kỹ năng, phương
pháp hòa giải dưới các hình thức phù hợp, dễ hiểu, trao đổi kinh nghiệm về
công tác hòa giải cho tổ trưởng và tổ viên Tổ hòa giải ở cơ sở; tổ chức thi hòa
giải viên giỏi.…
Cùng với văn bản quan trọng liên quan trực tiếp đến tổ chức, hoạt động
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh ở trên, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã
ban hành một số văn pháp luật liên quan mang tính chất hỗ trợ trong đó có
nhiều nội dung liên quan đến nguồn kinh phí, đến việc bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải ở cơ sở như: Quyết định
số 3713/QĐ-UBND ngày 19/10/2009 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án
“Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất
nước” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 - 2012; Quyết định số
2344/QĐ-UBND ngày 05/7/2013 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Củng
cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước” trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013 - 2016; Quyết định số 2591/QĐ-UBND
ngày 27/7/2010 phê duyệt dự toán kinh phí thực hiện Đề án “Củng cố kiện
toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hòa giải ở cơ sở từ năm 2010 - 2015”.
Với những văn bản pháp luật quan trọng như trên Thanh Hóa đã xây
dựng nên một hành lành lang pháp lý khá “đặc biệt” để Tổ hòa giải ở cơ sở
được củng cố, mở rộng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng phát triển. Và
thực tế để triển khai thực hiện Đề án “Củng cố kiện toàn về tổ chức, nâng cao
hiệu quả hòa giải ở cơ sở”; Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh

Thanh Hóa đã ban hành nhiều Kế hoạch, văn bản hướng dẫn, tổ chức thực
hiện phù hợp, gắn liền với cơ sở và triển khai thống nhất, hiệu quả trên địa
bàn như: Kế hoạch số 53/KH-UBND ngày 10/3/2013 về tổ chức cuộc thi
“Tìm hiểu pháp luật về hòa giải ở cơ sở” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa năm


16
2013; Kế hoạch số 139/KH-UBND ngày 31/12/2013 triển khai thực hiện Luật
Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 2447/QĐ-UBND ngày 07
tháng 7 năm 2016 về việc công bố thủ tục hành chính được chuẩn hóa trong
lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật và lĩnh vực hòa giải ở cơ sở thuộc thẩm
quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp huyện tỉnh Thanh Hóa; Quyết định
số 2448/QĐ-UBND ngày 07 tháng 7 năm 2016 về việc công bố thủ tục hành
chính được chuẩn hóa trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật và lĩnh vực
hòa giải ở cơ sở thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh
Thanh Hóa. Trên cơ sở đó, các huyện, thị xã, thành phố cũng đã khẩn trương
ban hành văn bản triển khai thực hiện góp phần nâng cao kiến thức và hiểu
biết pháp luật trực tiếp cho đội ngũ hòa giải viên cơ sở, đồng thời gián tiếp
qua các kênh tuyên truyền, các hình thức tuyên truyền để người dân Thanh
Hóa tiếp cận pháp luật về ý nghĩa, vị trí của hòa giải ở cơ sở và hình thành ý
thức chấp hành pháp luật, giữ gìn được tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết
tương thân, tương ái trong cộng đồng, hạn chế các vụ, việc khiếu kiện vượt
cấp, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án giải
quyết, tiết kiệm thời gian, tiền bạc của nhân dân và nhà nước.
Như vậy, với việc xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
và văn bản mang tính hành chính quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ
sở tương đối đồng bộ, phù hợp, được triển khai rộng trên địa bàn tỉnh, Thanh
Hóa đã khẳng định sự ưu tiên của mình trong việc củng cố, kiện toàn lại tổ
chức hòa giải ở cơ sở cũng như việc chú trọng nâng cao chất lượng hòa giải ở
cơ sở. Tạo cho công tác hòa giải ở cơ sở của Thanh Hóa có một hành lang

pháp lý khá an toàn, phù hợp với thực tiễn, đồng bộ để phát triển.
2.2.1.2. Thực trạng về tổ chức hòa giải ở cơ sở
Từ 01 tháng 01 năm 2014 đến nay, trên cơ sở triển khai thi hành Luật
hòa giải ở cơ sở, Thanh Hóa đã chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thành lập, kiện
toàn Tổ hòa giải theo đúng quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở. Toàn tỉnh có
5.571 Tổ hòa giải với 34.659 hòa giải viên. Mỗi Tổ hòa giải có từ 4 - 7 người,
đa số các tổ trưởng Tổ hòa giải do trưởng thôn, bản, khu phố hoặc Trưởng ban
công tác Mặt trận đảm nhận, các thành viên khác gồm trưởng các đoàn thể
như Mặt trận, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, nông dân, người cao tuổi.


17
Trong quá trình hòa giải từng vụ việc cụ thể, tùy theo đối tượng và tính chất
của từng vụ việc mà tổ trưởng Tổ hòa giải có thể mời thêm các đối tượng
khác (người có uy tín, thành viên tổ an ninh thôn...) tham gia thành viên Tổ
hòa giải để hòa giải vụ việc tranh chấp. Cụ thể:
- Chia theo giới tính: 100% các Tổ hòa giải trên địa bàn đảm bảo có 01
nữ hòa giải, trong đó hòa giải viên là nữ có 9.139 người (chiếm 16,5%), nam
có 25.520 người (chiếm 83,5%).
- Chia theo dân tộc: Về cơ bản đảm bảo ở vùng đồng bào dân tộc phải
có người dân tộc tham gia các Tổ hòa giải. Theo thống kê số hòa giải viên là
người kinh có 25.763 người (chiếm 74,3%), hòa giải viên là người dân tộc có
8.896 người (chiếm 25,7%).
Như vậy, có thể thấy mô hình tổ chức hòa giải ở cơ sở trong những năm
qua trên địa bàn tỉnh được chú trọng, đảm bảo về cơ cấu tổ chức giới tính nữ
và thành phần dân tộc. Về trình độ chuyên môn luật có 820 người, số còn lại
chưa qua đào tạo chuyên môn luật. Việc xây dựng, kiện toàn các Tổ hòa giải
về cơ bản phù hợp với các quy định của pháp luật, “không hành chính hoá”,
“không công chức hoá” đội ngũ hoà giải viên cơ sở, đảm bảo hoạt động hòa
giải ở cơ sở thực sự là hoạt động mang tính tự quản, tự nguyện của nhân dân,

góp phần tạo đà phát triển mới cho hoạt động hoà giải ở cơ sở. Những mệnh
lệnh hành chính không còn để áp đặt vào những công việc rất đời thường
trong việc giải quyết những mối quan hệ giữa người với người, “đoàn kết” và
“ổn định” nơi xóm làng trở thành nét nổi bật tại các thôn, bản, khu phố trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên trong thời gian tới vẫn cần quan tâm tới
việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ này để giải quyết tốt các tranh chấp trong
phạm vi hòa giải ở cơ sở theo Luật Hòa giải ở cơ sở.
2.2.1.3. Thực trạng hoạt động hòa giải ở cơ sở
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền đặc biệt là vai trò
trách nhiệm của Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh, công tác hòa giải ở cơ sở trong những năm
qua hoạt động ngày càng hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, góp phần đắc
lực cho việc ổn định trật tự xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Theo số liệu thống kê,
từ năm 2014 đến 2016 toàn tỉnh đã tiếp nhận trên 21.000 vụ việc. Các vụ việc


18
chủ yếu phát sinh từ tranh chấp dân sự 8.476 vụ (chiếm 40.3%), hôn nhân gia
đình 5.871 vụ việc (chiếm 28%), lĩnh vực khác 6.651 vụ việc (chiếm 31.7%).
Trong đó, hòa giải thành 17.789 vụ việc (đạt 84.7%), hòa giải không thành
3.478 vụ việc. Như vậy, những năm gần đây cơ cấu các vụ việc hòa giải đang
có xu hướng tập trung vào các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình. Và
việc giải quyết các tranh chấp không còn là những tranh chấp nhỏ mà ngày
càng có tính chất phức tạp hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cấp, các ngành những năm qua
đội ngũ hòa giải viên tại Thanh Hóa đã không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, vận dụng kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải để
phát huy vai trò, tiếng nói của mình ở cơ sở, tạo dựng được niềm tin trong
nhân dân. Trên cơ sở tạo ra một hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động
hòa giải được triển khai thực hiện tốt, Thanh Hóa tiến hành nâng cao vai trò

trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và các cơ quan Tư pháp
trong tỉnh trong quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện cho hoạt động
công tác hoà giải ở cơ sở đạt hiệu quả cao nhất, tăng cường đẩy mạnh công
tác phối hợp giữa cơ quan Tư pháp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc để triển khai
nhiều nội dung để nâng cao chất lượng và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Cụ thể:
- Biên soạn, phát hành tài liệu nghiệp vụ công tác hòa giải: Từ năm
2014 đến nay, toàn tỉnh đã biên soạn và phát hành 10.000 cuốn kỹ năng về
hòa giải ở cơ sở; 25.000 cuốn tài liệu đề cương giới thiệu các văn bản pháp
luật mới và 275.000 tờ gấp liên quan đến lĩnh vực hòa giải ở cơ sở như Luật
hôn nhân và gia đình, Luật khiếu nại, Luật tố cáo; Bộ luật dân sự; Luật đất
đai… để cấp cho cán bộ làm công tác quản lý hòa giải và hoà giải viên ở cơ
sở. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cũng đã biên soạn
phát hành 11.400 cuốn sổ tay hỏi đáp và 3.600 cuốn tài liệu tuyên truyền các
văn bản pháp luật liên quan đến hòa giải ở cơ sở. Các huyện, thị xã, thành phố
đã cấp phát gần 154.000 cuốn tài liệu tuyên truyền phổ biến các văn bản pháp
luật, kỹ năng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn.
- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải ở
cơ sở để nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên:


19
Việc bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ làm công tác hòa giải ở cơ sở
luôn được quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức, như: Hội nghị, hội thi,
phát hành tài liệu.... Ở tỉnh, từ năm 2014 đến nay, Sở Tư pháp đã phối hợp với
các sở, ngành liên quan tổ chức 32 hội nghị cho 65.000 lượt người là tổ
trưởng Tổ hòa giải. Nội dung tập huấn là: Nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở, các văn
bản pháp luật mới được ban hành, như: Hiến pháp 2013, Bộ Luật dân sự, Luật
đất đai 2013, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật hôn nhân và gia đình.
UBND các huyện, thị xã, thành phố theo kế hoạch và hướng dẫn của Sở
Tư pháp theo định kỳ hằng năm cũng đã tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp

vụ, pháp luật cho đội ngũ làm công tác hòa giải ở cơ sở tại địa phương mình.
- Thi hòa giải viên giỏi: Năm 2014, UBND tỉnh đã tổ chức cuộc thi viết
“Tìm hiểu pháp luật về hòa giải ở cơ sở”. Các hòa giải viên trong mỗi tổ đã
tham gia làm 01 bài dự thi, đã thu hút 25.000 hòa giải viên tham gia làm
5.503 bài dự thi gửi về Sở Tư pháp.
Qua thực tiễn nghiên cứu về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ khi triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở đến nay chúng
tôi đã ghi nhận và đánh giá khách quan về hiệu quả trong công tác này, những
điều mà Thanh hóa đã nỗ lực đầu tư cho công tác này đồng thời cũng thẳng
thắn nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong công tác hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh và tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để công tác hòa giải ở cơ
sở tại Thanh Hóa được triển khai tốt hơn, phù hợp hơn.
2.2.1.4. Đánh giá chung về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Thanh Hóa
a) Ưu điểm:
Nhìn chung, hoạt động hòa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa (từ 01 tháng 01
năm 2014 đến ngày 31 tháng 12 năm 2016) đã đi vào nề nếp, thống nhất, hiệu
quả, tạo bước chuyển biến trong công tác hòa giải ở cơ sở. Hầu hết các Tổ hòa
giải ở cơ sở trên địa bàn đã kiện toàn đảm bảo đúng quy định, chất lượng hòa
giải được nâng lên, thể hiện qua tỷ lệ các vụ hòa giải thành cao, tháo gỡ kịp
thời tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hạn chế đơn
thư, khiếu nại vượt cấp, tiếp kiệm vật chất, thời gian của cơ quan nhà nước và
công dân. Mạng lưới Tổ hòa giải được củng cố, mở rộng thu hút được nhiều
thành phần, nhiều lực lượng tham gia. Công tác tập huấn nâng cao kiến thức,


20
kỹ năng cho hòa giải viên luôn được chú trọng, thực hiện thường xuyên. Bên
cạnh đó, hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp hành
pháp luật, ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; góp phần

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây
dựng địa phương ngày càng giàu mạnh, văn minh.
b) Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động hòa giải vẫn còn có những
hạn chế như sau:
- Một số địa phương chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công
tác hòa giải nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở
vật chất cho công tác hòa giải, chưa thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước
về hòa giải. Một số địa phương cho rằng hòa giải tại UBND cấp xã cũng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật nên đùn đẩy, kéo dài gây khó khăn cho
người dân khi có yêu cầu thụ lý giải quyết. Sự phối hợp giữa các cơ quan có
liên quan trong công tác hòa giải đôi lúc chưa thật chặt chẽ. Năng lực của một
bộ phận làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải còn hạn chế.
- Kinh phí, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ đối với hòa giải viên chưa
được một số địa phương quan tâm đúng mức.
- Một số hòa giải viên còn hạn chế về nghiệp vụ, kiến thức pháp luật
nên kết quả hòa giải còn hạn chế. Hiệu quả công tác hòa giải chưa thực sự
đồng đều trong phạm vi toàn tỉnh. Có một số nơi như vùng đồng bào dân tộc
thiểu số hòa giải viên xem xét tính chất vụ việc theo tiền lệ mà không chú ý
đến sự thay đổi của pháp luật và quy định của pháp luật hoặc có hòa giải viên
lại không vận dụng đúng, đầy đủ các quy định pháp luật trong quá trình hoà
giải, vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoà giải.
- Chưa thống kê được các vụ việc đã được hoà giải thành nhưng các
bên không thực hiện hoặc tái mâu thuẫn, tranh chấp hoặc nộp đơn yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết; chưa có kinh phí cấp riêng cho hoạt động hoà
giải ở cơ sở, kinh phí hỗ trợ cho hoà giải viên khi gặp rủi ro, tai nạn, chế độ
thù lao cho các hoà giải viên chưa có.



21
- Hiện nay ở các khu phố, thôn, xóm, làng bản của Thanh Hóa đang tồn
tại nhiều loại mô hình tự quản do các ngành thành lập như tổ liên gia tự quản,
tổ an ninh, tổ hòa giải... tuy có những chức năng riêng nhưng có cùng nhiệm
vụ tham gia hòa giải các vụ việc tranh chấp, gây xích mích mất trật tự trị an
khu phố, thôn, xóm. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp có vụ việc tranh
chấp xảy ra tại địa phương có nhiều tổ chức tự quản tham gia hoà giải, nhưng
có vụ việc lại không có tổ chức nào tham gia hoà giải do đùn đẩy trách nhiệm
cho các tổ chức tự quản khác.
c) Nguyên nhân của những hạn chế:
Những hạn chế trong hoạt động hòa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa trong
thời gian qua xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nhiều người dân chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Tổ
hòa giải chưa thực sự tin tưởng vào hoạt động hòa giải nên có thái độ thiếu
hợp tác với Tổ hòa giải, muốn đến cơ quan chính quyền để giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp.
- Điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương còn nhiều khó khăn nên đã ảnh
hưởng đến việc đầu tư kinh phí, phương tiện phục vụ cho công tác hòa giải.
- Về tổ chức hòa giải ở một số địa phương hiện tại vẫn còn tồn tại Tổ
hòa giải ở hai cấp. Đó là Tổ hòa giải ở thôn, làng, bản, tổ dân phố và ban hòa
giải hoặc hội đồng hòa giải ở cấp xã, trong khi đó Luật Hòa giải ở cơ sở chỉ
điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở, điều này dẫn đến
khó khăn, lúng túng trong áp dụng pháp luật về hòa giải và sử dụng kết quả
hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp nếu các bên hòa giải thành
và có yêu cầu giải quyết theo con đường tố tụng hoặc tại các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên.
- Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật và phổ biến kinh nghiệm
thực tiễn, cung cấp tài liệu pháp luật, tài liệu nghiệp vụ cho hòa giải viên ở
một số địa phương còn chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời.
- Đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở thường xuyên biến động, thay đổi nên

ảnh hưởng không nhỏ đến việc theo dõi, thống kê, củng cố, kiện toàn tổ chức.
- Một số hòa giải viên chưa thực sự phát huy tinh thần trách nhiệm
trong học tập, trang bị thêm nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cũng như trong


×