Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

(SKKN) MỘT SỐ GIẢI PHÁP DUY TRÌ SĨ SỐ Học Sinh CHỦ NHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.58 KB, 13 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
           Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là một trong những yếu tố góp phần vào sự
nghiệp giáo dục toàn diện cho học sinh.
          Song song với việc “Dạy chữ” cho các em, chúng ta cần hết sức quan tâm
đến việc: “Dạy người”. Vì sự nghiệp giáo dục là của toàn Đảng, toàn dân mà trong
đó ngành sư phạm giữ vai trò then chốt, thực tế nếu học sinh không có nề nếp thì
việc giáo dục và dạy học trên lớp sẽ không đạt hiệu quả cao. Vì “Tiên học lễ – hậu
học văn” chân lí đó được tồn tại từ bao đời nay và không bao giờ phai nhạt. Nên
vấn đề tu dưỡng đạo đức cho học sinh trong nhà trường là trách nhiệm của tất cả
thầy cô, đặc biệt là người thầy, cô làm công tác chủ nhiệm trong việc hình thành
“Nhân cách” của các em.
Do đó, chúng ta cần phải làm gì để quá trình giáo dục này tiến hành một
cách chu đáo, có kế hoạch, phương pháp thích hợp nhằm xây dựng lớp học thành
một tập thể đoàn kết, tích cực, chủ động trong mọi hoạt động, mang tính chất giáo
dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác của học sinh dưới sự chỉ đạo
thống nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường.
Trong nhà trường giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm thực hiện
mọi quyết định (dưới sự quản lý của hiệu trưởng) đối với lớp và các thành viên
trong lớp. Vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch
và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh,giáo viên chủ nhiệm là cố
vấn cho học sinh xây dựng đi vào nề nếp, phát huy khả năng tự giác, tự quản của
học sinh. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải biết phối hợp với các giáo viên bộ môn để
chỉ đạo quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Giáo viên chủ
nhiệm cũng phải biết phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài trường
như: Đoàn - Chi hội phụ huynh. Đặc biệt hơn giáo viên chủ nhiệm phải biết lựa
chọn và đào tạo ban cán sự lớp nhiệt tình, năng động, sáng tạo để kết hợp giữa giáo
viên chủ nhiệm với ban cán sự lớp để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục học sinh
trong lớp mình phụ trách.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, là giáo viên trực tiếp giảng dạy
bản thân tôi thấy rằng, để giáo dục một tập thể lớp có nhiều đối tượng đi vào nề


nếp hoạt động chung không phải là một việc làm đơn giản. “Sản phẩm giáo dục”
mà chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả như bao sản phẩm của
các ngành nghề khác. Đặc biệt là sự hình thành phẩm chất đạo đức của học sinh
không phải một ngày, một buổi là có được mà phải trải qua một thời gian dài rèn
luyện, cho nên để đảm nhận công việc này chúng ta phải thật sự kiên trì, nhẫn nại,
chịu khó và phải tốn nhiều thời gian công sức để tìm hiểu; lắng nghe tâm tư
nguyện vọng của từng đối tượng học sinh trong lớp. Như vậy giáo viên chủ nhiệm
phải đề ra được kế hoạch, phương pháp giáo dục thích hợp cho từng trường hợp
đặc biệt bằng cả tấm lòng yêu thương, nhân ái của người Thầy. Từ đó có thể hướng
các em đi theo quỹ đạo riêng của mình. Giáo viên chủ nhiệm có chỉ đạo, quản lí
tốt thì các em mới ngoan, có ý thức học tập tốt dẫn đến việc giảng dạy mới có hiệu
quả cao. Vì thế tôi chọn đề tài “Một số giải pháp duy trì sĩ số học sinh lớp chủ

Trang 1


nhiệm”. Để các quý vị đồng nghiệp tham khảo thêm trong quá trình thực hiện
công tác chủ nhiệm lớp của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải xác định vai trò, nhiệm
vụ của người GVCN khác với GVBM, trong nhiều năm làm công tác chủ nhiệm.
Tôi luôn suy nghĩ rằng làm thế nào để duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm đạt kết quả tốt và
xây dựng ban cán bộ lớp thật sự có bản lĩnh quản lý lớp trong những lúc không có
GVCN, nhằm bồi dưỡng học sinh năng lực tự quản một cách khoa học .
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi bài viết này tôi xin trình bày “Một số giải pháp duy trì sĩ số
học sinh lớp chủ nhiệm”, và những người làm công tác giáo dục. Đặt biệt những
giáo viên đã từng công tác chủ nhiệm lớp.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

- Xây dựng tập thế lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các
trường trung học, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ nhiệm. Một
tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt
động học tập của nhà trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chủ
nhiệm và có phương pháp tốt thì sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi dưỡng và
hoàn thành tốt chuyên môn của mình.
- Song song với việc đổi mới ấy, việc quản lí giáo dục học sinh cũng rất quan
trọng, đặc biệt vai trò của GVCN trong công tác giáo dục học sinh. GVCN được
coi như người mẹ, người cha thứ 2 của HS.
- Đối với học sinh THCS, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm tâm sinh lí khá phát triển,
trí tuệ biến đổi cả về chất và lượng. Các em biết quan sát nhạy bén và cảm nhận
tinh tế , tư duy trừu tượng ở mức cao. Nhưng lại rất dễ thay đổi tính nết, dễ sa ngã
và bị lôi kéo, lứa tuổi đang và muốn tự khẳng định mình trước mọi người.
- Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ nhiệm vụ của
GVCN trong điều lệ trường.
- Vì GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, ý thức đạo
đức học sinh, tạo điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực. Do đó GVCN là một trong những nhân tố thúc đẩy sự
hình thành nhân cách của học sinh, mang lại một phần kết quả rèn luyện đạo đức,
học tập của các em.
1. Vị trí của giáo viên chủ nhiệm lớp
- Ở trường THCS, trong mỗi lớp học đều có một giáo viên chủ nhiệm lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người được Ban giám hiệu( BGH )bổ nhiệm, chịu trách
nhiệm quản lý công tác giáo dục và đào tạo học sinh ở lớp mình phụ trách là người
chịu toàn bộ trách nhiệm trước BGH và nhà trường về mọi vấn đề thuộc lớp mình.
- Giáo viên chủ nhiệm là thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ
học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên
Trang 2



chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về
mọi phương diện: Tư tưởng, học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi
hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chương
trình và kế hoạch của nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng
học sinh trong tập thể lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung gian thiết lập các mối
quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học sinh - xã hội. Như vậy
một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học
sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác giáo
viên chủ nhiệm phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn
bó hơn.
2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững
mạnh.
- Giáo viên chủ nhiệm tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục
của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh.
3. Những phẩm chất chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm
- GVCN phải có nhân cách toàn vẹn thể hiện qua việc nhận thức , có thái độ
và hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và phát huy truyền thống đạo
đức của dân tộc ( hiếu học , trọng đạo , tôn sư)
- Có lòng nhân ái , nhất là đối với học sinh.
- Yêu nghề , say sưa với công tác giáo dục.
- Có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm nghề nghiệp vững vàng.
- Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng.
- Mẫu mực , trung thực trong cuộc sống.
4. Những năng lực sư phạm cần thiết đối với giáo viên chủ nhiệm

- Có tầm hiểu biết rộng về văn hoá chung.
- Có tri thức sâu sắc, hiện đại về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm.
- Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học.
- Có khả năng thu thập, tích lũy tri thức, để ngày càng nâng cao hoặc mở rộng
tầm hiểu biết của mình.
- Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động cơ
học tập và rèn luyện đạo đức ở học sinh.
- GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều thủ thuật lôi cuốn đa dạng để khi cần
có thể vận dụng nhằm tạo sự gần gũi, thân mật giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
Trang 3


- Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như:
+ Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt.
+ Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc , tình cảm khi cần thiết.
+ Diễn đạt, trình bày các vấn đề có logic, tính truyền cảm có thuyết phục của
một nhà giáo, tri thức khoa học liên môn, tri thức xã hội.
+ Ứng xử các tình huống sư phạm.
+ Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động trong công tác chủ nhiệm.
II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
1. Thực trạng
Năm học 2016 -2017 đến năm học 2017 - 2018, tôi được sự phân công của
BGH nhà trường làm công tác chủ nhiệm khối 9 và 6, về học lực của các em lớp
tôi chủ nhiệm học sinh Giỏi không nhiều, số học sinh có học lực TB, Khá chỉ
khoảng 2/3 lớp, còn lại là học lực yếu, là học sinh thuộc diện chính sách: hộ
nghèo,cận nghèo, các em đều là con em đồng bào dân tộc Khmer, gia đình nông
dân, còn một số em cha mẹ đi làm ăn xa ở TPHCM; cha, mẹ ly thân, ly dị ở với
ông bà. Vì vậy đối với học sinh còn thiếu sự quan tâm của các bậc phụ huynh.
2. Thuận lợi, khó khăn:
a. Thuận lợi:

- Được BGH tin tưởng phân công làm công tác chủ nhiệm lớp, nên mỗi năm
lại có thêm kinh nghiệm và bài học về công tác quản lý học sinh, duy trì sĩ số lớp
chủ nhiệm đạt hiệu quả cao.
- Một bộ phận học sinh có ý thức kỷ luật cao, ngoan, lễ phép với thầy cô,
biết vâng lời cha mẹ. Tích cực tham gia hoạt động phong trào do Đoàn trường, lớp
tổ chức.
- Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, đội ngũ giáo viên bộ môn
có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng dạy.
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bậc phụ huynh với giáo viên chủ nhiệm và
đoàn thể.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên, việc nghiên cứu của tôi còn gặp nhiều khó
khăn:
- Trường tôi đang công tác nằm trong một xã vùng sâu, đời sống kinh tế nhiều
gia đình khó khăn, việc đầu tư cho con em trong quá trình học tập còn nhiều hạn
chế.
- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng điều kiện cho việc dạy và học của thầy trò
chúng tôi.
- Một phần học sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập và rèn luyện đạo
đức chủ yếu do tác động từ hoàn cảnh gia đình hoặc xã hội, bạn bè. Một số học
sinh có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, không ổn định, cha mẹ ly thân, ly dị,
đi làm ăn xa lo kiếm sống không có thời gian chăm sóc con cái.
Trang 4


- Với những thực trạng trên, để duy trì sĩ số học sinh ở lớp chủ nhiệm, đặc
biệt là học sinh ở khối THCS đang ở lứa tuổi tập làm người lớn, đòi hỏi người giáo
viên phải có bản lĩnh, tính dứt khoát, sự quan tâm đồng đều đến lớp mình phụ
trách, bên cạnh đó người giáo viên phải có tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu
thương học sinh như con em của chính mình. Vì vậy việc đưa ra một số biện pháp

nhằm duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm là một việc làm và trách nhiệm hết sức cần thiết
đối với ngành giáo dục hiện nay.
- Từ những thuận lợi và khó khăn trên, sau khi nhận lớp chủ nhiệm tôi mạnh
dạn cải tiến nội dung, biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp chủ nhiệm để định hướng
kết quả tốt hơn.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh.
2. Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước.
3. Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp.
4. Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn:
5. Thành lập Đôi bạn học tập:
6. Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học:
7. Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp:
8. Biện pháp tinh thần:
9. Lập sơ đồ:

10. Lập kế hoạch chủ nhiệm:
11.Tư vấn tâm lí
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP DUY TRÌ SỈ SỐ LỚP CHỦ NHIỆM
1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh
Sau ngày tập trung học sinh, tôi cho học sinh làm lí lịch ghi rõ họ tên, nghề
nghiệp cha mẹ; Hoàn cảnh sinh sống nơi ở của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em
có hoàn cảnh gia đình khá giả? bao nhiêu em hộ khó khăn? Bao nhiêu em có sổ
hộ nghèo? Cận nghèo? Bao nhiêu em con gia đình chính sách? Con dân tộc? Công
việc thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy? Ngoài ra, tôi còn trao
đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia
đình của từng học sinh. Sau đó tôi tập hợp thành một quyển sổ theo dõi, phân loại
đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học.
Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp giáo
dục thích hợp.

2. Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước
Trong tuần đầu ôn tập, tôi cho các em ôn lại những bài tập bám sát theo
kiến thức cơ bản, đồng thời tôi còn xem lại học bạ của các em năm trước kết hợp
trao đổi với giáo viên để nắm sức học của từng em. Việc làm này đã giúp tôi lựa
chọn biện pháp kềm cặp, uốn nắn phù hợp không để cho các em chán nản, bỏ học
vì học yếu.
Trang 5


3. Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp
Ở lần họp Phụ huynh học sinh đầu năm, Phụ huynh lớp đã bầu ra Chi hội
Phụ huynh học sinh của lớp. Chi hội đã giúp tôi tạo điều kiện cho những em nghèo
có đủ sách vở, quần áo, dụng cụ học tập,…; Cùng tôi tìm đến nhà gia đình những
học sinh vắng không phép, vận động các em trở lại lớp. Đây là cánh tay đắc lực, hỗ
trợ cho tôi trong công tác chủ nhiệm.
4. Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn
Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt ( cha mẹ đều đi làm thuê
xa ở với ông bà nội ( ngoại); mồ côi cha ( mẹ)) , tôi rà soát lại xem em nào còn khó
khăn trong học tập như: sách vở, đồ dùng học tập,… tôi đăng kí cho các em được
nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ. Ngoài ra tôi còn kêu gọi sự hỗ trợ từ một số
phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em này
để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo. Qua đây
tôi cũng thấy tình cảm giữa bạn nhà nghèo và bạn khá giả gần gũi nhau hơn.
5. Thành lập Đôi bạn học tập
- Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những em thuộc
diện Trung bình, Yếu .Tôi phân công một em Giỏi hoặc Khá kèm một em Trung
bình hoặc Yếu và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn. Tôi hướng dẫn cho em
Giỏi, Khá cách kèm bạn học: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh
nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm
bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu,…

- Bản thân GVCN thường xuyên lên lớp 15 phút đầu giờ, để kiểm tra tập vở,
bài làm ở nhà của những học sinh Trung bình, Yếu; xem cách thực hiện của đôi
bạn học tập như thế nào để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn.
- Qua việc làm trên, tôi thấy tình cảm giữa thầy trò đã gắn bó nhau hơn.
Những em Trung bình, Yếu thường hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa mà trở
nên mạnh dạn, tự tin hơn. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với
bạn bè, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn.
6. Phổ biến nội quy, gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học
- Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy nhà
trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ
học phải có lí do và được cha mẹ xin phép . Và ở lần họp phụ huynh học sinh
đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ huynh biết về quy định này và nhờ phụ
huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.
- Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học ( vì cha mẹ đi làm không có
ở nhà) , hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ
huynh hay điện thoại trực tiếp gặp phụ huynh để tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi
cách khắc phục.
- Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1-2 ngày
không phép thì đến hôm sau đi học lại bình thường.
7. Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp:

Trang 6


Tổ
Tổ
Tổ
Sa
1: tiết sinh
2: hoạt cuối tuần,4:

o các tổ trưởng báo cáo, tôi cho
- Trong
sau khi nghe
Bảo tổ đạt duy trì Thả
lớp tuyênLâ
dương những
sĩ số suốtđỏ
cả tuần để làm gương cho lớp và
khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của
mình và “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
- Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo
hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.
- Ngoài ra tôi còn nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu
năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại
Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em.
- Tổ chức cho các em các trò đố vui(có thưởng),văn nghệ ngay trong tiết
sinh hoạt để tiết sinh hoạt diễn ra không nhàm chán.
8. Biện pháp tinh thần:
- Mỗi ngày bước vào lớp tôi đều quan sát cả lớp, thấy các em có mặt đầy đủ
là lòng tôi rất vui.Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, bão, …Những
hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên khích lệ
tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối tượng
học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp - nhất là những em
Trung bình, Yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh
hơn.
- Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy bộ môn của mình
hay trò chơi của lớp, của trường tổ chức. Đôi khi tôi đóng vai là một người bạn,
người anh, người chị để các em thoải mái hoạt động tốt không tạo áp lực.
9. Lập sơ đồ tổ chức lớp học
a. Căn cứ để lập sơ đồ lớp

- Sắp xếp chỗ ngồi: Trước hết hãy để cho các em quyền tự chọn chỗ ngồi
theo ý thích, sau đó điều chỉnh dần dần, phân bố học sinh nam – nữ; học sinh giỏi –
khá – trung bình – yếu rãi đều ở các tổ. Tránh tình trạng xếp các em có cùng
khuyết điểm (cá biệt) ngồi cạnh nhau.
- Qua tìm hiểu sơ lược, giáo viên chủ nhiệm tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho
học sinh (chú ý đến các học sinh có bệnh khuyết tật về mắt, tai…). Sau đó chia
thành 4 tổ. Lập sơ đồ chỗ ngồi thành 2 bản: tại lớp 1 bản, giáo viên lưu lại một bản
để tiện lợi cho việc theo dõi học sinh.
- Căn cứ vào học lực của HS: HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS khá
giỏi ngồi sau.
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của HS: HS thấp trước, cao sau; HS mắt yếu
ngồi gần bảng.
- Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.

b. Giao nhiệm vụ cụ thể
Trang 7


- Lớp trưởng: quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự chỉ
đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp cuối tuần, báo cáo mọi hoạt
động trực tiếp GVCN.
- Lớp phó học tập: lên danh sách sinh hoạt tốt nhất cho từng bộ môn phân
công phụ trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, phải là HS học tốt, báo cáo việc học tập
của HS trong lớp, duy trì truy bài 15 phút đầu giờ.
- Lớp phó lao động: đôn đốc vệ sinh lao động của lớp , trực ban, phu phân
cong đem ghế tiết chào cờ.
- HS phụ trách văn thể mĩ: phụ trách văn nghệ , giải trí của lớp, TDTT...
- Thủ quỹ: thu các khoản tiền quỹ, thăm hỏi.
- Thư ký: ghi chép các phiên họp lớp, biên bản sinh hoạt lớp.
- Lớp trưởng giữ sổ đầu bài: quản lý, giữ gìn sổ đầu bài buổỉ sáng, buổi

chiều, ghi các mục : ngày, HS vắng, bỏ tiết, đi trễ, không chuẩn bị bài, vi
phạm khác.......
- Bốn tổ trưởng: theo dõi mọi hoạt động tổ mình và tổng kết lại cho lớp
trưởng ngày thứ Bảy.
10. Lập kế hoạch chủ nhiệm
a. Kế hoạch năm
- Căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ năm học của trường THCS Lai Hòa.
- Căn cứ đặc điểm tình hình lớp (thuận lợi, khó khăn).
- Căn cứ vào chủ đề các đợt thi đua của trường, đoàn thể.
- Căn cứ các nhiệm vụ công tác chủ nhiệm năm học.
b . Kế hoạch hoạt động tuần, tháng
- Nêu những công việc hoạt động trong tuần.
- Có đối tượng tham gia.
- Biện pháp thực hiện.
- Kết quả đạt được.
- Nhận xét, rút kinh nghiệm.
11. Tư vấn tâm lí
Mỗi ngày tôi đều đến lớp 15 phút đầu giờ tôi quan sát và tìm hiểu mối quan
hệ của các em với bạn bè trong lớp hoặc các bạn ở các lớp khác xem có xảy ra mâu
thuẫn nào không, nếu có thì phải giải quyết triệt để tránh để các em lo lắng, hoang
mang khi có mâu thuẫn xảy ra mà không được giải quyết.Đồng thời tôi chủ động
gần gũi với các em đặc biệt là những em gái để tìm hiểu tâm lí của các em khi các
em đang trong giai đoạn dậy thì( lưu ý những thay đổi về hình thể và cảm xúc của
các em).Từ đó động viên các em về tinh thần giúp các em hoàn thành nhiệm vụ
học tập của mình.
V. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHẰM GIÁO DỤC HỌC SINH ĐẶC BIỆT.
TRÁNH TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC
Trang 8



1. Thực trạng:
- Hầu như trường nào, lớp nào cũng đều có HS đặc biệt (là những HS chưa
ngoan lắm hay bỏ tiết, nghỉ học không phép, vi phạm nội qui nhà trường hoặc có
hoàn cảnh đặc biệt) .Tôi không muốn sử dụng từ HS cá biệt bởi ai cũng có những
ưu khuyết điểm, biết cách loại bỏ nó thì tất yếu sẽ trở nên tốt hơn.
- Thực ra những học sinh chưa ngoan thường gây không ít khó khăn cho
GVCN, ảnh hưởng lớn đến kết quả thi đua của lớp, nhiều khi khiến cho GVCN
cảm thấy mệt mỏi thậm chí buông xuôi vì nói hoài mà các em không chuyển biến,
càng phạt, càng lỳ, chống đối ngầm, cố tình quậy hơn. Vi phạm nhiều hơn......
2. Tìm hiểu nguyên nhân:
- Không phải tự nhiên bản chất sinh ra của các em có những hành vi,hành
động thiếu đi tính văn hoá, thiếu đi cái chuẩn mực của đạo đức, hay có những hành
động chưa đúng, lời nói chưa đẹp.
- Là một GVCN tôi cố tìm ra những nguyên nhân. Bởi đôi khi sự cá biệt đó
lại do cha mẹ các em tạo nên, (cha mẹ không hoà thuận, chia tay, cha mẹ không
quan tâm, chỉ biết cung cấp tiền bạc cho con hàng tháng một lần, vì bố mẹ chỉ mãi
lo kiếm tiền làm ăn xa...) Đó là kết quả của các vết thương tâm lí và sự vô tình của
người lớn chúng ta đã gieo vào suy nghĩ lệch lạc dẫn đến các em mang theo nó đến
trường, lớp.
- Khi GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng HS với mong
muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục HS cho các em tốt hơn, có phụ
huynh thì tiếp thu, có phụ huynh bực tức la rầy, đánh con trước mặt giáo viên và
đưa con về, điều đó cho thấy chính phụ huynh đã bất lực với con mình. Vì thế
chính các em là nạn nhân của cách giáo dục gia đình.
- Có những trường hợp các em bị sa ngã khi không cưỡng lại được những
ham muốn, cám dỗ của môi trường xã hội (mê chơi games, hát karaoke, uống rượu,
bia, hút thuốc...)
- Đôi khi các em có bạn khác giới nếu không được giáo dục đúng thì cũng
dễ sa đà để lại hậu quả không tốt.
- Học sinh bỏ học do học kém, ham chơi cảm thấy chán, do hoàn cảnh gia

đình khó khăn, mặc cảm với bạn bè....
3. Giải pháp:
- Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, chưa ngoan tôi tìm hiểu nguyên nhân,
đặt ra câu hỏi cho mình. Vì sao HS lại hành động như vậy? Gần gũi các em nhiều
hơn. Phải biết lắng nghe, thấu hiểu điều các em nói bằng trái tìm của mình, phải
biết dang rộng vòng tay ôm tất cả những điều mà tôi không muốn vào lòng, rồi tìm
cách tháo gỡ, gần gũi, thân thiện, bao dung, vị tha với các em hơn.
- Thuyết phục bằng lời nói rõ ràng, dứt khoát, có lý, bằng tình cảm và
nguyên tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của HS như . giành thời gian trò
chuyện nói về học tập, về cuộc sống, nêu gương người tốt việc tốt cụ thể trong nhà
trường, bằng các câu chuyện GD về đạo đức, (với bản thân tôi phải là tấm gương
để các em noi theo như qui định về đồng phục, lời nói phải đi đôi với việc làm và
Trang 9


phải đối xử thật công bằng với mọi HS), thậm chí tới tận nhà tìm hiểu nguyên
nhân.
- Đưa các em vào hoạt động tập thể trong và ngoài trường với những nhiệm
vụ cụ thể. Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ,
tế nhị và có hiệu quả.
- Kiên trì quan tâm, tạo sự tin tưởng của HS, tạo niềm tin để các em thoải
mái, nói những tâm sự, trăn trở của mình cho GVCN biết, từ đó tôi sẽ nhận định
được vì sao em đó có những hành động như vậy, để có biện pháp giáo dục hợp lý.
- Mỗi học sinh đều có đặc điểm về tâm sinh lý, về mức độ nhận thức, về
vốn sống, cung cách cư xử với mọi người xung quanh. Vì thế khi giáo dục những
HS chưa chuẩn mực không nên quá máy móc, rập khuôn một cách hình thức làm
vậy sẽ không bền vững trong giáo dục đạo đức và nhân cách của HS.
4. Kết quả đạt được:
Từ năm học 2016 – 2017 đến hết năm 2017 – 2018 ,sau 2 năm làm công tác
chủ nhiệm trước và sau khi tôi áp dụng cách làm trên, ở lớp tôi chủ nhiệm đạt kết

quả:
Bảng so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài duy trì sĩ số học sinh
như sau:

TT

Năm

Lớp

Ghi
chú

Tổng
số
HS

SL

TL%

SL

TL%

Đầu Năm

Cuối Năm

1


2016-2017

6A

38

38

100

37

97.4

2

2017-2018

9A

30

30

100

30

100


Từ cách làm trên, tôi đã đem trình bày trong tổ, được các thành viên trong tổ
đánh giá việc công tác chủ nhiệm và nhận thấy việc duy trì sĩ số của tôi có đạt kết
quả cao.
Nhìn lại kết quả trên, bản thân tôi rất vui vì mình đã thực hiện đạt cam kết
duy trì sĩ số với Ban Giám Hiệu nhà trường và đã hoàn thành được nhiệm vụ của
một giáo viên chủ nhiệm.
+ Đối với học sinh: Đã tạo niềm tin nơi các em, em nào cũng ham thích học
tập, gắn bó với trường lớp hơn.
+ Đối với trường, ngành: Góp phần cùng cấp trên làm phong phú thêm kinh
nghiệm công tác, phổ biến cho các khối áp dụng thì thiết nghĩ sẽ giảm thiểu tình
trạng học sinh bỏ học.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN:
- Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người GVCN phải bỏ
nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình GVCN cần biết đặt tình
thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề
Trang 10


nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình,
nhà trường và xã hội
- Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm
rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Độ tuổi,thái độ, mức độ sở trường của học sinh.
+ Hoạt động của ban cán sự lớp.
+ Phong cách làm việc của các giáo viên bộ môn.
+ Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội có
liên quan.
Do vậy, không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN.

Công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, đòi hỏi GVCN
phải hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm
vụ này có hiệu quả.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
- Nhìn chung nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ nhiệm nhằm
xây dựng tập thể lớp vững mạnh là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi ngoài
những phẩm chất và năng lực của giáo viên bình thường thì, giáo viên chủ nhiệm
lớp còn phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc, chấp nhận gian khó và
rèn luyện năng lực hoạt động xã hội, đoàn thể, chính trị,... để làm tốt công tác chủ
nhiệm của mình.
- Trong công tác này giáo viên chủ nhiệm không nên nóng vội, áp đặt, mà
cần có lòng kiên nhẫn, có nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn đặt quyền lợi của
học sinh lên trên hết, đối xử và xếp loại công bằng, công khai, minh bạch, giành
nhiều thời gian và tâm sức thì khi đó công tác chủ nhiệm sẽ không còn khó khăn
phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo viên khi đến trường.
- Có được kết quả này là sự chỉ đạo của BGH kết hợp mối quan tâm đồng
lòng hiệp sức của GVCN, GVBM, Đoàn thể, và cả sự nỗ lực phấn đấu tiến bộ của
học sinh, sự quan tâm của cha mẹ học sinh.
- Trong thời gian làm chủ nhiệm các lớp, tôi có những nỗi lo lắng, trăn trở,
nhiều lúc cũng khó khăn, bế tắc. Nhưng đổi lại tôi nhận được rất nhiều tình cảm từ
phía học sinh, sự tin yêu của phụ huynh, cho tới giờ có rất nhiều học sinh lớp tôi
chủ nhiệm đã học xong 12, các em đã ra trường, đi học cao đẳng, đại học, hay
trung cấp và thường điện thoại thăm hỏi tôi. Mỗi lần khi về quê, hay trong dịp tết
các em đến thăm tôi với bao niềm vui tràn đầy sự yêu mến. Như vậy các em đã coi
tôi như người mẹ thứ 2 của chúng. Tôi thật sự xúc động và tự hào khi các em đã
thật sự trưởng thành và vững bước trên con đường các em đã và đang đi tới.
- Tôi nghĩ rằng mình cần phải tu dưỡng, rèn luyện nhiều hơn nữa, là tấm
gương sáng, là chỗ dựa tinh thần để các em noi theo.
III. KIẾN NGHỊ:
- Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của GVCN, nhà trường cần quan

tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm lớp.
Trang 11


- Phòng GD và ĐT nên mở lớp bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ công tác giáo
viên chủ nhiệm lớp.
- Tổ chức cuộc thi GVCN giỏi các cấp .
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm xây
dựng tập thể lớp vững mạnh trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã vận dụng và có
hiệu quả trong công tác chủ nhiệm tôi mạnh dạn viết lên ý kiến về đề tài của mình
và đưa ra để đồng nghiệp cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc
chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp BGH nhà trường, quý đồng nghiệp, các bạn không phải là GVCN để tôi có
dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay. Trong phạm
vi đề tài còn mang nhiều tính chủ quan và không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy
tôi rất mong sự đóng góp chân thành của BGH nhà trường và quý đồng nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn!
Lai Hòa, ngày 18 tháng 02 năm 2019
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Kim Khoa

TỔ TRƯỞNG
DUYỆT
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................

PHẦN DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
…………………………………………………………………………….................
……………………………………………………………………….........................
.....................................................................................................................................
…………………………………………………………………………….................
Trang 12


…………………………………………………………………………….................

Trang 13



×