Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Mấy vấn đề dạy học văn theo hướng thi pháp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.87 KB, 8 trang )

TS. Phạm Ngọc Hiêể̀n
Trường Đại học Văn Hiến TP.Hồ Chí Minh.
Lời ngỏ: Ôn tập tổng hợp cuối năm 12 đê giúp HS nắm được khái quát các yêu
cầu cần đạt được nêu trong Chuẩn kiến thức, kĩ năng là một yêu cầu rất hiên nhiên.
Nhiều trường hợp HS nghe thầy cô phân tích VBVH- khi thì đi sâu yếu tố này, này
khi thì chú trọng yếu tố kia- nhưng lại không thật sự hiêu tại sao lại phải làm như
thế. Thật tình, GV gặp rất nhiều lướng vướng khi xây dựng cho các em một tầm
nhìn, một năng lực tiếp thụ tương đối hoàn chỉnh và năng động cần thiết. Vì thế,
trong cố gắng chung nhằm cùng nhau tháo gỡ dần những khó khăn đó ĐHT`blog
xin cung cấp cho các em một tư liệu tham khảo ngắn gọn, bao quát và "vừa sức"
các em.

Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện ở
Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp học với
tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch
chuyên sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp
học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc.
Mãi đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời
thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học, Đại
học và có trong sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Tinh thần Thi
pháp học đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài làm
văn học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường.

Hiện nay, có nhiều cách hiêu về Thi pháp học. Nhưng trong nhà trường, nên có
một cách hiêu thống nhất vì tất cả học sinh phải học chung một sách giáo khoa, thi
chung một đề, một đáp án. Có thê hiêu, thi pháp học là cách thức phân tích tác
phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn
bản như: tiêu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện
thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác
phẩm như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết cấu – cốt truyện –



điêm nhìn, ngôn ngữ, thê loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình
thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử)(1). Phương pháp chủ
yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiêu, “Phương pháp
hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học
nghệ thuật đê rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn Dân)(2). Dạy Văn theo
hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm.

Một trong những phạm trù quan trọng hàng đầu của Thi pháp học là thê loại. Trong
các công trình Thi pháp học của mình, Bakhtin rất quan tâm tới “phong cách học
thê loại”(3). Trong giờ giảng văn, cần chú ý đến thê loại vì nó chi phối tất cả các
yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm. Mỗi thê loại có một đặc điêm riêng và yêu
cầu phân tích theo một phương pháp riêng. Không phải ngẫu nhiên mà sách giáo
khoa thường sắp xếp tác phẩm theo thê loại. Chẳng hạn, trong sách Ngữ văn 11,
nâng cao, tập 1, học sinh được học và đọc thêm liền mạch các tác phẩm truyện
như: Hai đứa trẻ, Cha con nghĩa nặng, Chữ người tử tù, Vi hành, Số đỏ, Việc làng,
Chí Phèo, Tinh thần thê dục, Đời thừa đi kèm với bài “Đọc tiêu thuyết và truyện
ngắn”. Mỗi khi dạy tới một thê loại, sách giáo khoa thường nêu chú thích về đặc
trưng của thê loại đó. Có một số thê loại có thê nói lướt qua nhưng cũng có thê loại
cần phải học kỹ lưỡng tại lớp. Chương trình Ngữ văn có các phần dạy luật thơ đê
học sinh vận dụng sáng tác văn học như: Tập làm thơ bốn chữ (lớp 6), Làm thơ lục
bát (lớp 7), Làm thơ bảy chữ (lớp 8), Tập làm thơ tám chữ (lớp 9), Luật thơ Đường
(lớp 10), Luật thơ (lớp 12)... Sách giáo khoa Lớp 10 (nâng cao) có một số câu hỏi
về thê loại như: Anh (chị) hiêu thế nào là thê truyền kỳ qua tác phẩm Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên? Anh (chị) hiêu thế nào là văn biền ngẫu?... Dạy bài Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc, cần chỉ ra vẻ đẹp hình thức của thê văn biền ngẫu như: các vế
phải đối nhau về số tiếng, thanh điệu, nhịp, nội dung, tất cả các câu đều gieo theo
một vần, sử dụng nhiều điên cố và từ ngữ giàu hình ảnh…Có như vậy học sinh mới
thấy được kỳ công của Nguyễn Đình Chiêu và ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của
ông. Dạy thê loại còn phải chú ý tới “tính nội dung của thê loại”. Như thơ thất

ngôn bát cú mang tính cổ kính, trang trọng, thơ lục bát đậm đà tính dân tộc, thơ tự
do cho thấy tâm hồn phóng khoáng của tác giả… Nhiều nhà văn thích sử dụng một
thê loại nhất định và chính điều này góp phần làm nên phong cách của nhà văn đó.


Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân vật ở
ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật
miêu tả nhân vật. Khi phân tích tính cách nhân vật, cần lưu ý đến kiêu nhân vật đê
có cách phân tích cho phù hợp. Chẳng hạn, phân tích truyện ngắn hiện đại thì cần
chú ý đến kiêu nhân vật tính cách, còn phân tích truyện cổ tích thì nên chú ý loại
hình nhân vật chức năng. Phần quan niệm nghệ thuật về con người thường ít được
đặt thành mục riêng mà chỉ nói lướt qua ở phần tiêu dẫn, chủ đề hoặc kết luận. Vì
trong thực tế, không phải tác phẩm nào cũng thê hiện rõ nét nội dung này. Nhưng
đối với những tác phẩm thê hiện khá rõ quan niệm nghệ thuật về con người thì cần
phải đặt nó thành mục riêng, như: Số phận con người, A. Q chính truyện, thơ
Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, truyện ngắn Nam Cao, Một người Hà Nội, Bến
quê, Chiếc thuyền ngoài xa… Nên lưu ý rằng, quan niệm về con người ở đây toát
ra từ văn bản nghệ thuật chứ không phải áp đặt từ bên ngoài. Mặc dù biết rằng,
quan niệm của tác giả về con người trong tác phẩm và ở ngoài đời có thê không
thống nhất nhau. Nhưng tôn trọng tính nghệ thuật khách quan, chúng ta vẫn căn cứ
vào văn bản là chính. Muốn biết được tính cách nhân vật và quan niệm về con
người, cần phải phân tích nghệ thuật thê hiện nhân vật. Đó là căn cứ vào lai lịch,
nghề nghiệp, hình dáng, hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật, cách xưng hô và
đánh giá của tác giả và các nhân vật khác về nhân vật đó, mối quan hệ của nhân vật
với mọi người và môi trường xung quanh, đồ vật mà nhân vật thường sử dụng, sở
thích của nhân vật… Căn cứ vào các yếu tố này mà suy ra tính cách nhân vật và
triết lý nhân sinh cũng như tài nghệ tác giả.
“Hình tượng thế giới” không chỉ có nhân vật mà còn có không gian, thời gian. Thi
pháp học chỉ chú ý những chi tiết không gian, thời gian nào có ý nghĩa, góp phần
thê hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan niệm lại vừa như một thủ

pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian và thời gian thường gắn liền với
nhau, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một “thế giới mang tính quan niệm”.
Cần chú ý đặc điêm của chúng trong mỗi thê loại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác
giả, tác phẩm. Nó có thê được phân tích ở tầm bao quát nhưng cũng có thê được
phân tích ở các chi tiết nhỏ. Như lối mở đầu quen thuộc trong văn học dân gian:
“Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ…”, “Chiều chiều…”. Hình tượng con đường
rộng mở trong thơ Tố Hữu hay cổng nhà luôn khép kín của Hoàng (Đôi mắt).
Không gian nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không
gian tâm lý, không gian kê chuyện. Thời gian nghệ thuật gồm có: thời gian được


trần thuật (hình tượng thời gian) và thời gian trần thuật (thời gian kê chuyện). Tìm
hiêu hình tượng thời gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại,
tương lai, độ đo thời gian của các nhân vật…Tìm hiêu thời gian trần thuật, cần lưu
ý các cấp độ thời gian như: trật tự kê với trật tự thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài
các sự kiện được tính bằng câu), tần xuất (số lần lặp lại). Và các thủ pháp thời gian
như: trì hoãn, gián cách, đảo tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng hiện, bỏ lửng, che
giấu, đón trước… Có nhiều tác phẩm thê hiện yếu tố không gian, thời gian nghệ
thuật khá rõ nét và nên đầu tư phân tích thích đáng. Như: Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thuốc, Ông già và biên cả, Chiếc lá cuối cùng,
Vội vàng, Đây mùa thu tới, Tràng giang, Hai đứa trẻ, Đi đường, Chiều tối, Người
lái đò sông Đà, Tiếng hát con tàu, Sang thu… Sách giáo khoa cũng có nhiều câu
hỏi yêu cầu học sinh phân tích hình tượng không gian – thời gian như: “Phân tích
sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những biến chuyên của không gian lúc sang
thu” (Bài Sang thu, lớp 9, tập 2), “Hãy tìm hiêu hai chiều của không gian và thời
gian và mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ Tràng giang” (lớp 11, tập 2, nâng
cao); “Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời
gian nghệ thuật thì có tiến triên. Từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân Thanh
minh đã thê hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả. Tìm hiêu ý nghĩa của hình ảnh
vòng hoa (Bài Thuốc, lớp 12, tập 2)…

Trong văn học có nhiều loại kết cấu: không gian – thời gian – điêm nhìn – nhân vật
– chi tiết – ngôn từ… nhưng quan trọng hơn cả là kết cấu cốt truyện. Lâu nay,
trong giờ giảng văn, thầy và trò thường có thao tác tìm hiêu bố cục tác phẩm đê dễ
phân tích. Bố cục tác phẩm có khi đã nằm ngay trong kết cấu thê loại, như các
phần đề - thực - luận – kết trong thơ Đường. Kết cấu của thê loại hịch, cáo mang
tính nghệ thuật cao, bản thân của bố cục đã mang tính hùng biện. Đó là tính nội
dung của hình thức nghệ thuật. Những tác phẩm kê chuyện theo trật tự tuyến tính
thì tìm bố cục rất dễ. Nhưng nhiều truyện hiện đại thường theo lối trần thuật phi
tuyến tính, đa tuyến nên chia bố cục không dễ dàng. Chẳng hạn, truyện Chí Phèo
không thê chia đoạn theo thời gian trần thuật được mà phải chia theo hình tượng
nhân vật: Chí Phèo – Bá Kiến, rồi trong Chí Phèo lại chia theo thời gian sự kiện:
lúc còn lương thiện – lúc bị lưu manh hóa – lúc ý thức phục thiện. Ngoài ra, cần
phải cho thấy dụng ý của tác giả khi đảo lộn thứ tự sự kiện. Chú ý khai thác các chi
tiết đắt có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống truyện như chi tiết bát cháo
hành. Trong Vợ nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên mà làm thành chủ đề tác phẩm.


Bởi vậy, cần chú ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất nhiên, bình thường và bất thường,
những biến cố, tình huống... Có những cốt truyện độc đáo do nhà văn sáng tạo ra
nhưng cũng có những cốt truyện mang tính phổ biến, lặp lại một số mô típ nhất
định, ta cũng cần chỉ ra ý nghĩa phổ quát của nó. Phân tích cốt truyện ngụ ngôn, có
thê chia ra nội dung hiên ngôn và nội dung hàm ngôn. Nhiều nhà Thi pháp học
phân chia cốt truyện cổ tích thành nhiều bước, ứng với mỗi chức năng khác nhau.
Truyện Cây khế có thê chia ra 11 chức năng, bước cuối cùng có chức năng trừng
phạt kẻ ác. Kết thúc có hậu là đặc trưng của thê loại truyện cổ tích.
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫu nhiên mà
những người khởi xướng Thi pháp học là những nhà ngôn ngữ học. R. Jakobson
chủ trương đi tìm “chất văn” đích thực của ngôn ngữ thơ ca. Còn V. Shkolovski
chú trọng thủ pháp “lạ hóa”, nhòe nghĩa của nghệ thuật ngôn từ(4). Ngôn ngữ văn
học có tính tổ chức cao, giàu hình ảnh, đa nghĩa và mang dấu ấn riêng của tác giả.

Khi phân tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu
từ, cách dùng từ, giọng thơ, tứ thơ… Mỗi thê loại thơ có những quy định riêng về
bút pháp thê hiện. Thơ Đường luật quy định chặt chẽ về tiết tấu, bố cục, câu hay, từ
“đắt” thường nằm ở cuối bài. Ngôn ngữ thơ hiện đại mang tính tự do, không bị gò
bó vào khuôn khổ nào, lời nhân vật trữ tình cũng tự nhiên và mang dấu ấn cá nhân
rất rõ. Tác giả coi trọng cách diễn đạt mới mẻ nên thường có nhiều cách kết hợp
ngữ nghĩa lạ thường (Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng, Tràng giang, Tống
biệt hành, Tây Tiến, Tiếng hát con tàu…). Khi phân tích ngôn ngữ văn xuôi cần
chú ý cách sử dụng các kiêu câu, chủ thê phát ngôn, cách xưng hô, giọng điệu kê,
sự cá thê hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thê chia ngôn ngữ văn xuôi
thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiêu thuyết, thê hiện đậm đặc
trong văn xuôi hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng có giọng trào phúng, Nam
Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn Công Hoan có giọng hóm hỉnh… Ngược lại là
giọng điệu sử thi thê hiện đậm đặc trong văn xuôi cách mạng. Ta có thê thấy giọng
văn tin yêu, trữ tình trong Vợ chồng A Phủ, Chiếc lược ngà, giọng văn sôi nổi bừng
bừng khí thế trong Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình.. Hoặc giọng văn cổ
kính trang trọng trong các tiêu thuyết chương hồi trung đại. Mỗi thê loại, giai đoạn
văn học, tác giả lớn có một văn phong riêng, góp phần làm đa dạng ngôn ngữ văn
học.
Điêm nhìn còn được gọi là điêm quan sát, vị trí người kê chuyện, nhãn quan, cách
nhìn đời… Điêm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố trong tác phẩm nên ta


có các loại điêm nhìn sau: 1. Điêm nhìn tác giả: được thê hiện ở ngôi thứ nhất hoặc
ngôi thứ ba vô nhân xưng và ở cách tác giả xưng hô nữa; 2. Điêm nhìn nhân vật: là
cách mà nhân vật nhìn nhận, đánh giá sự việc, có khi, nhân vật được trao điêm nhìn
trần thuật; 3. Điêm nhìn tâm lý: tức là nói đến điêm nhìn bên trong hay bên ngoài,
chủ quan hay khách quan; 4. Điêm nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường, cách nhìn
đời của tác giả hay nhân vật; 5. Điêm nhìn không gian: gồm có vị trí nhìn, khoảng
cách nhìn, trường nhìn, cách nhìn…; 6. Điêm nhìn thời gian: nhìn liền mạch hay

đứt quãng, nhìn kỹ hay nhìn lướt, cách sắp xếp các thời quá khứ - hiện tại – tương
lai…; 7. Điêm nhìn tu từ: là cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả về
sự vật hiện tượng. Ví dụ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Con gió xinh
thì thào trong lá biếc”… (Vội vàng). Ranh giới các loại điêm nhìn trên chỉ mang
tính tương đối và trong một tác phẩm có thê có nhiều điêm nhìn khác nhau. Sách
giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2, có câu hỏi: “Đoạn trích Những đứa con trong gia
đình được trần thuật chủ yếu từ điêm nhìn của nhân vật nào ?”. Trong tác phẩm
này có hai điêm nhìn của tác giả và nhân vật, nhiều khi đan xen, khó tách biệt rạch
ròi. Điêm nhìn có thê làm thành kết cấu và chủ đề của tác phẩm như truyện ngắn
Đôi mắt của Nam Cao.
Thi pháp học cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói: “Văn như kỳ
nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác giả. Nhà văn có
thê xuất hiện trong tác phẩm qua cách xưng “tôi” hoặc có thê ẩn mình. Đê biết
phong cách của nhà văn, có thê căn cứ vào ngôn ngữ trần thuật, cách xưng hô,
giọng điệu, cảm hứng đề tài, không gian – thời gian sự kiện, cách bố cục và cách
sử dụng các chi tiết trong tác phẩm… Nhà văn trong tác phẩm có thê không đồng
nhất với nhà văn ở ngoài đời. Đê khách quan, ta cần bám vào văn bản là chính. Ta
có thê nghiên cứu phong cách của từng nhà văn lớn, có đặc điêm riêng rõ nét như:
Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu… Hoặc có thê phân tích phong cách chung của một nhóm nhà văn có
cùng đặc điêm như: tác giả truyện cổ tích, nhà thơ Việt Nam trung đại… Đối với
những tác giả lớn được học thành bài riêng thì dựng lên chân dung tương đối dễ
dàng. Nhưng đối với những nhà văn khác thì phần hình tượng tác giả thường được
nhắc đến ở mục tiêu dẫn, hoặc được lồng ghép vào phần phân tích. Sách giáo khoa
Ngữ văn (nâng cao) có nhiều mục nói về hình tượng tác giả như: “Cách biêu hiện
chủ thê trữ tình trong thơ trung đại” (lớp 10, tập 1); yêu cầu phân biệt cái “ngất
ngưởng” của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng với cái “ngông” của Tản


Đà qua bài Hầu trời; “Phân tích bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh trong Nhật

ký trong tù” (lớp 11, tập 2), “Theo anh (chị), qua đoạn trích này, Sô-lô-khốp nghĩ
gì về số phận con người?” (lớp 12, tập 2)…
Trên đây là các thành tố tạo nên cấu trúc tác phẩm văn học. Tuy nhiên, không phải
lúc nào ta cũng phân tích đầy đủ các yếu tố trên mà chỉ chú trọng những yếu tố nào
quan trọng, đặc sắc, thê hiện rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ta có thê thiết kế một
bài giảng văn theo mô hình Thi pháp học. Như phân tích bài Qua Đèo Ngang theo
kết cấu thê loại thơ thất ngôn bát cú (đề, thực, luận, kết). Bài giảng văn Đôi mắt có
thê được chia theo điêm nhìn nhân vật: 1. Cách nhìn người nông dân, 2. Cách nhìn
cuộc kháng chiến, 3. Cách nhìn về lãnh tụ… Đối với bài Tràng giang, có thê chia
theo điêm nhìn không gian: khổ 1 (gần), khổ 2 (xa), khổ 3 (gần), khổ 4 (xa).
Truyện ngắn Hai đứa trẻ có thê được chia theo các bước đi của hình tượng thời
gian – không gian: 1. Cảnh chợ huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban đêm, 3.
Cảnh đoàn tàu lúc đêm khuya. Chúng ta có thê kết hợp nhiều yếu tố thi pháp trong
một bài làm văn. Trong bài phân tích truyện Thuốc, nên chia ra các phần sau: 1.
Hình ảnh Hạ Du qua điêm nhìn của các nhân vật khác, 2. Không gian nghệ thuật,
3. Thời gian nghệ thuật, 4. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, 5. Ý nghĩa nhan đề
tác phẩm.
Giờ dạy Văn kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là hai
phương pháp hình thức và xã hội học. Tùy vào đặc điêm của bài học mà chú trọng
phương pháp nào. Phân tích văn học dân gian hoặc thê loại ký thì phương pháp xã
hội học được sử dụng nhiều hơn. Phân tích Thơ Mới thì phương pháp hình thức là
chủ đạo. Phương pháp xã hội học thường được sử dụng ở phần tiêu dẫn của bài
giảng văn hoặc phần mở bài, kết luận trong bài làm văn. Còn trong phần phân tích,
phương pháp này cũng thỉnh thoảng xuất hiện đê giải thích rõ thêm các chi tiết.
Trong bài phân tích Tây Tiến, mở bài phải nói lên hoàn cảnh sáng tác. Phần thân
bài cần vận dụng các kiến thức lịch sử, địa lý… đê làm sáng tỏ cái sâu sắc của hình
tượng (như giải thích hiện tượng “không mọc tóc”, “xanh màu lá”). Mục đích của
việc dạy bài Vội vàng là giáo dục nhân sinh quan tiến bộ cho học sinh, nếu thiếu đi
phần liên hệ thực tế thì chưa đạt yêu cầu. Bởi vậy, trong việc dạy học Văn, cần kết
hợp cả phương pháp hình thức và xã hội học thì mới đạt tới mục tiêu Chân – Thiện

– Mỹ.


Việc dạy học Văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế giới. Ở
Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt đê thực hiện điều này. Chúng ta đã có
một đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu. Việc phổ biến quan điêm
Thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Sách giáo khoa Ngữ
văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học. Các đề thi và đáp án
môn Văn gần đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích hình thức nghệ thuật.
Nhưng những vấn đề nói trên chỉ nằm ở dạng lý thuyết. Thi pháp học có biến thành
thực tiễn sinh động hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực
của thầy và trò trong giờ giảng văn.
_________________
(1) Trần Đình Sử: Dẫn luận Thi pháp học. Nxb. Giáo dục, H, 1998, tr.34.
(2) Nguyễn Văn Dân: Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nxb. Khoa học xã
hội, H, 2004, tr.90.
(3) Tzvetan Todorov: Mikhail Bakhtin, nguyên lý đối thoại. Nxb. Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.
(4) Huỳnh Như Phương: Trường phái hình thức Nga. Nxb. Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, 2007, tr.30.

Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4-2009



×