Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Cái tôi triết lí trong thơ hữu thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.66 KB, 17 trang )

1. Trong số các nhà thơ trực tiếp tham gia chiến đấu và trưởng thành trong kháng
chiến chống Mỹ, Hữu Thỉnh là một nhà thơ có phong cách riêng khá độc đáo. Cái
riêng ấy thể hiện một phần ở tính triết lý dung dị ông gửi vào tác phẩm. Trước
1975, tính triết lí còn thấp thoáng; sau 1975, nó đã hiện hữu thành cái tôi triết lí
không thể trộn lẫn trong thơ ông.

Cái tôi triết lí đã làm nên nét nổi bật của Hữu Thỉnh đồng thời cũng làm rõ hơn đặc
điểm thơ ca Việt Nam thời kì đổi mới cả trước và sau 1975. Dù trước hay sau
1975, chất triết lí của thơ Hữu Thỉnh đều gắn với cái nhìn hướng thiện, sự giản dị
và cảm nhận tinh tế về tạo vật. Nó làm thơ ông mang nét riêng: triết lí mà vẫn gần
gũi, không lên gân như nhiều người vẫn gặp phải.

Tuy nhiên, trước 1975, cái tôi triết lí xuất hiện còn mờ nhạt. Mục đích của nó là
làm rõ cảm hứng anh hùng và niềm tin không lay chuyển về tương lai trong niềm
vui tất thắng chứ không nhằm giãi bày những tâm tình riêng tư, nỗi buồn thế sự.
Nó thường xuất hiện qua hai hình tượng: người chiến sĩ và người mẹ (người chị)
trong chiến tranh. Triết lí xuất hiện chỉ để làm nổi bật những hi sinh và những đóng
góp thầm lặng cho cuộc cách mạng. Ở hình tượng người mẹ (và người chị), Hữu
Thỉnh thường chú ý ở phương diện đau thương, bất hạnh, những thiệt thòi hi
sinh… Cái tôi ấy không có nét riêng mà bị ảnh hưởng bởi xu hướng tổng kết chiến
tranh thời bấy giờ.

Ở giai đoạn sáng tác sau, cái tôi triết lí xuất hiện đậm đặc và trở thành một đặc
điểm lớn trong thơ Hữu Thỉnh. Có điều đó bởi bối cảnh xã hội thay đổi, quan niệm
sáng tạo của nhà thơ đã có những chuyển biến sâu sắc: thay vì quan niệm thơ như
một hoạt động tuyên truyền chính trị, giờ đây thơ được nhấn mạnh, đề cao trước
hết với tư cách là một hoạt động sáng tạo – nhận thức; thơ không được phép quay
lưng trước những vấn đề nóng bỏng của hiện thực đời sống, thơ phải gắn liền với
thời đại và thời cuộc, thơ phải là tiếng nói trách nhiệm và ý thức xã hội tỉnh táo,
trung thực của nghệ sỹ. Nhận thức đời sống trong chiều sâu triết lý chính là một
đặc điểm nổi bật của Hữu Thỉnh. Thơ có thể bàn về nhiều vấn đề đa dạng của hiện




thực song cách thể hiện phải giàu tính tư tưởng, hướng thơ trở về với đời thường,
với số phận cá nhân, đào sâu vào tiếng nói nội tâm, đi sâu phân tích, lý giải thế giới
cảm xúc, tâm linh sâu kín bí ẩn. Đây là những đổi mới hết sức sâu sắc và nhân bản
trong quan niệm, tư tưởng nghệ thuật của tác giả và nhiều nhà thơ khác cùng thế hệ
với ông.

Nếu trước đây, điều quan tâm lớn nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ chống
Mỹ nói chung là tâm niệm “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng
sau, cái nhìn của nhà thơ mang tính hướng nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng,
những lo âu khắc khoải, những bể dâu cuộc đời được nói đến một cách riết róng
qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn của chúng tôi mà là cái nhìn của
“chính tôi”. Cái tôi vì thế trở nên đa diện mà mặt trội của nó là những suy tư về cõi
người. Đó không phải là cái tôi hiện lên trong quầng sáng sử thi mà là hiện lên
trong chính cuộc sống thô ráp thường ngày.

2. Trong hành trình thơ ca, Hữu Thỉnh đã nhiều lần soi rọi nội tâm và rút ra những
triết lí riêng. Đó là triết lí của cái tôi tự ý thức cao độ và luôn muốn đào sâu vào
bản thể.

Trong chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản cũng đã nhắc tới
cái tôi tự ý thức này trong hình bóng người cô đơn: “Con người cô đơn trong thơ
Hữu Thỉnh xuất hiện trên cái nền chung ấy, nhưng cô đơn cũng cô đơn hơn, thất
vọng cũng thất vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn. Bởi như đã nêu ở trên, anh là
người của khát vọng được đồng cảm, cháy bỏng, da diết, bức xúc”[6,tr53]. Nhà thơ
đã tự soi vào bản thân để phát hiện ra nỗi cô đơn dường như là bạn đường của ông
trong đường đời. Cô đơn đã quán xuyến tất cả từ mạch thơ đến hồn thơ. Điều này
thể hiện rõ trong tập Thư mùa đông. Nhiều người đánh giá nó là sự tiếp nối của
một cô đơn dằng dặc. Càng cô đơn, tác giả càng đi sâu để khám phá sự phong phú

trong những cung bậc tâm hồn con người và từ đó đưa ra những triết lí sâu sắc về
chính nỗi cô đơn. Cô đơn đâu phải chỉ do thiếu hòa hợp với xã hội mà còn do
người thi sĩ muốn sẻ chia song không được:


Chỉ còn một mình anh

Với chiều ngoài cửa sổ.

(Ước)

Câu thơ ẩn chứa nỗi buồn của người trên cuộc hành trình tìm tới hạnh phúc trọn
vẹn:

Mùa thu cũng bỏ trời

Đi về miền tiếc nuối

Có con tàu mệt mỏi

Thét còi trong tim anh.

(Ước)

Cái tôi ấy còn luôn muốn đào sâu vào bản thể bằng sự tự dằn vặt và những nghi
vấn. Trong guồng quay của cuộc sống mưu sinh, tâm hồn con người cũng bộc lộ
nhiều biến thái mới, nhiều chiều sâu mới. Nhà văn có thể mô tả rất nhiều nhân vật,
qua cá tính và số phận các nhân vật ấy. Còn nhà thơ chỉ mô tả tâm hồn mình để



người đọc thấy được cuộc sống xã hội, vì vậy, cái tôi mới hay dằn vặt. Cái tôi ấy
chung cảm hứng với rất nhiều nhà thơ hiện đại. Sau năm 1986, các nhà thơ nỗ lực
khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những bi kịch nhân
sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị mới. Cái
tôi triết lí của Hữu Thỉnh cũng bộc lộ ngay cả góc khuất của tâm hồn. Nó là sự đào
sâu, lí giải, trăn trở của cái tôi. Trong đó còn có cả quá trình nhà thơ tự làm thanh
khiết tâm hồn mình. Bài thơ “Lọc”, ông nói về chính cuộc sống nội tâm mình
bằng triết lí:

Lọc hết bùn đi

Còn chút gì sót lại

Đấy là anh sau những vui buồn…

Nhà thơ đã dùng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng để nói về một chân lí: con
người ta bị vấy quá nhiều “bùn đen” trong tâm hồn, cần sàng lọc đi mới thấy được
bản chất. Từ câu chuyện của chính ông, ta thấy triết lí sống dành cho mọi người.

Trong nhiều bài thơ khác, ta cũng thấy những triết lí hướng thiện này. Nó trở thành
bình phong che chở ông trước sự cô đơn, đau buồn của cuộc đời. Vì lẽ đó, thơ
ông, dù về sau này chất chứa tâm trạng buồn nhưng vẫn không lạnh lẽo, mà vẫn
toát lên vẻ hồn hậu của một tâm hồn luôn biết gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của
cuộc sống:

Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình


Dưới đáy cốc của hy vọng


(Cặn lắng)

Thông qua lời nhắn nhủ của mẹ, ông nêu một phương châm sống:

– Hãy yêu lấy con người

Dù trăm cay nghìn đắng

Đến với ai gặp nạn

Xong rồi, chơi với cây

(Lời mẹ)

Đặc biệt, cái tôi triết lí ấy hiện rõ đầy tranh cãi qua Thương lượng với thời gian:

Buổi sáng lo kiếm sống

Buổi chiều tìm công danh

Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa


Tỉnh thức

Những hàng cây bật khóc

Nhân vật trong Thương lượng với thời gian giống bao người. Để sống thì cũng
phải lao vào guồng quay tiền tài danh vọng. Ngày thì lo tìm công danh, tiền bạc,
đêm “mài rũa trí khôn” cũng chỉ để tìm công danh, tiền bạc một cách dễ dàng hơn.

May thay, trong vòng quay đó, cái tôi vẫn tỉnh thức, vẫn biết giật mình. Có cái tỉnh
thức này, mới hiện lên rõ ràng nhân cách một con người còn giữ được lương tri,
còn biết trăn trở, đi tìm lẽ cao đẹp hơn là công danh, tiền bạc. Những hàng cây bật
khóc hay chính cái tôi bật khóc? Khóc vì “mình lại thương mình xót xa”, vì cuộc
kiếm tìm áo cơm, danh vọng, cuộc mài rũa trí khôn đã biến mình thành một kẻ tầm
thường; hay khóc vì không đạt được điều mình muốn dù đã phải “thương lượng
với thời gian”? Hay vì cả hai lẽ? Hay khóc vì cứ “lo”, cứ “tìm”, cứ “mài rũa” hết
cả một đời rồi, còn nghĩ gì được đến những điều cao đẹp, thánh thiện…! Khóc vì
hoàn cảnh buộc mình phải thế, hay khóc vì mình không vượt nổi hoàn cảnh? Qua
đó, chúng ta thấy được triết lí của tác giả về cuộc sống và đời người. Cuộc sống cứ
trôi qua vùn vụt, đời người còn lại gì đây sau khi cởi bỏ tấm áo danh vọng? Phải
tỉnh lại thôi. Song bản thân tác giả cũng thấy bất lực trong tiếng khóc dồn nén cuối
bài thơ. Biết là vậy mà không làm khác được.

3. Khi hiểu được bản ngã, cái tôi muốn truy vấn cả cuộc sống. Cái tôi trong thơ
Hữu Thỉnh cũng vậy. Nó luôn muốn truy tìm ý nghĩa và bản chất của đời sống và
các vấn đề nhân sinh thế sự để rút ra triết lí.

Chất triết lí này rõ rệt nhất ở những tác phẩm sau 1986. Công cuộc đổi mới được
khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại làm thay đổi cuộc sống nước ta
vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn nghệ, trong tình hình mới đã dám
“nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều sự thật đau lòng. Thơ của


Hữu Thỉnh cũng nằm trong trào lưu đó. Không thể phủ nhận một thực tế là cơ chế
kinh tế thị trường đã làm cho cuộc sống khởi sắc hơn, nhưng mặt khác, con người
dường như sống với nhau lạnh lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã
hội lỏng lẻo hơn. Bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó
khiến nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc nhà thơ phải thích
ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Ý thức nhìn cuộc đời

bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng về
đời sống.

Hữu Thỉnh đã sẵn sàng chỉ ra hiện thực cuộc sống thời hậu chiến khi niềm vui
chiến thắng đã lắng lại, hiện thực đất nước khó khăn lại đặt ra những nghiệt ngã.
Thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào những ưu tư, thức ngộ mới về thời cuộc:

Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc

Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau

Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế



Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa

Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế


(Nghe tiếng cuốc kêu)

Sự đau đớn ấy cho thấy một triết lí: có những mảng đen sau màu hồng, có những
điều xấu trong xã hội vẫn tồn tại như một tất yếu, chỉ có ta là mộng tưởng thôi.

Đó còn là triết lí đau đớn về cách ứng xử lật lọng tráo trở của con người với nhau
trong xã hội:


Có gì bền? Nhân nghĩa có còn đây?

(Nghẹn)

Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc

Mây vừa đi vừa ngoái lại trông người

(Ngẫu cảm)

Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ

Cười súng sính


Trong bộ cánh thớ lợ



Luật nhân quả

Ngủ gật trên bậc cửa

(Bất hạnh)

Vừa trong mơ cùng tôi

Cây ra đường đã bụi

Vừa dào dạt cùng tôi


Biển đã thành sương khói.

(Vừa trong mơ cùng tôi)

Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu

Cây đổ về nơi không có vết rìu


Ôi hoa tặng, chiều nay ai giẫm nát

Mưa dập vỡ trên đường em trở gót.

(Tự thú)

Lời thơ đã thể hiện bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tế và lý tưởng một
thời là một khoảng cách xa tắp đến mù mịt; khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện
không ngăn nổi cái nghịch lý, trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành. Nhạc thơ chậm
và buồn, tứ thơ sâu thẳm nhằm diễn tả cái hư vô của cuộc đời.

Trong cuộc sống ấy, tác giả lại càng ý thức về phẩm giá con người. Trong Gửi
người bộ hành lặng lẽ, nhà thơ đã cúi đầu trước cuộc đời nhà thơ Chính Hữu,
người suốt đời là quân nhân, một con người sống và ra đi lặng lẽ như sự giác ngộ
cho một triết lí sống siêu thoát, bình yên:

Anh mang theo những tiếng chuông xưa

Gõ trai tịnh dưới những vòm lá cổ.


Cảm quan triết lí còn đi theo Hữu Thỉnh tới cả thơ tình. Thơ tình ông không ngọt
ngào mà ẩn chứa những triết lí sâu xa qua hình tượng thơ gợi cảm. Đây là triết lí về
sự mềm yếu của phái mạnh trước người con gái họ yêu:


Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

(Thơ viết ở biển)

Đặc biệt, cái tôi triết lí ấy được nhiều người chú ý hơn cả là trong bài thơ Hỏi:

Tôi hỏi đất:

– Đất sống với đất như thế nào?

– Chúng tôi tôn cao nhau

Tôi hỏi nước:

– Nước sống với nước như thế nào?

– Chúng tôi làm đầy nhau

Tôi hỏi cỏ:

– Cỏ sống với cỏ như thế nào?



– Chúng tôi đan vào nhau

Làm nên những chân trời

Tôi hỏi người:

– Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

– Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

– Người sống với người như thế nào?

Các sự vật khách quan giờ mang tính biểu tượng cao cho một triết lí sống: tầng đất
tôn nhau lên, nước làm đầy nhau, cỏ đan vào nhau mở ra bát ngát chân trời. Tất cả
tượng trưng cho cuộc sống nương tựa, tương hỗ. Một lối sống lí tưởng mà nhà thơ
mong chờ. Một lối sống, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan
vào” (để ) “làm nên”. Nhưng có câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu mà
tác giả không trả lời được. Đó là câu hỏi người. “Nếu ba khổ đầu tâm trạng nhà thơ
dừng lại ở thế cân bằng, cái nhìn hoà đồng, cảm thông cùng vạn vật giúp chủ thể
có được cảm giác an nhiên tự tại bằng sự hoà nhập tiểu ngã và đại ngã, thì ở đoạn


thơ sau, mạch thơ trở thành khắc khoải” (Nguyễn Thị Thúy Hạnh). Hơn bao giờ
hết, ý nghĩa của câu nói này đặt ra vấn đề muôn thủơ của nó. Phải sống thế nào cho
đúng? Sống với chính bản thân mình ra sao? Sống với mọi người xung quanh,
sống với tiền nhân và hậu thế thế nào? Người làm thơ và những ai có nhân cách

đều lo lắng gìn giữ cái phần “bản thiện” nguyên sơ và vĩnh cửu trong tâm hồn mỗi
người, những vẻ đẹp làm chốn nương náu cho cuộc đời. Bài thơ là triết lí về lương
tâm mỗi con người: đó là thứ khó nhìn thấy, khó đoán nhưng tác giả vẫn mong con
người sẽ đẹp hơn, tốt hơn lên. Những thói đời gian manh, phàm tục, biển lậu,
trưởng giả, đạo đức giả, vô học…sẽ bị lui đi. “Bài thơ “Hỏi” đã đạt đến tính hàm
súc cổ điển, với lối hành văn trí tuệ và chất cảm xúc đằm thắm, nhuần nhị. Hồn cốt
dân gian, nếp cảm nếp nghĩ gắn bó với truyền thống ai đọc cũng thấy thân quen
như tự những câu thơ đã nằm trong trí nhớ từ lâu” [4]

4. Nói tới cái tôi triết lí trong thơ Hữu Thỉnh, ta không thể không nói đến biểu
tượng trong thơ ông. Dường như ở đâu, tác giả cũng muốn xây dựng các biểu
tượng như sự khái quát cuộc sống, từ đó đưa ra những phân tích lí giải.
TrongThương lượng với thời gian, ông xây dựng hàng cây như biểu tượng cho
chính tác giả nói riêng và con người nói chung. Tác giả đã nhìn rõ vào bản thân,
thấy cả một đời người quay cuồng trong trí khôn, tiền bạc và công danh mà quên đi
bản thân. Bài thơ cất lên nỗi buồn chua chát và bất lực của một đời người, không
được là mình, chưa thực sự là mình sau biết bao năm tháng, dù “buổi tối” của cuộc
đời đã buông xuống. Hữu Thỉnh viết bài thơ này khi đã qua tuổi 60, đã có sự chiêm
nghiệm, từng trải cuộc đời. Những câu thơ đầy “ý tại ngôn ngoại” còn có thể hiểu:
“buổi sáng”, “buổi chiều”, “buổi tối” là những khoảng thời gian của đời người. Trẻ
lo kiếm sống, trung niên tìm công danh, già thì “mài rũa trí khôn”. Nhan đề bài thơ
cũng là điều đặc biệt. Nhiều bài khác, nhan đề chỉ là sự tóm gọn ý toàn bài
nhưng“Thương lượng với thời gian”, tự bản thân nó là một cá thể vừa độc lập với
bài thơ vừa soi rõ ý thơ, vừa bắt người đọc suy nghĩ, đặt câu hỏi: làm sao có thể
thương lượng được với thời gian?

Cái tôi khái quát ấy ta còn được gặp trong bài Sang thu. Một bài thơ tưởng chỉ tả
thiên nhiên song hóa ra nó hàm chứa ý nghĩa triết lí sâu sắc. Trong khổ cuối, tác



giả đã xây dựng hình ảnh hàng cây đứng tuổi như biểu tượng cho những người đã
trưởng thành, chín chắn, từng trải. Lại một lần nữa ta thấy hình ảnh hàng cây với
biểu tượng cho con người trong thơ ông:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng ấy, mưa ấy, sấm ấy là vất vả lo toan của của cuộc đời, là những biến động bất
thường của ngoại cảnh nhưng với con người từng trải thì họ đón nhận những thử
thách ấy một cách bình tĩnh, vững vàng. Hai dòng thơ vẫn tả cái bước đi êm nhẹ
của thiên nhiên, nhưng lại gợi suy nghĩ về con người. Đó là một khúc sang thu vừa
thơ mộng, vừa bâng khuâng gợi vẻ triết lí.

Cái tôi khái quát không chỉ thể hiện ở hình ảnh hàng cây mà còn xuất hiện trong
nhiều hình ảnh khác, như con đường, dòng nước, ngọn cỏ,…Trong đó tiêu biểu là
hình ảnh con đường. Con đường cũng mang ý nghĩa biểu tượng. TrongThư mùa
đông, đó là đường đời của một cá nhân đi tìm tri âm tri kỉ, tìm cái đẹp và cái thiện
như mơ ước. Con đường ấy mang tính ước lệ rõ rệt.

Về cấu tứ thơ, Hữu Thỉnh thường chọn ý thơ từ những sự vật rất đơn giản, cụ thể
nhưng là sự vật được chọn lọc, có ý nghĩa biểu tượng như cái cây, ngọn cỏ, dòng
nước. Từ đấy, tác giả khái quát hóa thành những triết lí sâu xa. Kết thúc bài thơ bao


giờ cũng lắng đọng trong một câu hỏi lớn mà ông dành cho người đọc. Đây là

những kiểu cấu tứ dễ tạo nên độ sâu và sức gợi của ý nghĩa, hình tượng. Ví dụ như
ở bài “Sang thu”, chúng ta gặp không gian làng quê với những yếu tố mang đậm
màu sắc của hồn quê đồng bằng trung du Bắc Bộ. Song từ sự biến chuyển của thiên
nhiên, tác giả lại đang ngụ ý nói tới biến chuyển của đời người, hình ảnh “hàng cây
đứng tuổi” kết lại bài thơ giống như cái chốt cửa để ta mở sang một thế giới khácsự sang thu của hồn người. Vẻ điềm tĩnh, chín chắn của cây trước sấm sét bão dông
hay đó chính là sự từng trải của con người sau những bão táp của cuộc đời?

Có thể thấy, cái tôi triết lí trong thơ Hữu Thỉnh tinh tế về cảm nhận. Ông xây dựng
cái tôi với bút pháp riêng, bao giờ cũng để cái tôi được sống thật, gắn với những
cảm giác thật. Một trong những tiềm năng của hồn thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm
với trực giác. Hữu Thỉnh có nhiều câu thơ bộc lộ bản tính thi sĩ dồi dào và rất tinh
tế về cảm giác:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se…

(Sang thu)

Trong“Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Nguyễn Đăng Điệp còn chú ý đến
tính triết lí và sự đan xen của yếu tố thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh. Ông cho
rằng: “Triết lí trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát từ những chi tiết rất nhỏ
nhoi, bình dị”, và nó “được nảy sinh từ những suy ngẫm không ngừng về lẽ sống,
về cách xử thế, về quan hệ người, về cái cao cả mong manh đang bị bủa vây bởi
cái thấp hèn, hung bạo…” [3] . Thơ ông không phải là thứ văn chương phòng ốc
mà là chuyện cuộc đời sinh sắc sống động. Thơ Hữu Thỉnh thấm đẫm sắc vị dân
gian, giọng điệu trữ tình hồn hậu.


Ngôn ngữ với phong cách riêng cũng góp phần xây dựng nên cái tôi triết lí của

Hữu Thỉnh. Ông tiếp thu cả những tinh hoa ca dao tục ngữ truyền thống và cả cách
chắc lọc dồn nén của thơ Đường. Rõ ràng, ông đi sâu, phát huy thế mạnh của bút
pháp truyền thống; đồng thời có sự trăn trở, tìm tòi, cách tân. Đầu tiên, ngôn ngữ
thơ Hữu Thỉnh vận dụng một cách nhuần nhuyễn những nét tinh túy nghệ thuật từ
những câu tục ngữ, ca dao trong thơ mình. Vẫn là những câu thơ mang “hồn vía”
ca dao, tục ngữ dân gian nhưng khi lọc qua tư duy của Hữu Thỉnh thì nó bỗng đẹp
lên một cách lung linh và mới mẻ như vừa được phát hiện lần dần. Thứ hai, thơ
Hữu Thỉnh học tập cái chắt lọc, dồn nén của Đường thi và tỏ ra kiệm lời hơn về
mặt ngôn từ để tạo cho người đọc một tâm thế tiếp cận thâm trầm, hướng nội theo
thi pháp phương Đông. Từ ngữ trong thơ ông lúc nào cũng dân dã, đời thường song
lại mang hàm ý. Đó là do tác giả sử dụng nhiều biện pháp so sánh ẩn dụ và nhân
hóa. Ví dụ trong tập thơ Thư mùa đông, tác giả sử dụng chủ yếu phương thức ẩn dụ
để miêu tả cái nhìn về cuộc sống. Ở đó, ta thấy nổi lên thế giới nội tâm của con
người thông qua ngoại cảnh. Bên cạnh đó, có một đặc điểm khá quan trọng khác về
phương thức ẩn dụ trong thơ Hữu Thỉnh. Đó là sự góp mặt của các điển cố. Thơ
Hữu Thỉnh chứa khá nhiều điển cố. Điều đặc biệt là những điển cố mà thơ ông gợi
ra không hề có tính bác học mà đậm chất dân dã, lấy từ ca dao, tục ngữ, cổ tích của
dân tộc”

Về giọng điệu thơ, ta thấy Hữu Thỉnh mang đến cho thi đàn một giọng điệu riêng.
Nó lúc nào cũng nhẹ nhàng trầm lắng, dù có nói về điều vui hay buồn. Ít khi ta gặp
giọng sôi nổi, hào hùng như trong thơ Xuân Diệu hay thơ Phạm Tiến Duật. Nếu
Xuân Diệu luôn muốn đem lại giọng điệu thiết tha, mãnh liệt, thậm chí mới mẻ, táo
bạo thì Hữu Thỉnh dân dã đằm thắm mượt mà và thủ thỉ như quê mùa làm cho
người đọc được cảm nhận ít khi phải qua khâu nghĩ ngợi. Nếu Xuân Diệu hát bè
cao thì Hữu Thỉnh hát bè trầm. Cái chất ru vỗ, ngọt ngào cũng không phải là đặc
trưng trong thơ ông mà thay vào đó là chất giọng ưu tư, chua chát đau đời. Cái
nhìn của nhà thơ mang tính hướng nội rất sâu với nỗi đau cho những bể dâu cuộc
đời. Nó được nói đến một cách riết róng qua góc nhìn đời tư và trở nên thường trực
trong hồn thơ Hữu Thỉnh như một ám ảnh, trở thành chiều sâu và nét riêng trong



cái nhìn nghệ thuật của Hữu Thỉnh. Và trong cái trầm lắng đó, người ta bắt gặp
cảm xúc đau đớn, xót xa của một hồn thơ ưa triết lý về hiện thực đời sống.

5. Hữu Thỉnh đã để lại trong thơ mình một cái tôi triết lí rất riêng, không trộn lẫn
trên thi đàn. Trong tất cả chiều hướng của các nỗi niềm thế sự, Hữu Thỉnh đã xây
dựng cái tôi triết lí sâu sắc ấy trở thành một đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ
mình. Đó là cái tôi vừa truy vấn chính bản thân vừa truy vấn xã hội. Nó có mối
quan tâm đặc biệt đến thân phận con người và luôn thiên về khái quát, nâng vấn đề
lên tầm triết lí. Hữu Thỉnh luôn hướng đến cuộc đời, và mỗi bài thơ ông là một
cảm niệm, một suy tư về thế thái nhân tình. Cái tôi triết lí trong thơ ông trở thành
những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện lên trong quầng sáng sử
thi mà trong chính cuộc sống thô ráp thường ngày. Đôi lúc, con người tâm sự, đối
thoại đã gần như tuyệt vọng trong việc kiếm tìm tri âm, tri kỉ và dần chuyển sang
dạng thức con người cô đơn. Để thể hiện cái tôi triết lí ấy, tác giả đã sử dụng bút
pháp nghệ thuật riêng, như ưa sự khái quát, ngôn ngữ giản dị mà giàu hàm ý, giọng
điệu nghiêng về phía trầm lắng,…Quả thực, bằng cái tôi triết lí, nhà thơ đã dâng
tặng bạn đọc những cảm xúc đặc biệt, những nhận thức mới mẻ về thế giới tâm
hồn con người ẩn chứa bao điều bất ngờ thú vị. Trần Mạnh Hảo đã ghi nhận: “Hữu
Thỉnh còn đưa thơ về phía chiều sâu của tạo vật, của lòng người, những câu thơ
đụng tới đáy hư vô của thi ca…”.



×