Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN quản lý mầm non một số biện pháp chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.1 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thấm mỹ, giúp trẻ mạnh dạn tự tin, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách,
khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ấn của trẻ [1]. Trẻ không thể tiếp
thu các kiến thức một cách bài bản, có hệ thống như trẻ ở Phổ thông. Vì thế cần tạo
cho trẻ môi trường để trẻ được hoạt động, trải nghiệm, vui chơi, từ đó trẻ có thể tiếp
thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn.
Trẻ lứa tuổi mầm non việc học của trẻ được thông qua hình thức “học mà
chơi, chơi mà học” trẻ có mong muốn tự nhiên là được cảm nhận và khám phá một
cách tích cực về thế giới. Quá trình học hỏi, khám phá của trẻ diễn ra thông qua
nhiều hoạt động trong đó hoạt động vui chơi có ý nghĩa rất quan trọng. Vui chơi
không chỉ là hoạt động giúp trẻ giải trí, thư giãn mà còn giúp trẻ cảm nhận và khám
phá thế giới xung quanh một cách tự nhiên, thuận lợi, nhanh chóng. Tất cả trò chơi
đều có tiềm năng hỗ trợ cho việc học của trẻ [2].
Ớ mỗi giai đoạn phát triển của trẻ đều có những đặc điểm tâm lý khác nhau
cha mẹ và cô giáo cần hiểu rõ được đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ để có những
phương pháp giáo dục phù hợp để định hướng và giúp trẻ phát triển đúng theo từng
giai đoạn.Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo thích khám phá những điều mới lạ và hay tò mò.
Trong giai đoạn này trẻ rất muốn khám phá thế giới xung quanh, tò mò và liên tục
thắc mắc đặt nhiều câu hỏi với cha mẹ, với cô giáo. Trẻ giao tiếp và thích bắt trước
tập làm người lớn, trẻ thích được tự lập. Vì vậy việc xây dựng môi trường giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm là vô cùng quan trọng đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ.
Việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động nói chung là việc làm đã được cán bộ,
giáo viên các trường mầm non thực hiện từ lâu, nhưng trên thực tế tại các trường
mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh lộc nhìn chung việc tạo môi trường mới chỉ
mang tính hình thức để trang trí theo đúng chủ đề đang thực hiện và việc xây dựng
đó chưa xuất phát từ trẻ, chưa kích thích tính tò mò, khám phá của trẻ, khi học và
chơi trẻ đang còn rất thụ động; phụ huynh cũng như các lực lượng xã hội còn chưa
quan tâm, chưa nhận thức được tầm quan trọng của môi trường giáo dục đối với sự
phát triển của trẻ.


Trong những năm qua, việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đã được các cấp
quản lý từ trung ương, địa phương từng bước quan tâm đặc biệt Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành Hướng dẫn thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non
lấy trẻ làm trung tâm” trong năm học 2016 - 2017. Đặc biệt trong năm học 20172018 Sở GD&ĐT đã có kế hoạch chỉ đạo tổ chức cuộc thi “Xây dựng môi trường
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non”; thực hiện kế hoạch chỉ đạo
của Sở GD&ĐT, Năm học 2018-2019 Phòng GD&ĐT Vĩnh Lộc đã xây dựng kế
hoạch với nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm
non lấy trẻ làm trung tâm”.
Đứng trước nhiệm vụ, kế hoạch trong năm học 2018 – 2019 và thực tế tại các
trường mầm non trong huyện, để thực hiện tốt nhiệm vụ kế hoạch và thực sự có
chất lượng và có hiệu quả kế hoạch đã đề ra nhằm thực hiện tốt nội dung “xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, một trong những nội dung quan trọng
1


hàng đầu mà kế hoạch thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm
trung tâm” giai đoạn 2016-2020 đã đề nói chung, nhiệm vụ cụ thể của năm học
2018-2019 nói riêng ra là một nhiệm vụ quan trọng và thực sự cần thiết để trẻ có
thể được “chơi mà học, học bằng chơi” và đồng thời thực hiện đáp ứng được việc
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết số 29-NQ/TƯ của
Ban chấp hành trung ương khoá XI đã đề ra.
Trước tình hình đó, là một người tham mưu chỉ đạo về chuyên môn của bậc
học, năm học 2019-2020 tôi tiếp tục nghiên cứu tìm ra giải pháp để chỉ đạo các
trường mầm non thực hiện đảm bảo đầy đủ các tiêu chí của nội dung “ Xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, tôi mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra
“Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm trong trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh Thanh
hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm nâng cao năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm

cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non.
- Giúp cán bộ quản lý, giáo viên các trường mầm non xây dựng môi trường
giáo dục mang tính “mở” để tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động, trải nghiệm, học tập
qua chơi bằng nhiều cách khác nhau phù hợp với nhu cầu, hứng thú và khả năng
của trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện;
- Phát huy tính sáng tạo, sự kiên trì, tính kheó leó của giáo viên và trẻ.
- Huy động được các nguồn lực từ phụ huynh và xã hội cùng tham gia vào
việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non
góp phần thực hiện có hiệu quả chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm
trung tâm”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây dựng môi trường giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận để chọn đề tài và tiến hành
các biện pháp;
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin để lấy số liệu
thống kê về tình hình thực tế trước và sau khi áp dụng các biện pháp;
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát thực tiễn xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
trong các trường mầm non;
+ Quan sát quá trình tham gia xây dựng môi trường giáo dục và hoạt động
của giáo viên và học sinh.
- Phương pháp đàm thoại:
+ Đàm thoại trực tiếp với cán bộ quản lý và giáo viên các trường mầm non;
+ Giảng giải qua các buổi tập huấn, chuyên đề.
- Phương pháp thực hành:
2



+ Thực hành thí điểm tại một số nhóm lớp ở một số trường trọng điểm;
+ Thực hành qua triển khai chuyên đề và qua việc tổ chức cuộc thi “xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non”.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá: Để thu thập kết quả thực hiện.

1.5 Những điểm mới của sáng kiến:
- Chỉ ra sự cần thiết mới ứng với nhiệm vụ năm học 2018-2019 để thực hiện
nghiên cứu đề tài trong phần lý do chọn đề tài.
- Đưa vào cơ sở lý luận gắn liền với nhiệm vụ năm học 2018-2019 theo Công
văn số 246/PGD&ĐT-GDMN về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học
2018-2019, bậc học mầm non, ngày 30 tháng 8 năm 2017.
- Thay đổi số liệu khảo sát của năm học 2018-2019.
- Thay thế giải pháp “2.3.2. Tham mưu Phòng GD&ĐT quan tâm đến công
tác xây dựng, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản
lý, giáo viên; chỉ đạo điểm về Cuộc thi “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm trong trường mầm non” để nâng cao chất lượng” bằng 2 giải
pháp riêng biệt 2.3.2 và 2.3.3 và một số biện pháp thực hiện trong các giải pháp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận:
Xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là vô cùng quan trọng
và cần thiết. Để đảm bảo nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng
chủ đề thì yêu cầu người chỉ đạo chuyên môn chung của bậc học, cán bộ quản lý
các nhà trường, đội ngũ giáo viên phảỉ xác định rõ mục đích, vai trò, nắm vững
nguyên tắc, quy trình, nội dung xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm
non. Môi trường là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Trong lớp học không thể thiếu những mảng
trang trí, những góc chơi của trẻ, do đó để lớp học thêm lôi cuốn trẻ giáo viên cần
tạo nên một môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, đồ dùng đa dạng bắt
mắt... Môi trường có không gian, cách sắp xếp phù hợp, thuận tiện, gần gũi, quen
thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ; phản ánh kinh nghiệm, văn hóa của địa

phương; luôn thay đổi để tạo ra sự hấp dẫn mới lạ đối với trẻ [3].
Căn cứ vào tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm
non từ 3-36 tháng tuổi, 3-4 tuổi, 4-5 tuổi, 5- 6 tuổi của nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam: Tổ chức môi trường giáo dục hoạt động của trẻ trong trường, nhóm, lớp có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển về thể chất, ngôn ngữ, trí tuệ, tình cảm – xã
hội, khả năng thẩm mỹ, sáng tạo của trẻ. Vì vậy xây dựng, bố trí và tổ chức môi
trường cho trẻ chơi và hoạt động cần đảm bảo trên nguyên tắc cho trẻ “ Chơi mà
học ” “ Học bằng chơi”[4].
Thực hiện tài liệu bồi dưỡng hè hàng năm, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
cán bộ quản lý và giáo viên mầm non năm học 2015-2016, 2016-2017 của Bộ Giáo
dục và đào tạo: Môi trường giáo dục trong trường, nhóm, lớp mầm non có vai trò
3


quan trọng đối với sự phát triển năm lĩnh vực giáo dục của trẻ, khi xây dựng môi
trường phải chú ý một số điểm sau [5]:
- Khi xây dựng và tổ chức cho trẻ hoạt động trong môi trường giáo dục giáo
viên phải xác định mục đích của từng loại hoạt động, của mối loại tranh ảnh, đồ
dùng, đồ chơi…để giúp trẻ tích cực khai thác, tìm tòi nghĩ ra nhiều cách chơi, đáp
ứng việc cung cấp và củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ.
- Giáo viên phải lên kế hoạch sử dụng từng loại đồ dùng, đồ chơi vào các bước
mở chủ đề, khám phá chủ đề và kết thúc chủ đề. Xác định rõ từng loại đồ chơi để
đưa vào các hoạt động: Hoạt động học, hoạt động chơi ở các góc, ở ngoài trời.
- Giáo viên phải biết lồng ghép các hoạt động một cách linh hoạt để kích thích
trẻ tích cực tìm ra các chức năng sử dụng các đồ dùng, đồ chơi trong các hoạt
động…
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TƯ của Ban chấp hành trung ương khoá XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, Chính phủ và của Bộ; thực hiện công văn số 246/PGD&ĐT-GDMN về việc
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2018-2019, bậc học mầm non, ngày 30

tháng 8 năm 2017 có đặt ra nhiệm vụ: Đẩy mạnh thực hiện chuyên đề “Xây dựng
trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016 – 2020: tiếp tục xây dựng
môi trường giáo dục, đổi mới việc tổ chức hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo
quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm; nâng cao năng lực đội ngũ trong việc tổ
chức các hoạt động giáo dục; tăng cường cơ hội thực hành, trải nghiệm, phát triển
toàn diện cho trẻ; hoàn thiện, nhân rộng mô hình điểm về thực hiện chuyên đề.,.
- Thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua như Chỉ thị
số 05-CT/TƯ ngày 15/05/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phong trào thi đua “ Dạy tốt,
học tốt” đưa nội dung của cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo
đức, tự học, tự sáng tạo” và phong tào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực ”. Chính vì thế mà việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng môi
trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non là rất cần thiết. Góp
phần nâng cao chất lượng toàn diện trong công tác chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo
dục trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Đặc điểm tình hình chung:
Huyện Vĩnh Lộc thuộc vùng trung du nằm ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa, có tổng
diện tích tự nhiên 157,4 cây số vuông. Những năm gần đây, Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân huyện không ngừng cố gắng, nỗ lực nâng cao toàn diện chất lượng
giáo dục cá bậc học nói chung, đặc biệt là Bậc học mầm non nói riêng. Cụ thể:

4


- Số trẻ và nhóm, lớp các trường mầm non: Năm học 2018-2019
Số
trường

Nhà trẻ


Mẫu giáo

Số nhóm trẻ

Số cháu

Số lớp

Số cháu

93

1328/4648 = 35%

166

4452/4452 = 100%

16

- Cơ sơ vật chất – Trang thiết bị trường học:
Với mục tiêu, phương châm và ý chí quyết tâm của các cấp lãnh đạo lấy khẩu
hiệu “ Tất cả đầu tư cho giáo dục ” xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp khang trang
sạch, đẹp để tạo điều kiện cho con em học tập tốt. Đảng bộ và nhân dân trong
huyện đã đóng góp nhiều công sức, tiền của để xây dựng, tu sửa trường lớp. Hiện
nay một số trường đã có hệ thống phòng học đủ diện tích theo yêu cầu chuẩn ấm về
mùa đông, mát về mùa hè, nhiều trường học đã được quy hoạch xây dựng và chuẩn
bị xây dựng mới đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu tối thiểu cho việc dạy và học, tổ
chức các hoạt động khác cho trẻ. Phong trào kiên cố hoá trường học đang được phát

triển mạnh mẽ và đã mang lại hiệu quả thiết thực số trường chuẩn bị đề nghị thẩm
định đạt chuẩn quốc gia và trường cận chuẩn ngày càng được tăng lên.
Trường
đạt
chuẩn
quốc
gia

Trườn
g cận
chuẩn

Trường
có đồ
chơi
ngoài
trời

Trường
có bếp
một
chiều

Tổng
số
phòng
học

Phòng
kiên cố


7

6

16

16

259

150

Phòng
cấp 4

Phòng
đang
XD
mới

Bàn
ghế
quy
cách

Trường
được
đánh giá
ngoài


48

61

2580
bộ

7

-Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý – giáo viên- nhân viên:
Danh
mục

Tổng
số

Quản lý
GV+NV
Tổng số
Tỷ lệ %

Trình độ CM

Năng lực nghiệp vụ, kỹ năng sư
phạm

TC

Xuất

sắc

Khá

TB

Yếu

GV
giỏi
huyện

46

0

25

17

4

0

0

0

46


315
361
92,3%

30
30
7,7%

84
109
27,9%

201
218
55,8%

64
68
17,3%

0
0
0%

90
90
23%

4
4

1,02%

212
258
66%

ĐH


46
345
391

GV
giỏi
tỉnh

Đảng
viên

Bản thân tôi được điều động từ giáo viên lên làm chuyên viên phụ trách
chuyên môn Bậc học mầm non của huyện Vĩnh Lộc, kinh nghiệm quản lý còn ít
nên có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài này. Tuy nhiên với sức trẻ
và lòng nhiệt huyết, trách nhiệm cao của bản thân đối với công việc và mong mỏi
sẽ góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục chung của ngành giáo dục huyện nhà
nói chung, Bậc học mầm non nói riêng, bản thôi tôi luôn nỗ lực để hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ của mình. Tiếp tục thực hiện đề tài này ngay từ đầu năm học 20182019 tôi đã đi khảo sát thực tế các trường mầm non trong huyện và thấy được
những thuận lợi, khó khăn như sau:
2.2.2. Thuận lợi, khó khăn:
5



* Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, giúp đỡ nhiệt tình của các cấp lãnh đạo từ
Sở Giáo dục và Đào Tạo Thanh Hoá đến Huyện Uỷ, UBND – HĐND huyện Vĩnh
Lộc, Đảng uỷ, UBND – HĐND các xã, thị trấn, lãnh đạo phòng GD & ĐT. Thực
hiện tốt các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, văn bản, Đề án về phát triển
GDMN từ Trung ương đến địa phương, trong năm qua phong trào giáo dục mầm
non huyện Vĩnh Lộc đã đạt được những thành tích đáng kích lệ và đang làm cho
ngành học thay đổi vượt bậc cả về số lượng và chất lượng.
Nhiều trường có phòng học rộng, có hiên trước, hiên sau, có nhà kho, nhà vệ
sinh đạt tiêu chuấn ...
Nhiều lớp được đầu tư, trang bị cơ sở vật chất kiên cố, trang thiết bị đầy đủ
theo thông tư 01/VBHN-BGDĐT ngày 23 tháng 3 năm 2015 về việc ban hành
danh mục đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tối thiểu dùng cho giáo dục mầm non
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo đã đảm bảo việc học tập và sinh hoạt của trẻ.
92,3% đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ đào tạo chuyên môn trên chuẩn,
đa phần là đội ngũ trẻ tuổi, nhanh nhẹn, sáng tạo, nhiệt tình, ham học hỏi, tích cực
tham gia học tập qua các lớp đào tạo, tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn, năng lực nghiệp vụ và hào hứng tham gia vào các phong trào, hoạt
động do ngành phát động, luôn đoàn kết, nhằm xây dựng, phát huy truyền thống tốt
đẹp của ngành học, nên đã thu hút được sự quan tâm, gây được lòng tin cho cấp uỷ
đảng, chính quyền, nhân dân địa phương đặc biệt là các bậc phụ huynh có con, em
trong độ tuổi tín nhiệm phấn khởi đưa con, em đến trường đi học.
Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ trên toàn huyện đạt 35%, đảm bảo tỷ lệ huy động
chung trên toàn tỉnh.
Trẻ mẫu giáo huy động đạt 100% ra lớp đúng độ tuổi và học chương trình
đúng độ tuổi, đa số trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, đi học chuyên cần, có nề nếp.
Bản thân tôi trẻ năng động, sáng tạo, ham học hỏi, thông thạo công nghệ
thông tin, có năng khiếu về thẩm mỹ, được lãnh đạo Phòng GD&ĐT tạo điều kiện

cho đi tham quan, học hỏi ở đơn vị bạn.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên cũng còn một số bất cập và khó khăn sau:
Còn một số trường các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường
hoạt động giáo dục phục vụ cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ chưa
đáp ứng được yêu cầu và có nơi không đảm bảo an toàn về thân thể cho các cháu.
Công tác quản lý chỉ đạo và năng lực nghiệp vụ của một số cán bộ quản lý,
giáo viên còn nhiều hạn chế, trình độ chuyên môn không đồng đều; quản lý, giáo
viên dạy tuổi cao còn nhiều nên khó tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu quản lý cũng
như việc thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục
mầm non hiện nay. Chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học áp dụng theo quan
điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong
các hoạt động còn nhiều hạn chế.
Những kinh nghiệm cụ thể, những khuôn mẫu sáng tạo về xây dựng môi
trương giáo dục của cán bộ quản lý và giáo viên còn hạn chế.
Phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đưa trẻ
6


đến trường mầm non đi học và xây dựng môi trương giáo dục cho trẻ hoạt
động còn tư tưởng khoán trắng cho các nhà trường mầm non.
Một số cán bộ địa phương chưa nhận thức đúng, sâu sắc về vai trò, ý nghĩa
và tầm quan trọng của bậc học mầm non, nên chưa thật sự quan tâm, phát huy hết
nội lực, khả năng và trách nhiệm của mình để chăm lo cho sự phát triển toàn diện
của GDMN đúng mức.
Các mảng trang trí đã theo chủ đề, đẹp nhưng dán chết trên tường, chủ yếu
chú trọng khu vực trong lớp; khu vực hiên trước, hiên sau, phòng vệ sinh chưa
quan tâm. Tất cả đều bàn tay cô thực hiện chưa có sự tham gia của trẻ.
Tuy được đầu tư, trang bị tương đối về đồ dùng trang thiết bị dạy học nhưng
chủ yếu là các đồ dùng, đồ chơi mua sẵn, sản xuất hàng loạt, chất liệu chủ yếu bằng

nhựa chưa có nguyên liệu thiên nhiên, chưa đáp ứng được nhu cầu khám phá, sáng
tạo ... của trẻ, mà trẻ luôn thích mới, lạ, đẹp, hấp dẫn...
2.2.3. Kết quả của thực trạng:
Đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch tham mưu với lãnh đạo phòng ra Quyết
định, thành lập đoàn đi kiểm tra, đánh giá, khảo sát chất lượng việc thực hiện
chuyên đề. Kết quả số trường, giáo viên và số trẻ được đánh giá, xếp loại theo các
nội dung và tiêu chí đạt được như sau ( kết quả đầu năm học học 2018-2019)
* Đối với nhà trường: 16 trường theo thang điểm 100 điểm

Tổng số
trường
mầm non
16

Chất
lượng
XDKH
chỉ đạo
20đ

Chất
lượng
Bồi
dưỡng
CBGV
20 đ

Đầu tư
CSVCTTbị,
đồ

dùng,
đc.
20 đ

Số trường
đạt
Tỷ lệ %

XD khuôn
viên trong,
ngoài nhà
trường
xanh,
sạch, đẹp
20 đ

XD các
MQH, môi
trường xã
hội tốt
trong nhà
trường
20 đ

Xếp loại chung

T

K


TB

Y

5

5

2

9

10

9

10

10

4

56

62,5

56

62,5


62,5

25

31,25 31,25

12,5

* Đối với giáo viên xây dựng môi trường trên nhóm, lớp:

T.số
giáo
viên/
nhóm,
lớp

XD môi
trường
GD: Vật
chất và
xã hội
20 đ

259
Tỷ lệ

196
75,7

Nội

dung,
hình
thức xây
dựng
môi
trường
GD.
30 đ

196
75,7

Phương
pháp tổ
chức cho
trẻ hoạt
động
20đ

202
78

Công tác
tuyên
truyền, sưu
tầm vật liệu
phế thải…
làm đồ
dùng, đồ
chơi

10 đ

198
76,4

Nắm vững
Yêu cầu,
kiến thức,
kỹ năng,
năng lực
nghiệp vụ

Xếp loại chung

T

K

48
18,5

105
40,5

TB

Y

20 đ


196
75,7

85 21
32,8 8,1

* Đối với cháu: tổng số 5780 ( trong đó nhà trẻ 1328; MG 4452 )
7


Tiêu chí 1
Nề nếp chào hỏi,
nói năng, đi đứng
thể hiện thái độ, kỹ
năng giao tiếp tình
cảm, ứng xử.
NT
730
55%

MG
2784
62,5%

Tiêu chí 2
Trẻ hứng thú, tích
cực, biểu hiện khả
năng tự lực, sáng
tạo trong khi tham
gia các hoạt động ,

trải nghiệm
NT
MG
672
2669
50,7%
60%

Tiêu chí 3
Trẻ hiểu nội
dung, có kiến
thức, hình thành
và phát triển kỹ
năng chơi
NT
715
53,8%

MG
3072
69%

Tiêu chí 4
Trẻ thực hiện đúng
quy tắc, cách chơi,
luật chơi của từng loại
trò chơi, biết phối hợp
với bạn trong khi chơi
NT
800

60,3%

MG
3072
69%

* Kết luận: Qua khảo sát thực trạng tôi thấy chất lượng của việc xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm mặc dù đã qua 2 năm thực hiện chuyên
đề nhưng các trường mầm non trong huyện nói chung còn nhiều hạn chế. Tất cả
những hạn chế từ kết quả trên đây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục
cũng như việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Vì vậy cần phải
được khắc phục, qua tình hình nghiên cứu cụ thể về thực trạng, bản thân tôi đã chủ
động xây dựng kế hoạch và tiếp tục nghiên cứu tìm ra những biện pháp quản lý, chỉ
đạo thích hợp, phù hợp với thực tiễn của các nhà trường, giáo viên, trẻ trong thời
gian tới, để đáp ứng kịp thời với yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục mầm
non hiện nay.
2.3. Các giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện:
2.3.1. Chỉ đạo các trường mầm non xây dựng kế hoạch và thực hiện
“Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” đảm bảo các nội dung
của môi trường giáo dục.
Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là thực
sự cần thiết và quan trọng. Nó được ví như người giáo viên thứ hai trong công tác
tổ chức, hướng dẫn cho trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ,
thông qua đó, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện. Một môi
trường sạch sẽ, an toàn, phù hợp với tâm lý của trẻ có sự bố trí khu vực chơi và học
trong lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự
phát triển thể chất của trẻ, mà còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết
của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Môi trường giao tiếp cởi mở,
thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ
tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với

cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp
nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu
cô giáo và bạn bè hơn.
Trong các buổi tổ chức chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm” tôi nhấn mạnh rõ môi trường giáo dục gồm: Môi trường trong lớp,
môi trường ngoài lớp và môi trường xã hội. Từ đó tôi xây dựng kế hoạch “Xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” và chỉ đạo các trường mầm non
lập kế hoạch phải chú trọng đến các nội dung sau:
* Môi trường trong lớp:
8


Sắp xếp không gian hợp lí: Gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng
ngày của trẻ để đảm bảo về mặt tâm lý cho trẻ khi tới trường lớp; có sự phân chia
giữa các góc rõ rệt, phù hợp; thiết kế các góc chơi phù hợp diện tích lớp, độ tuổi.
Đảm bảo cho trẻ di chuyển dễ dàng giữa các góc mà không va chạm vào nhau hoặc
vấp ngã hay va chạm vào đồ vật.
Trang trí: Vừa tầm mắt trẻ (không quá cao hoặc quá thấp); hình ảnh rõ ràng,
cụ thể, không quá nhiều hình ảnh. Quan tâm đến môi trường chữ viết. Dùng chữ in
thường và chữ viết thường
Góc mở: Có sản phẩm của cô và của trẻ, phong phú về thể loại như vẽ, nặn,
xé dán, cắt dán, có sản phẩm của phụ huynh…
Màu sắc: Tranh ảnh, màu sắc hài hòa, sinh động, ngộ nghĩnh, không quá rực
rỡ, lòe loẹt.
Các góc chơi: Trong lớp học không thể thiếu các góc chơi của trẻ nên cần
đảm bảo đủ số lượng góc cho trẻ chơi; tùy theo không gian, diện tích của lớp có thể
bố trí góc chơi trong hoặc ngoài lớp; các góc hoạt động chính được duy trì thường
xuyên; bố trí các góc linh hoạt để có thể sắp xếp lại; bố trí sắp xếp những hoạt
động tương đồng thì ở gần nhau (hoạt động tĩnh xa hoạt động động); bố trí các góc
có thể di chuyển được và đảm bảo an toàn cho trẻ; có đủ đồ chơi và phương tiện

đặc trưng của từng góc
Đồ dùng, đồ chơi trong các góc:
Phong phú về thể loại: Tự làm, mua sẵn, lá cây, hột, hạt, len, vải vụn…để
khuyến khích trẻ trải nghiệm. Nên có đồ dùng đã hoàn thiện và chưa hoàn thiện để
trẻ chơi.
Đồ dùng, đồ chơi ở các góc phải được sắp xếp gọn gàng, khoa học, dễ lấy,
tiện cho trẻ khi sử dụng; mang sắc thái vùng, miền, nguyên vật liệu của địa phương
(đưa sản phẩm của địa phương vào); mang tính mở và được bổ sung theo giai đoạn.
Xây dựng các góc mở ở trong và ngoài nhóm, lớp: ở mỗi nhóm, lớp, nhà
trường lên kế hoạch chỉ đạo xây dựng các góc như : Góc phân vai, góc xây dựng,
góc khám phá khoa học/ thiên nhiên, góc nghệ thuật, góc, sách…đúng với nội dung
theo độ tuổi.
Ví dụ: Góc xây dựng phải được sắp xếp hợp lý và hấp dẫn đối với trẻ, có đầy
đủ các vật liệu xây dựng đa dạng, phong phú và thể hiện các chủ đề học tập khác
nhau, được sắp xếp ở nơi dễ lấy, dễ nhìn thấy và có đủ khoảng không gian thích
hợp cho trẻ chơi, được xác định các biểu tượng và đặt ngang tầm mắt của trẻ. Có
thể sử dụng tên của góc, biểu tượng của góc để đàm thoại với trẻ về những hoạt
động có thể thực hiện được ở góc. Có sơ đồ mạng về công việc của trẻ, để khi trẻ
chơi trẻ tự tìm, lấy đúng ký hiệu và phần việc của mình để thực hiện. Ngoài ra ở
trong góc giáo viên chuẩn bị sẵn một số nguyên, vật liệu rời như các bình, lọ, que,
cành cây, hoa, lá.. nguyên liệu còn nguyên vẹn như các khối hộp, tranh, ảnh… cho
trẻ tự làm thành các sản phẩm theo ý tưởng của mình.
Ví dụ: Góc tạo hình, âm nhạc được trưng bày những đồ dùng, đồ chơi ,
những hình ảnh, sản phẩm của hoạt động tạo hình, hoạt động âm nhạc đặc biệt là
những sản phẩm đẹp do trẻ tự làm ra như các bức tranh, sản phẩm nặn, xé dán…có
ghi tên trẻ và ký hiệu riêng của trẻ ở phía góc trên của sản phẩm. Có các tranh ảnh,
9


họa báo, giấy màu, lá cây khô, bẹ ngô, cói, đay, len sợi, bông…để trẻ tự làm đồ

chơi theo ý tưởng riêng của trẻ, cô và trẻ cùng làm chung một sản phẩm hoàn
chỉnh…trong những lúc đón và trả trẻ giáo viên giới thiệu cho phụ huynh quan sát,
nhìn thấy tên, sản phẩm của con mình được nêu gương trên góc, phụ huynh rất phấn
khởi, động viên con tiếp tục ngoan hơn, học giỏi hơn. Góc nghệ thuật đó giúp phần
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục
trong nhà trường, ở góc âm nhạc ngoài trưng bày, sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng âm
nhạc gọn gàng, ngăn nắp, còn có các lô tô rời cho trẻ chọn hình ảnh găm lên và gọi
đúng tên hình ảnh đó. Khi trẻ chơi các trò chơi âm nhạc, biểu diễn văn nghệ trẻ biết
chọn đồ dùng, nhạc cụ phù hợp.
(Một số hình ảnh các góc, khu vực hoạt động trong nhóm lớp
– Hình ảnh 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10 thuộc phụ lục của SKKN này)
* Môi trường ngoài lớp:
Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ.
Quy hoạch và thiết kế cho phù hợp với không gian, diện tích của trường
mình như bố trí diện tích sân tập thể dục cho trẻ toàn trường và khu chơi thể thao
(cột bóng rổ, thang leo, sân chơi bóng đá mini...); khu vực chơi với đồ chơi ngoài
trời (cầu trượt, đu quay, đu bay, bập bênh, nhà bóng...); khu vực chơi “giao thông”;
khu vực chơi với đất, cát, nước, đá, sỏi...; khu vực trẻ trồng rau, trồng cây và chăm
sóc cây cối, con vật nuôi; khu chơi với các nhân vật cổ tích, hay còn gọi là “vườn
cổ tích”; khu “sân khấu ngoài trời”, khu trồng cỏ, trồng hoa, trồng cây cảnh, cây ăn
quả, cây bóng mát trên sân trường; khu tạo sân cỏ... hệ thống đường đi lối lại trên
sân; độ cao của hệ thống tường bao, độ rộng của cổng và biển trường; khu đặt bảng
tuyên truyền… đảm bảo các khu vực hài hòa và an toàn cho trẻ.
Cây xanh: Ngoài cây lâu năm cần trồng bổ sung cây xanh hàng năm.
Bố trí, sắp xếp môi trường bên ngoài cần đảm bảo độ an toàn cho trẻ: Không
trồng loại cây có gai, độc… Bảng biểu ngoài sân, tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ
cần được ghim, vít chặt chẽ.
(Một số hình ảnh các góc, khu vực hoạt động ngoài nhóm lớp – Hình ảnh
12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24 thuộc phụ lục của SKKN này)

* Môi trường xã hội:
Đây là môi trường trường trong nhà trường, gia đình và xã hội. Cần quan tâm
đến sự giao tiếp của cô với cô, cô với trẻ, trẻ với trẻ, cô với phụ huynh, trẻ với
người lớn; cần xây dựng môi trường giao tiếp chân tình, cởi mở; giáo viên quan
tâm đến mọi trẻ, yêu thương tôn trọng trẻ, đối xử công bằng với mọi trẻ; lắng nghe
ý kiến của trẻ, tôn trọng trẻ; giáo viên, người lớn cần là tấm gương cho trẻ học tập
và làm theo. Vì vậy tôi chỉ đạo các trường xây dựng một môi trường sư phạm thực
sự đoàn kết, mỗi cán bộ, giáo viên phải gương mẫu đối với trẻ, thực sự là một tấm
gương cho trẻ học tập. Đó là từ cách ăn mặc, cử chỉ, lời nói, tác phong đối với trẻ
phải nhẹ nhàng, âu yếm, gần gũi , yêu thương trẻ đúng mực. Chỉ đạo để ban giám
hiệu nhà trường chủ động phối, kết hợp chặn chẽ với các đoàn thể trong trường như
10


chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, hội cha mẹ phụ huynh …phát động theo
từng đợt, từng chủ đề, chủ điểm…
Ví dụ: Chọn các chủ điểm để phát động phong trào cho phù hợp với ngày hội
của trẻ như “ Nói lời hay, làm việc tốt “ “ Cô bác mẫu mực” “ cô
giáo như mẹ hiền “…
Nhờ những đợt vận động như trên, dần dần những hành vi chưa gương mẫu
của cán bộ, giáo viên, nhân viên đã chấm dứt, như không xưng hô mày tao với
nhau, không nói to trong giờ nghỉ của trẻ, không đánh, chửi nhau, không nói tục,
nói bậy trước mặt trẻ, không đi xe trong sân trường, không ăn mặc luộm thuộm, hở
hang, khi giao tiếp, trao đổi, trò chuyện với phụ huynh, với trẻ, với mọi người xung
quanh đúng phong cách nhà giáo.
Đối với các cháu trong giờ học cũng như trong giờ chơi, nhà trường phải chỉ
đạo giáo viên tổ chức thực hiện đảm bảo được môi trường giao tiếp thân thiện, hòa
đồng, ấm cúng, cởi mở tạo cơ hội, điều kiện cho trẻ được giao tiếp vơi nhau. Môi
trường tác động đến trẻ đó là (Con người với con người, con người với môi trường
xung quanh), vì vậy khi giáo viên, gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh phải thể hiện tình

cảm thân thiện, cởi mở và mẫu mực. Quan hệ giữa cô và trẻ thể hiện tình thương
yêu, tôn trọng, tin tưởng, đối xử công bằng với trẻ. Quan hệ giữa trẻ với trẻ thể hiện
sự hợp tác, thân thiện, cô giáo đưa các cháu đi dần vào nề nếp, thói quen, có tinh
thần tập thể, đoàn kết, biết thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau, trong cách xưng hô
giao tiếp phải luôn xưng tôi với bạn, nếu bạn ngã biết đến giúp đỡ bạn, nâng bạn
đứng dạy, rủ bạn cùng chơi…
* Kết quả: 16/16 trường và 243/243 nhóm, lớp có kế hoạch cụ thể cho việc
xây dựng và tạo môi trường vật chất trong và ngoài nhóm lớp; Đa số các trường,
nhóm, lớp đã biết lựa chọn nội dung, hình thức trang trí, xây dựng môi trường giáo
dục vật chất theo hướng mở, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung của
từng chủ đề, với khả năng nhận thức của trẻ và phù hợp với điều kiện thực tiễn của
địa phương, xây dựng môi trường xã hội thân thiện, đoàn kết, vui vẻ.
2.3.2. Tham mưu Phòng GD&ĐT quan tâm đến công tác xây dựng, bồi
dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên.
Hoạt động quản lý giáo dục ở các trường học là một hoạt động chuyên biệt.
Muốn làm được công tác quản lý, đòi hỏi phải qua tuyển chọn và đào tạo theo một
chương trình, nội dung, phương pháp nhất định. Hoạt động quản lý là một hoạt
động có tính sáng tạo, nên đòi hỏi người lãnh đạo phải có khả năng tư duy, có sự
nhanh nhạy và quyết đoán cao, chuẩn hoá về trình độ học vấn. Ngoài ra người cán
bộ quản lý phải có đức hy sinh, có tính say mê công việc, có khả năng giao tiếp,
ứng xử xã hội, có uy tín với đồng nghiệp, với mọi người. Vì vậy đối với tất cả
CBQL đương chức chưa được học qua lớp quản lý giáo dục phải tạo điều kiện cho
họ đi học, thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực nghiệp vụ cho họ. Đảm bảo việc đề bạt CBQL theo đúng quy trình, đúng
tiêu chuẩn, chức danh cụ thể, tạo điều kiện cho CBQL có cơ hội đi giao lưu, học
hỏi, tham quan các cơ sở trọng điểm, các điển hình tốt về GDMN trong và ngoài
tỉnh.
11



Đội ngũ giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong công việc nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ “Giáo viên là nguyên tố quyết định chất lượng
giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải có đức, có tài”.
Luật giáo dục cũng khẳng định “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục” khai thác tốt đội ngũ chính là chúng ta phát huy được
nội lực toàn ngành.
Thực tế cho thấy có cô giỏi mới có cháu giỏi, trường nào có nhiều giáo viên
nhiệt tình, tích cực, năng động có trách nhiệm với công việc, có năng lực chuyên
môn thì kết quả trên trẻ thể hiện rõ rệt, trẻ chăm, ngoan, có nề nếp, thói quen học
tập, hoạt động sôi nổi, tự tin, mạnh dạn và có chất lượng cao. Muốn xây dựng, bồi
dưỡng được đội ngũ đủ đức, đủ tài có kiến thức văn hoá và nghiệp vụ sư phạm, đáp
ứng được với yêu cầu thực tế của chương trình đổi mới hiện nay thì trước hết phải
sàng lọc giáo viên. Hàng năm phải chỉ đạo các trường làm tốt công tác phân loại ,
đánh giá, giáo viên, thường xuyên thanh - kiểm tra nghiệp vụ quản lý, giáo viên, có
chế độ khen thưởng thoả đáng.
Thực hiện chiến lược bồi dưỡng CBQL, giáo viên theo hướng tự học, tự bồi
dưỡng và theo học các lớp đào tạo bằng nhiều hình thức tập trung chính quy, liên
thông,tại chức…vv để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực, kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm.
Tôi đã tham mưu Phòng GD&ĐT thường xuyên tổ chức kịp thời các lớp
chuyên đề với nội dung được tiếp thu trên Tỉnh và lựa chọn những nội dung cần
thiết, phù hợp với thực tế ở huyện để cho tất cả CBQLvà giáo viên tham dự, sau
mỗi đợt tập huấn, tổ chức cho chị em trao đổi thảo luật, rút kinh nghiệm các hoạt
động thực hành, viết bài thu hoạch, đề xuất những kiến nghị khi triển khai và tổ
chức thực hiện các nội dung của lớp chuyên đề.
Ví dụ: Năm học 2018-2019 tôi tham mưu với lãnh đạo phòng tổ chức tập
huấn tại huyện với các nội dung như sau.
- Tập huấn các môđun BDTX do CBQL và GVMN đề xuất;
- Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục, quy trình và chu kỳ kiểm định
chất lượng giáo dục trường mầm non;

- Triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục mầm non;
- Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ mầm non;
- Hướng dẫn thực hiện tích hợp trong tổ chức hoạt động giáo dục ở trường
mầm non. Hướng dẫn tổ chức chơi ngoài trời. Giao tiếp với trẻ mầm non;
- Quan sát, đánh giá trẻ và lập kế hoạch trong giáo dục mầm non.
- Củng cố lại kiến thức chuyên đề “xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm
trung tâm”.
- Tập huấn Chuẩn Hiệu trưởng mầm non theo TT 25/2018/TT-BGDĐT và
Chuẩn giáo viên mầm non theo TT 26/2018/TT-BGDĐT ban hành ngày 08/10/2018
tới tất cả CBQL và GVMN trên toàn huyện.
* Kết quả: Năm học 2018-2019 có 16/16 trường đã xây dựng được môi
trường giáo dục trong và ngoài nhóm, lớp; trên 90% số CBQL, GVMN nắm vững
mục đích, vai trò, ý nghĩa, nội dung, yêu cầu của việc xây dựng môi trường giáo
12


dục và có những hình thức, phương pháp sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt
động trải nghiệm.
2.3.3. Tham mưu chỉ đạo điểm và nhân rộng mô hình điểm về thực hiện
nội dung “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường
mầm non” tại các nhà trường để nâng cao chất lượng.
Ngoài lớp bồi dưỡng về lý thuyết, tôi còn tham mưu Phòng GD&ĐT quan
tâm đến việc bồi dưỡng ở các trường trọng điểm, lớp điểm. Tôi tham mưu với lãnh
đạo Phòng GD&ĐT triển khai củng cố chuyên đề và tham mưu chỉ đạo các trường
mầm non tổ chức phát động các nhóm lớp thực hiện “Xây dựng môi trường giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” và tổ chức chấm điểm các nhóm
lớp vào các dịp ngày hội, ngày lễ để lập thành tích chào mừng đồng thời đưa kết
quả làm minh chứng để thực hiện việc đánh giá chuẩn giáo viên mầm non vào cuối
năm học.
Bên cạnh đó tôi còn tham mưu lãnh đạo chú trọng sâu sắc vào công tác chỉ

đạo điểm, nhân rộng mô hình điểm về thực hiện nội dung “Xây dựng môi trường
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” toàn diện tới các trường
mầm non. Tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện, đồng thời chọn 3 trường đã tham dự
Cuộc thi “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm
non” đạt giải Nhì và Giải Ba cấp tỉnh là 3 trường trọng điểm có chất lượng giáo dục
đứng đầu bậc học mầm non của huyện và tổ chức khảo sát để lựa chọn những giáo
viên có trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, có tinh thần trách nhiệm yêu nghề,
mến trẻ và có khả năng sáng tạo để xây dựng trường điểm, lớp điểm, mỗi trường
Gồm 4 nhóm, lớp xây dựng điểm: 1 Nhóm trẻ; 1 Lớp mẫu giáo bé; 1 Lớp mẫu giáo
nhỡ; 1 Lớp mẫu giáo lớn.
Trước hết Phòng GD&ĐT đã cùng với Ban chất lượng của ngành chỉ đạo
Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên lớp điểm xây dựng kế hoạch chỉ đạo và tổ
chức thực hiện. Trong kế hoạch đối với từng nhóm, lớp yêu cầu phải đi sâu vào
từng vấn đề cụ thể về môi trường vật chất trong và ngoài nhóm, lớp cũng như môi
trường xã hội.
+ Nhóm trẻ thì xây dựng góc hoạt động với đồ vật,
+ Lớp mẫu giáo bé xây dựng góc đóng vai, góc xây dựng
+ Lớp mẫu giáo nhỡ xây dựng góc Tạo hình, góc khám phá khoa học và thiên
nhiên
+ Lớp mẫu giáo lớn xây dựng góc sách, góc âm nhạc, góc hoạt động với chủ
đề lớn, góc tuyên truyền với phụ huynh…vv
Mỗi lớp đều có sổ nhật ký ghi chép sự chuyển biến của trẻ và những hiện
tượng, hành vi, những hoạt động nào trẻ hứng thú, tích cực, những hành vi nào
chưa đúng, hoạt động nào trẻ không thích cần tập trung giáo dục cá nhân trẻ và gợi
ý hướng dẫn trẻ hoạt động. Việc ghi nhật ký trở thành nếp, thói quen theo dõi
thường xuyên của giáo viên. Chính vì vậy đã làm rõ tính vừa sức nội dung của
chuyên đề, phù hợp với từng lứa tuổi, giảm sự gò bó áp đặt, giáo điều gây căng
thẳng, nhàm chán đối với trẻ.
Sau học kỳ I tôi tham mưu Phòng GD&ĐT tổ chức cho toàn huyện đến học
tập, trao đổi nhận xét và bổ sung thêm những biện pháp, nội dung, hình thức để áp

13


dụng ở lớp, trường mình; tổ chức rút kinh nghiệm cho toàn trường và toàn ngành
làm theo..
Sang học kỳ II tiếp tục thực hiện nội dung chuyên đề và tiếp tục các nhà
trường phát động tổ chức chấm điểm việc thực hiện “Xây dựng môi trường giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non” trực tiếp thực tế tại nhóm lớp có
mời sự tham gia đánh giá của Lãnh đạo, chuyên viên Phòng GD&ĐT để chỉ ra
những điểm mạnh và những hạn chế chung. Đồng thời cũng để cho các trường mầm
non trên toàn huyện được học tập, rút kinh nghiệm, Phòng GD&ĐT tổ chức cho các
cụm đi kiểm tra chéo và đánh giá xếp loại cụ thể từng nội dung của từng giáo viên,
của 3 trường chỉ đạo điểm. Nhờ vậy mà các trường đó nhận được những bài học
kinh nghiệm tốt của lớp điểm, trường điểm nhân diện ra toàn trường, toàn ngành
nhanh và thực sự có chất lượng.
* Kết quả: Năm học 2018-2019 có 16/16 trường đã xây dựng được tương đối
đồng đều môi trường giáo dục trong và ngoài nhóm, lớp. Việc xây dựng môi trường
giáo dục tại các nhà trường ngày một thực sự có chất lượng và hiệu quả cao, đáp
ứng được cơ bản yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục, đạt được mục tiêu kế hoạch
đã đề ra.
2.3.4. Chỉ đạo giáo viên tổ chức hướng dẫn thường xuyên cho trẻ hoạt
động với môi trường giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi.
Việc thường xuyên đưa trẻ vào hoạt động và thông qua hoạt động để giáo dục
và phát triển về các mặt nhân cách cũng như năm lĩnh vực giáo dục cho trẻ ở mọi
lúc, mọi nơi là một biệt pháp vô cùng quan trọng và cần thiết.
Các hoạt động đón, trả trẻ hàng ngày, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời,
lao động, đi dạo, đi thăm…đều là những dịp để trẻ bọc lộ cá tính, sở thích, cách ứng
xử, lời ăn, tiếng nói của mình. Các nhà trường chỉ đạo tất cả giáo viên phải linh
hoạt. sáng tạo, có nhiều hình thức, thủ thuật, biện pháp hay để tổ chức, hướng dẫn
trẻ hoạt động, khơi gợi ở trẻ tính tò mò ham hiểu biết, thích khám phá những điều

mới lạ, luôn gần gũi và uốn nắn những sai sót của trẻ trong mọi hoạt động, hành vi,
lời nói, nhằm để kích thích trẻ chủ động, tích cực tham gia hoạt động. Điều này rất
phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ mầm non là mau nhớ nhưng cũng chóng
quên. Tổ chức cho trẻ hoạt động, trải nghiệm với môi trường giáo dục có nhiều ưu
thế nâng cao về kiến thức, kỹ năng, tính chú ý, ghi nhớ có chủ định, tính khéo léo,
kiên trì, tính sáng tạo và mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh.
Ví dụ: Trong các hoạt động học với chủ đề: Thế giới động vật:
Đề tài: Bé làm quen với các con vật đáng yêu:
Ngoài thời gian cô cung cấp nội dung, yêu cầu, kiến thức, kỹ năng, cho trẻ
quan sát, đàm thoại, so sánh qua tranh ảnh, vật thật, mô hình, hình ảnh động trên
màn chiếu. Cô còn tổ chức cho trẻ chơi các loại trò chơi củng cố để khắc sâu kiến
thức, trẻ được thực hành trải nghiệm, tích cực tham gia vào các hoạt động như trò
chơi chọn tranh theo yêu cầu của cô, nặn các con vật, tích hợp vận động bật lên
ghép tranh, chuyển thức ăn cho các con vật, thử tài của bé quan sát xem xung quanh
lớp có những nhóm con vật nào, môi trường sống ở đâu và có số lượng là bao
nhiêu...vv
14


Ví dụ: Trong hoạt động góc: Muốn cho trẻ tích cực hoạt động và phát huy
tính sáng tạo ở trẻ (góc sách, góc tạo hình) giáo viên gợi ý cho trẻ làm bưu thiếp
chúc mừng ngày sinh nhật của Bác Gấu… trẻ phải biết cắt – dán, trang trí hình ảnh
đẹp, hài hòa. Giờ đón, trả trẻ trong các góc mở, cô tổ chức, gợi ý cho trẻ thích chơi
ở góc nào thì tự vào góc đó chơi, trẻ tự lấy đồ chơi lắp ráp, cắt, nặn, xếp hình, bế
em, hát, đọc thơ, xem tranh...vv, có những hình ảnh, nguyên liệu rời để trẻ tự ghép
thành bức tranh, làm đồ dùng, sản phẩm hoàn chỉnh …
* Kết quả: Đạt 95% số trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động,
90% số trẻ hiểu được nội dung, có kiến thức và kỹ năng chơi các trò chơi và chơi ở
các góc mở. Chính vì vậy sự phát triển toàn diện của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào
môi trường giáo dục. Nếu nhà trường và giáo viên biết xây dựng và tổ chức tốt môi

trường này cho trẻ hoạt động là đã góp một phần quan trọng trong việc hình thành
và phát triển các mặt nhân cách cũng như các lĩnh vực giáo dục của trẻ.
2.3.5. Chỉ đạo xây dựng môi trường “ Xanh- sạch - đẹp – an toàn” trong
và ngoài nhà trường.
Để mở rộng môi trường hoạt động cho trẻ, tôi tham mưu Phòng GD&ĐT chỉ
đạo các nhà trường phải chú ý tạo cảnh quan sân, vườn trường hấp dẫn trẻ như
trồng hoa, cây cảnh, cây cỏ, cây ăn quả, cây bóng mát được bố trí, xắp xếp hài hoà
trong sân. Vườn rau phân theo nhóm rau ăn củ, rau ăn quả, rau ăn lá, vườn hoa phân
theo màu sắc hoặc trồng xen kẽ cỏ, cây, hoa, lá, vườn cổ tích, vườn thiên nhiên.
Dưới mỗi gốc cây, trong mỗi vườn xây bồn hoa tạo thành các hình như hình vuông,
hình tròn, hình chữ nhật, hình tam giác, hình lá, quả, củ, hoa…có tên gọi của các
loại cây, loại rau, loại hoa, loại quả. qua đó để tạo môi trường giáo dục cho trẻ.
Đồng thời phân công người chăm sóc, tưới cây, cắt tỉa, quét dọn vệ sinh môi trường
hàng ngày sạch sẽ.
Ví dụ: Trong thảm cỏ có thể cắt tỉa thành hình bông hoa, ngôi sao năm cánh,
trong vườn hoa tạo dáng thành hình các vật ngộ ngĩnh, các con số…
Quy định chỗ để xe của phụ huynh khi đưa - đón con đến trường để tạo ý
thức thực hiện nếp sống văn minh, lịch sự, trật tự, gương mẫu đối với trẻ. Thông
qua đó hướng dẫn trẻ thực hiện tốt chuyên đề GD an toàn giao thông cho trẻ trong
trường mầm non.
Bố trí các thùng rác phải có nắp đậy để đúng nơi quy định. Tạo thói quen cho
trẻ và phụ huynh, khi cho trẻ ăn quà xong phải biết bỏ túi, hộp vào thùng rác, không
vứt rác ra sân trường. Mỗi khi cô tổ chức cho trẻ ra chơi ở sân trường, ra thăm vườn
hoa, vườn rau… khi thấy lá rụng, môi trường bẩn cô và trẻ cùng tham gia quét dọn
vệ sinh, hót lá bỏ vào thùng rác. Sau mỗi ngày phải xử lý thùng rác và làm vệ sinh
sạch sẽ, khơi thông cống, rãnh, không để bốc mùi trong khu vực trường mầm non,
không vẽ bẩn lên tường.
( Một số hình ảnh về môi trường xanh sạch đẹp tại các trường điển hình
– Hình ảnh 21,22,23,24,25,26 thuộc phụ lục của SKKN này)
* Kết quả: 16/16 trường sân chơi có đồ chơi ngoài trời, có cảnh quan sư

phạm, vệ sinh môi trường luôn xanh-sạch-đẹp-an toàn, có vườn rau, 13/16 trường
có vườn cổ tích, Vườn cây ăn quả của bé…vv
15


2.3.6. Chỉ đạo các trường làm tốt công tác phối kết hợp với các bậc phụ
huynh, các ban ngành, đoàn thể trong và ngoài nhà trường để triển khai và tổ
chức thực hiện tốt chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm
non:
Công tác phối kết hợp với các bậc cha mẹ, các ban, Ngành, Đoàn thể có ý
nghĩa vô cùng quan trọng và là nhiệm vụ thiết thực của từng nhóm, lớp và trường
mầm non góp phần thực hiện tốt mục tiêu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Tạo
nên sự liên kết giữa trường, lớp, nhóm và cha mẹ, cộng đồng xã hội, nhằm chia sẻ
kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình CS-ND-GD trẻ, đáp ứng kịp thời
những nhu cầu phát triển của trẻ về các mặt: Thể chất, tinh thần, nhận thức, tình
cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử, giáo dục cá biệt…tạo các điều kiện tối
ưu cho việc thực hiện có hiệu quả chất lượng toàn diện trên trẻ.
+ Có tác dụng lớn tạo được sự thống nhất giữa gia đình và trường, nhóm, lớp,
các đoàn thể về việc CS-ND-GD trẻ.
+ Tạo được sự thống nhất về nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức CSND-GD trẻ ở trường cũng như ở gia đình, tránh được những mâu thuẫn về phương
pháp CS-ND-GD trẻ.
+ Phối hợp về nội dung thực hiện chương trình chăm sóc bảo vệ sức khoẻ
cho trẻ; thực hiện chương trình giáo dục trẻ; phối hợp kiểm tra đánh giá công tác
CS-ND-GD trẻ, CSVC, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi trong nhà trường…vv
Về hình thức và biệp pháp phối kết hợp: Đối với nhà trường thành lập hội
cha mẹ của trường, của nhóm, lớp. Xây dựng kế hoạch hoạt động năm, tháng, và
được hội cha mẹ thông qua, thống nhất về nội dung, quy chế, nội quy, quy định của
nhà trường, nhóm, lớp, tổ chức họp phụ huynh theo định kỳ, trao đổi trực tiếp với
phụ huynh hàng ngày trong giờ đón trẻ và trả trẻ, xây dựng góc tuyên truyền cho
phụ huynh ở nhóm, lớp, lập hòm thư góp ý của cha mẹ và cộng động về công tác

ND-CS-GD trẻ ở nhóm, lớp…vv
Ví dụ: Xây dựng kế hoạch phối hợp với các bậc cha mẹ hàng năm theo từng
tháng. Tên nhóm, lớp…………..
Giáo viên:………………
I. Mục đích yêu cầu:
II. Nội dung chính:
III. Kế hoạch cụ thể:
Thời gian
Tháng 9
............
Tháng 5

Nội dung phối hợp

Hình thức và Biện pháp
phối hợp
- Đóng góp kinh phí xây dựng, cải tạo - Thành lập hội cha mẹ
trường, lớp, mua sắm đồ dùng, đồ của nhóm, lớp
chơi, trang thiết bị cho lớp học
..................................................
...............................

Nhận xét
kết quả

Chính vì vậy tất cả mọi công việc, mọi hoạt động của ngành cũng như của
trường mầm non muốn đạt kết quả tốt đều không thể không có sự ủng hộ, đóng góp
và phối kết hợp thường xuyên, chặn chẽ của phụ huynh, các đoàn thể trong và
ngoài nhà trường. Vì vậy khi bắt đầu triển khai chuyên đề tôi đã tham mưu Phòng
16



GD - ĐT chỉ đạo các nhà trường ngay trong buổi họp phụ huynh đầu năm phải
thông báo rõ mục đích yêu cầu của chuyên đề với phụ huynh và đề nghị với ban
chấp hành phụ huynh trường và hội phụ huynh từng lớp bàn biện pháp phối hợp
cùng nhà trường thực hiện tốt nội dung chuyên đề.
Các nhà trường phải viết lên bảng từng tiêu chí, nội dung, trang thiết bị, đồ
dùng, đồ chơi, những điều kiện cần thiết để thực hiện chuyên đề, các hình ảnh minh
họa của trẻ đang hoạt động, trải nghiệm với môi trường giáo dục như trẻ đang xếp
hình, ghép tranh, tô tranh, chọn chữ cái, chọn số…để phụ huynh biết và dạy bảo
thêm khi trẻ ở gia đình. Nhà trường mở đợt phát động phong trào thu, lượm lặt
những nguyên vật liệu phế thải, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương như (các khối
hộp, tranh ảnh họa báo, bình, lọ nhựa, bẹ ngô, rơm rạ, hột hạt…sưu tầm các làn
điệu dân ca, trò chơi dân gian ở các địa phương, sáng tác bài thơ, câu chuyện, bài
hát phù hợp với trẻ trong giáo viên và phụ huynh để hỗ trợ cho chuyên đề. Phát
động CBQL, GVMN viết bài tuyên truyền có nội dung về chuyên đề.
Các nhà trường xây dựng kế hoạch có nội dung, hình thức và biện pháp cụ
thể tham mưu với lãnh đạo địa phương, phối hợp với các ban, ngành đoàn thể trong
và ngoài nhà trường. Đặc biệt là ban văn hóa xã hàng ngày đọc trên loa truyền
thanh những nội dung yêu cầu của chuyên đề, để các lãnh đạo, các bậc phụ huynh
và toàn thể cộng đồng dân cư có nhận thức đúng và phối hợp với nhà trường thực
hiện tốt chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con mình tại gia đình, đặc biệt là quan tâm
đến sự phát triển, hoàn thiện về nhân cách cũng như các lĩnh vực phát triển giáo dục
của trẻ.
Sau mỗi học kỳ, tổng kết năm học Phòng GD & ĐT tổ chức họp, trao đổi,
thảo luận, rút kinh nghiệm trong các trường, cụm chuyên môn, cụm thi đua về nội
dung xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non, để rút ra được ưu,
nhược điểm và có kế hoạch chỉ đạo, tổ chức thực hiện cho những năm học tiếp
theo.
Phối kết hợp tổ chức tốt các hội thi “ đồ dùng, đồ chơi sáng tạo “ “Cuộc thi

xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” ở cấp trường, cấp huyện.
* Kết quả: Các nhà trường đã làm tốt công tác tuyền truyền vận động các
đoàn thể, các nhà hảo tâm, phụ huynh đóng góp về tinh thần, vật chất như tham gia
ngày công lao động cải tạo sân, vườn, giàn cây, ủng hộ chậu cây cảnh, cây xanh,
làm vườn cổ tích, vẽ tranh tường, làm sân phát triển vận động, sân khấu ngoài trời...
Các đơn vị thực hiện tốt như Vĩnh Thành, Vĩnh Phúc, Vĩnh Hưng, Vĩnh Ninh, Vĩnh
Minh, Vĩnh Yên...
Với những biện pháp phối hợp chặn chẽ như vậy, để thu hút được sự quan
tâm, ủng hộ nhiệt tình, tích cực hơn nữa của các cấp lãnh đạo và các bậc phụ huynh.
Đó là một bước tiền đề, đồng thời cũng là phương hướng để tiếp tục thực hiện tốt
nội dung chuyên đề trong những năm tiếp theo đạt kết quả cao hơn. Chính vì vậy
mối quan hệ, sự phối kết hợp giữa các bậc cha mẹ, các Ban, Ngành, Đoàn thể với
nhóm, lớp và trường mầm non là điều kiện không thể thiếu được trong việc thực
hiện các mục tiêu và góp phần nâng cao chất lượng toàn diện về CS-ND-GD trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
17


* Đối với hoạt động giáo dục: Sau năm học 2018-2019 vào đầu tháng 4
Phòng GD & ĐT lại xây dựng kế hoạch thành lập đoàn đi kiểm tra chéo cụm để
đánh giá, nhận xét, khảo sát chất lượng và xếp loại cụ thể từng trường thực hiện
chuyên đề và đã thu được kết quả như sau:
* Đối với nhà trường: 16 trường theo thang điểm 100 điểm
Tổng số
trường
mầm non
16

Chất
lượng

XDKH chỉ
đạo

Số trường
đạt
Tỷ lệ %

20 đ

XD khuôn
viên trong,
ngoài nhà
trường xanh,
sạch, đẹp
20 đ

XD các
MQH,
môi
trường xã
hội tốt
trong nhà
trường
20 đ

14

15

15


87.5

94

94

Đầu tư
CSVCTTbị, đồ
dùng, đc.

20đ

Chất
lượng
Bồi
dưỡng
CBGV
20 đ

14
87,5

Xếp loại chung

T

K

TB


Y

16

9

7

0

0

100

56

44

0

0

* Đối với giáo viên xây dựng môi trường trên nhóm, lớp:
T.số
nhóm,
lớp

XD môi
trường

GD: Vật
chất và
xã hội

Nội dung,
hình thức
xây dựng
môi
trường
GD.

20 đ

Phương
pháp tổ
chức cho
trẻ hoạt
động

Công tác
tuyên truyền,
sưu tầm vật
liệu phế thải…
làm đồ dùng,
đồ chơi
10 đ

Nắm vững
Yêu cầu,
kiến thức,

kỹ năng,
năng lực
nghiệp vụ

Xếp loại chung

T

K

TB

Y

30 đ

20đ

259

240

238

223

238

20 đ


245

103

120

36

0

Tỷ lệ

93

92

86

92

94

39,8

46,3

13,9

0


* Đối với cháu: tổng số 5780 ( trong đó nhà trẻ 1328; MG 4452 )
Tiêu chí 1
Nề nếp chào hỏi,
nói năng, đi đứng
thể hiện thái độ, kỹ
năng giao tiếp tình
cảm, ứng xử.

Tiêu chí 2
Trẻ hứng thú, tích
cực, biểu hiện khả
năng tự lực, sáng
tạo trong khi tham
gia các hoạt động ,
trải nghiệm

Tiêu chí 3
Trẻ hiểu nội dung,
có kiến thức, hình
thành và phát triển
kỹ năng chơi

Tiêu chí 4
Trẻ thực hiện đúng
quy tắc, cách chơi,
luật chơi của từng
loại trò chơi, biết
phối hợp với bạn
trong khi chơi


NT
MG
NT
MG
NT
MG
NT
MG
1129
4229
1181
4274
1181
4140
1181
4140
85%
95%
89%
96%
89%
93%
89%
93%
Phòng GD&ĐT sẽ tiếp tục phấn đấu chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa
trong những năm tiếp theo, nâng cao chất lượng toàn diện trong các nhà trường giáo
viên và trẻ.
* Đối với bản thân: Đã nâng cao được năng lực chuyên môn, nghiệp vụ,
kiến thức, kỹ năng sư phạm. Tích luỹ được một số hình thức, biện pháp chỉ đạo phù
hợp với thực tế của từng đối tượng trẻ, giáo viên, địa phương…

* Đối với đồng nghiệp: Là một trong những tài liệu để cho các đồng nghiệp
có thể sử dụng để tham khảo.
18


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3.1.1. Kết luận chung:
Qua 1 năm học thực hiện đề tài bậc học mầm non huyện Vĩnh Lộc đã đạt
những kết quả sau:
- Nhận thức của các cấp lãnh đạo và các bậc phụ huynh đã hiểu rõ, sâu sắc về
mục đích ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyên đề , từ đó mà có sự quan tâm, đầu
tư và chăm lo hơn cho ngành học.
- Trong các nhà trường có sự thay đổi lớn về hình thức và nội dung. Toàn bộ
27 xã đều có khu trung tâm khang trang, sân chơi được nâng cấp, các phòng học
kiên cố hóa được bổ sung thêm nhiều, đồ dùng, đồ chơi đa dạng hóa về hình thức
và chủng loại, các khu vệ sinh đạt chuẩn yêu cầu, nhà bếp được xây dựng và cải tạo
sạch sẽ, vận hành theo hệ thống một chiều.
- Trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho công tác CS-ND-GD trẻ đủ về
số lượng, đảm bảo về chất lượng, phong phú về chủng loại.
- Qua quan hệ, giao tiếp, lời ăn. tiếng nói, tác phong, cử chỉ, thái độ của toàn
thể cán bộ, giáo viên và nhân viên trong trường đã thực sự mẫu mực , lịch sự, văn
minh, là tấm gương tốt cho trẻ noi theo. Các mối quan hệ trong nhà trường giữa cán
bộ quản lý với giáo viên, giữa giáo viên với phụ huynh ngày càng gần gũi, thân
thiết và đoàn kết hơn.
3.1.2. Bài học kinh nghiệm:
Sau một năm triển khai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đề tài, muốn để đạt
được kết quả tốt, bản thân tôi đã tự rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Ngay từ đầu năm học Phòng GD&ĐT, đến các nhà trường, giáo viên cần
xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực, phù hợp với khă năng nhận thức của trẻ, với

tình hình thực tiễn của từng địa phương, nội dung, hình thức chặn chẽ và có biệt
pháp chỉ đạo, làm việc khoa học, trong đó lưu ý đến việc phân công, phân nhiệm,
chức danh rõ ràng, từ ở phòng GD, trong ban giám hiệu, giáo viên, nhân viên trong
trường. Bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực, kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
CBQL, GVMN.
- Tạo quang cảnh khuôn viên sư phạm, xây dựng môi trường giáo dục ở trong
và ngoài nhóm, lớp, ngoài nhà trường đảm bảo nội dung, hình thức phong phú, góp
phần không nhỏ vào việc tạo môi trường học tập thuận lợi cho trẻ. Việc đầu tiên khi
triển khai chuyên đề là phải quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi chung của trường cũng như của từng nhóm, lớp,
phát động phong trào và tổ chức tốt “ Hội thi đồ dùng, đồ chơi sáng tạo”. Việc này
cần có sự quan tâm ủng hộ và đóng góp của nhiều lực lượng trong và ngoài nhà
trường.
- Để nhanh chóng hình thành, cung cấp những kiến thức, kỹ năng, thói quen
và kích thích hứng thú, tính tò mò, ham hiểu biết và tích cực tham gia hoạt động trải
nghiệm ở trẻ như yêu cầu của chuyên đề, nhà trường phải có nhiều hình thức và
biện pháp chỉ đạo, giáo viên phải suy nghĩ, sáng tạo tìm ra nhiều thủ thuật hay để
tiến hành tổ chức, hướng dẫn trẻ thực hiện ở các hoạt động, mọi lúc, mọi nơi.
19


- Sự ủng hộ phối, kết hợp của các bậc phụ huynh, các ban ngành, đoàn thể
trong và ngoài nhà trường là rất quan trọng. Một trong những nguyên nhân thành
công của chuyên đề là có sự đóng góp, giúp đỡ của phụ huynh, các đoàn thể. Sự
đóng góp đó không chỉ hỗ trợ về nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ chuyên đề, mà
còn ở việc tham gia cùng với nhà trường thực hiện tốt những yêu cầu của chuyên đề
, giúp trẻ duy trì và củng cố những kiến thức khoa học đơn giản, những nề nếp, thói
quen, thái độ, giao tiếp ứng xử tốt đã được hình thành trong nhà trường và đó cũng
là kết quả thực hiện thắng lợi trong việc hình thành và phát triền toàn diện nhân
cách ban đầu, cũng như phát triển các lĩnh vực giáo dục của trẻ và góp phần nâng

cao chất lượng toàn diện chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ trong trường mầm
non.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm trong trường mầm non” sau một năm học, tôi có một số ý kiến đề xuất
như sau:
Đối với nhà trường: Cần tham mưu với chính quyền địa phương đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu của bậc học và phù hợp với điều kiện thực tế
của từng đơn vị; làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục để tạo dựng môi
trường vật chất cho trẻ hoạt động bổ sung cũng như làm mới hàng năm.
Đối với Phòng GD&ĐT: Tổ chức cho cán bộ giáo viên cơ sở được đi tham
quan học tập những đơn vị điển hình xuất sắc để năm học tới đạt kết quả cao hơn.
Đối với Sở GDĐT: Có nhiều bài viết về công tác xây dựng môi trường giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm để giáo viên có tài liệu tham khảo thêm.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………

Vĩnh Lộc, ngày 13 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến


Nguyễn Thị Thảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số
28/2016/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016 ban hành sửa đổi, bổ sung một số
20


nội dung của chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo Thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ). NXB giáo dục Việt nam – xuất bản năm 2016
2. Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
trong trường mầm non của nhóm tác giả: Lương Thị Bích, Nguyễn Thanh Giang,
Phạm thị Huyền, Hoàng Thị Thu Hương, Bùi Thị Lâm, Lê Bích Ngọc, Phạm Thị
Nhi, Bùi Kim Tuyến của NXB Giáo dục – xuất bản năm 2017.
3. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non - NXB giáo
dục Việt Nam – xuất bản năm 2017.
4. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non: Từ 3-36
tháng tuổi; Mẫu giáo bé 3-4 tuổi; Mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi; Mẫu giáo lớn 5-6 tuổi.
NXB giáo dục Việt Nam – xuất bản năm 2010.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm
non theo các năm học.

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP

CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Cán bộ phòng GD&ĐT huyện Vĩnh Lộc.

TT
1.

2.

3.

4.

5.

6.

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp kích thích trẻ hoạt
động tích cực nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tạo hình nói chung, giờ “Vẽ
hoa mùa xuân” nói riêng cho trẻ 4-5
tuổi.
Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học
tốt môn Làm quen với môi trường xung
quanh nói chung, giờ “Làm quen với
một số loài hoa” nói riêng.
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trường mầm non Vĩnh long học
tốt môn Làm quen chữ cái

Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trường mầm non Vĩnh long học
tốt môn Làm quen chữ cái
Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai
xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm trong trường mầm non
trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh
Thanh hóa
Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai
xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm trong trường mầm non
trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh
Thanh hóa

Cấp đánh Kết quả
giá xếp loại đánh giá
(Ngành GD cấp xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

(A, B, hoặc
C)

Ngành Giáo
dục huyện

Vĩnh Lộc

B

2009-2010

Ngành Giáo
dục huyện
Vĩnh Lộc

C

2012-2013

C

2014-2015

Ngành Giáo
dục huyện
Vĩnh Lộc
Hội đồng
khoa học
huyện Vĩnh
Lộc
Hội đồng
khoa học
huyện Vĩnh
Lộc
Hội đồng

khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2015-2016

B

2017-2018

C

22


23



×