Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Khi người viết văn không xem.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.57 KB, 9 trang )

Khi người viết văn
Không xem cầm bút là một nghề nghiệp
Vương Trí Nhàn
Từ sau 1945, một kiểu người viết văn đã hình thành với chỗ mạnh chỗ
yếu của họ. Bài viết không có tham vọng trình bày vấn đề một cách toàn diện, mà
chỉ đi vào một số khía cạnh:
- Nên nghĩ sao để đưa công việc viết văn thành một hoạt động nghề nghiệp thực
thụ.
- Nên lo sao để trau dồi bản lĩnh người viết và hình thành nên những trí thức có
cốt cách vững vàng.
- Nên đánh giá sao để mức độ quan liêu hoá, từ đó dần tìm cách giải thoát khỏi
căn bệnh ác độc đó.

I
Theo nhiều người kể lại, trước Cách mạng nhà văn Nguyễn Tuân có lần bị
ra toà. Khi người ta hỏi ông nghề nghiệp gì, ông trả lời viết văn thì viên thư lại
liền ghi: vô nghề nghiệp. Mẩu giai thoại này thường được dẫn ra để ngụ ý là
trước Cách mạng, nghề viết văn rất bị xem thường. Nhưng theo chúng tôi tìm
hiểu thì mặc dù bị thành kiến như vậy, bấy giờ viết văn đã là một nghề với nghĩa:
a. Có những người coi viết văn như một công việc làm đều đều để kiếm sống
mình và vợ con mình bằng chính nghề đó, không cần một thứ phụ cấp nào khác.
b. Trình độ nghề nghiệp của người viết khá ổn định. Ai chỉ có năng khiếu mà
không hết lòng với nghề, sớm bị đào thải. Ngược lại những người theo đuổi nghề
nhiều năm là những người chuyên sâu, có trình độ tay nghề cao.
Khi tôi hỏi nhà văn Tô Hoài trước Cách mạng trong vòng có mấy năm 1941,
1942, 1943, 1944… sao ông viết được nhiều thế, ông thường trả lời đại ý: Tình
hình làm nghề lúc ấy nó đòi hỏi như vậy. Không có mặt hàng riêng anh không
sống được (mặt hàng riêng, ở đây ý nói đề tài riêng, phong cách riêng). Có mặt
hàng riêng rồi, lại phải viết đều, viết khoẻ nữa. Có điều lạ là đến bây giờ đọc lại
nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài lúc ấy, những tác phẩm
mà đôi khi các ông kể là phải viết vội để mang bán lấy tiền khi vợ đau, con ốm


v.v… còn thấy có giá trị, điều đó chỉ chứng tỏ ngòi bút của các ông đã đạt đến độ
chín cần thiết. Mặc dù nước ta bấy giờ là một nước thuộc địa, nhưng những ảnh
hưởng của thế giới vẫn dội vào đều đều và văn học ta từ 1925 đến 1945 đã trải
qua những giai đoạn phát triển tiêu biểu thường thấy ở nhiều nền văn học khác.
Từ sau Cách mạng, khi nói về nghề viết văn, chúng ta thường hay nói đây là
một công tác cách mạng mà không xem như một nghề kiếm sống. Đại khái thấy
có ai có năng khiếu viết lách một chút là các cơ quan báo chí xuất bản liền kéo
về làm các công việc kề cận với sáng tác, như phóng viên, biên tập viên. Rồi dần
dần, trong những trường hợp đặc cách mà ở lớp người trên 40 này mới có một
vài người được hưởng, còn chủ yếu giành cho các ngòi bút cao niên, tách ra
thành sáng tác chuyên nghiệp, không phải làm gì mà vẫn được hưởng đều đều,
lên lương đều đều, việc xếp lương và lên lương này dựa vào thâm niên tham gia
cách mạng chứ không phải chất lượng sáng tác. Còn nhuận bút chỉ là chuyện
phụ, thêm thắt vào cho đỡ tủi, cả người trả lẫn người nhận đều hiểu không ai
sống bằng nhuận bút, thôi Nhà nước đã quy định vậy, thì ta cũng theo vậy. Nói
gọn lại là đến nay chúng ta chỉ có những cán bộ viết văn chứ không có những
người viết văn sống bằng nghề nghiệp của mình và về căn bản, Hội của chúng ta
là một thứ hội của phong trào chứ không phải hội của những cây bút chuyên
nghiệp. Phong trào có cái cần của nó (và đây là điều mà những ai mới vào nghề
thường được răn dạy: hãy nhớ mình từ phong trào mà trưởng thành lên, không
được tách rời cơ sở v.v… và v.v…). Nhưng đã đến lúc nên nói với nhau rằng
đánh giá văn học một nước không bao giờ người ta dừng ở phong trào mà phải
xem trình độ chuyên nghiệp hoá đến đâu, tức là xem cách đào tạo những cây bút
tiêu biểu sống cả đời bằng nghề viết và trình độ những cây bút tiêu biểu đó so
với các thời đại trước và so với trình độ ở các nước khác. Thử nhìn lại tình hình
Hội ta ở chỗ này thấy có nhiều điểm đáng lo ngại. Hàng năm, rồi vài năm một
lần, Hội lại kiểm điểm xem đã phát hiện được bao nhiêu cây bút mới, đã giúp
cho phong trào tỉnh nọ tỉnh kia ra sao. Còn số phận các cây bút hôm qua đã phát
hiện đó như thế nào, họ có khả năng trở thành những nhà văn chững chạc không
thì không cần biết. Do đẻ giỏi mà nuôi kém, đẻ tràn lan, cốt lấy thành tích, mà

không chú trọng bồi dưỡng tiếp tục, không mở ra con đường chọn lọc tự nhiên
thông qua đào thải nên đã nảy sinh những hiện tượng rất lạ, trong không khí cởi
mở hiện nay nên cho phép nói là những hiện tượng kỳ cục, quái gở. Có những
người chỉ ngẫu nhiên có được một số sáng tác đột xuất cũng được chuyên nghiệp
hoá, rồi sau cứ lẽo đẽo theo đuổi mãi với nghề, song không bao giờ viết được cái
gì khá hơn những cái ban đầu kia nữa. Hoặc có những người có năng khiếu, phải
nói là rất có năng khiếu nữa, giá ở trong một hoàn cảnh tốt, có thể trở thành một
cây bút làm nghề thuần thục, đằng này ngược lại, sau một hai tác phẩm đầu, sinh
ta lười lĩnh, làm dối làm ẩu, sống bằng cái uy danh sẵn có của tác phẩm đầu tay
mà không biết rằng nhà văn là kẻ đời đời khởi nghiệp, cuộc đời người viết chỉ có
nghĩa ở chỗ luôn luôn là những cuộc làm lại từ đầu. Do không có cạnh tranh,
cũng như không có sự bắt buộc nhà văn để anh ta luôn luôn làm mới mình, chinh
phục lại độc giả… nên số người viết khoẻ, đều tay, cái sau hơn cái trước, số đó
rất nhiều. Một người như nhà văn Tô Hoài thường dặn dò một số anh em viết
phê bình như chúng tôi là nên nhớ cái nghiệp nhà văn An Nam ta nó mỏng lắm.
Khó tìm được thấy người viết quyển nào cũng hay. Đã có những người tuyên bố
viết những bộ sách vài ba tập, nhưng thường thường là chỉ được tập đầu, còn các
tập sau chả ra gì. Thậm chí, trong một cuốn sách cũng có hiện tượng xôi đỗ,
chương được, chương không. Chúng tôi rất đồng tình với nhận xét trên đây của
Tô Hoài. Nhắc lại ý kiến đó của ông, chúng tôi chỉ muốn lưu ý rằng đấy chẳng
phải là một điều hay ho gì. Hơn nữa, phải thấy đấy là một điều đáng xấu hổ,
không phải cho riêng ai, mà cho cả phong trào, và cái hướng phấn đấu là phải có
được những cây bút vững vàng viết đều viết khoẻ, luôn luôn trên đường hoàn
thiện sự nghiệp của mình để trở thành những tên tuổi làm vẻ vang cho nhân dân,
cho đất nước. Lại cũng rất đáng báo động là trình độ nghề nghiệp của chúng ta
hiện nay rất thấp. Đã đành viết văn là công việc của tâm huyết, của tư tưởng,
nhưng trong nghề vẫn có những cái thuộc về kỹ thuật viết, những biểu hiện cụ
thể của tư duy nghệ thuật, nó là dấu hiệu khiến cho đọc văn của thế kỷ này thấy
khác hẳn với văn của thế kỷ khác. Với những ai không cho rằng có kỹ thuật viết
văn, chúng tôi xin phép dừng lại ở đây, vì tranh luận về việc đó đòi hỏi rất nhiều

giấy mực. Riêng với những ai công nhận là có kỹ thuật viết, tôi nghĩ các bạn đó
cũng dễ nhận ra là kỹ thuật viết của chúng ta hiện nay – đặc biệt là trong văn
xuôi – rất cổ lỗ; cũng như hội hoạ, văn học ta hoàn toàn đứng ngoài mà không
dây dưa gì đến những trào lưu chung của thế giới trong cái thế kỷ chúng ta đang
sống. Khắc phục sự lạc hậu ấy trong hành nghề phải có thời gian, phải có chuẩn
bị, nhưng nên nhớ đó là một trong những việc phải làm để đưa việc viết văn trở
nên nghề nghiệp thực thụ. Và suy cho cùng, việc đào tạo những cây bút làm nghề
thực thụ là cách tốt nhất để củng cố cái phong trào mà chúng ta từng dày công lo
liệu. Từ các cây bút có trình độ hành nghề hiện đại, chúng ta mới có cơ hình
thành những tài năng có tầm cỡ, những nhà văn đi ra thế giới bằng sáng tác của
mình chứ không phải chỉ được đón tiếp như một nhà văn Việt Nam nói chung,
điều mà Nguyễn Minh Châu từng than tiếc và những ai có lương tâm đều thấy
đúng.

II
Từ những người viết có năng khiếu tới những người viết sống bằng nghề, có
tay nghề hiện đại, đã có một nấc thang; từ những người làm nghề thành thạo lo
sao hình thành nên những người có cốt cách trí thức, biết suy nghĩ và trả lời cho
những lo toan chung của dân tộc, của đất nước, đấy lại là một nấc thang cao hơn,
khó hơn. Do đức tính khiêm tốn đã ăn vào máu chúng ta (một thứ khiêm tốn
đồng nghĩa với cầu an, sợ sệt, không dám chịu trách nhiệm, cốt sống yên thân
qua ngày), giới cầm bút thường lảng tránh câu chuyện này, cho là trình độ ta còn
thấp, không nên làm. Nhưng lảng mãi không được, cho nên xin phép khơi gợi
lên ở đây và mong được hưởng ứng với nghĩa: bàn đi, bàn đi, rồi may ra có lúc
chúng ta có thể làm, chứ không bao giờ bàn thì chắc chắn không bao giờ làm nổi.
Đọc lịch sử văn học một nước có nhiều duyên nợ với ta như nước Pháp, hẳn
mọi người đều biết rằng ở đây, thời đại nào cũng hình thành nên những nhà văn
đồng thời là những trí thức lớn của đất nước, những người viết văn không có
chức vụ gì trong chính quyền, nhưng luôn luôn là những tiếng nói mạnh mẽ tham
gia vào các việc lớn trong xã hội. Từ V. Hugo trở đi qua R. Rolland, A. France,

H. Barbusse đến A. Gide và J.P. Sartre, A. Camus và L. Aragon … các nhà văn
ấy đồng thời là những trí thức lớn. Cốt cách trí thức toát ra qua tác phẩm của họ,
ở đó có cả truyền thống lâu dài mà nền văn hoá Pháp đã thu góp được, cốt cách
trí thức đó lại cô kết trong con người của họ, bộc lộ ra qua cách ứng xử của họ.
Nhắc đến tên tuổi các nhà văn ấy có nghĩa là nhắc đến một quyền lực, một uy tín.
Đây cũng là chỉ số đánh dấu sự phát triển rất cao của một nền văn học, cái trình
độ mà, ví dụ như, khi nhìn lại văn học Việt Nam trước Cách mạng, chúng ta thấy
là chưa đạt tới. Theo chúng tôi hiểu, trước Cách mạng 1945 giới viết văn ở nước
ta mới chỉ có những người hành nghề giỏi mà chưa có những trí thức với nghĩa
tốt đẹp nhất của chữ ấy: những giá trị tinh thần mà đến nhà nước cũng phải vì nể.
Thế còn vai trò người viết văn trong xã hội ta từ sau Cách mạng tháng Tám?
Đây là một vấn đề lớn, liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của trí thức
Cách mạng nói chung. Trong phạm vi hiểu biết còn hạn chế, chúng tôi chỉ muốn
nói một số điều liên quan đến sự định hướng mà lớp người viết trẻ từ hồi chống
Mỹ hay được nhắc nhở, ý chúng muốn nói tới kiểu nhà văn mà bọn tôi được
giáo dục là phải cố mà noi theo.
Đối tượng phục vụ của nền văn học mới là nhân dân lao động. Bản thân
những người cầm bút trẻ phần lớn là con em của nhân dân lao động trưởng thành
lên. Hơn bốn mươi năm qua, đất nước lại luôn luôn bận rộn. Do hoàn cảnh thúc
bách, tận trong tâm khảm mọi người viết, bao giờ cũng khắc khoải một điều:
phục vụ trước đã, tìm tòi làm chi vội, gắng viết làm sao để những người mới
thoát nạn mù chữ cũng hiểu, thế là quý rồi. Bấy nhiêu lời dặn dò, điều tâm sự…
là những yếu tố tạo nên cả một khí hậu văn học, nếu có thể nói như vậy. Chúng
ta thường chỉ mới lưu ý tới ảnh hưởng của những điều kiện đó tới kết quả về mặt
sáng tác. Rằng văn học ta sau 1945 mới chỉ có những tác phẩm lành mạnh phản
ánh một cách khiêm tốn những biến chuyển của cách mạng. Rằng các nhà văn
còn cần làm việc nhiều mới dần dần có được những tác phẩm tương ứng với tầm
vóc của lịch sử v.v…. và v.v… Tất cả những cái đó đều đúng, nhưng còn nhiều
hệ luỵ khác, nhất là những hệ luỵ cô kết thành nếp sống nếp nghĩ, cái đó mới
đáng lo. Chẳng hạn, việc miêu tả đời sống một cách thô thiển (chỉ dừng lại ở

mức miêu tả mà không đào sâu vào làm nổi bật ý nghĩa đời sống) ban đầu là một
thực tế phải chấp nhận, sau trở thành một thứ khuôn thước, không ai nghĩ là nên
làm khác. “Ở nước Việt Nam hôm nay, trẻ con làm văn nghị, người lớn làm văn
miêu tả” - đấy là một câu tổng kết, mà ngẫm ra thấy đúng và do đó, thấy rất đau
xót. Trong một bài báo viết trước khi mất, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận xét:
“Một thời gian có lẽ cũng khá dài, hoặc ngay cả bây giờ, trong xã hội ta có một
thứ quan niệm: làm nhà văn chỉ cần viết câu cho gãy gọn, đúng văn phạm, khéo
hơn một chút nữa là viết cho dí dỏm…”. Ý ông muốn nói do quan niệm như thế,
nên không bao giờ lớp nhà văn trẻ trưởng thành nổi. Nếu được gọi sự vật bằng
tên của nó, thì theo chúng tôi, quan niệm mà Nguyễn Minh Châu chỉ trích ở đây
là quan niệm tước đi cốt cách trí thức ở nhà văn. Viết văn chỉ là một hành động
tự phát, thấy đời đẹp thì ngứa cổ hót chơi. Mà ở thời đại này lịch sử đã quá nhiều
kỳ tích, trong nhân dân đã quá nhiều mẫu người đẹp, hào hùng, nên nhà văn
không cần suy nghĩ gì thêm, cứ ghi chép về họ cũng đủ. Một quan niệm như thế
đẻ ra kiểu nhà văn có tính chất nghệ nhân, hoặc ca ngợi hoặc than vãn (khi thấy
có một số mặt tiêu cực như hiện nay thì than vãn) mà không bao giờ hiểu bản
chất đời sống. Đó là loại nhà văn giống như xẩm chợ, thiên về nói leo, phát biểu
một thứ phản xạ tức thời và nông nổi trước đời sống hơn là chiêm nghiệm suy
nghĩ thành thế giới nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Xẩm thì cũng cần, chắc
có người nói thế, được công nhận là xẩm tức cũng phải có năng khiếu, có lao
động, và như thế là được rồi! Nhưng ở thời đại nào cũng vậy, điều mà đất nước
và nhân dân đòi hỏi là những nghệ sĩ hành nghề một cách tự giác. Ở những nghệ
sĩ này, bên cạnh năng khiếu còn cần nhiều phẩm chất khác: trình độ văn hoá (văn
hoá theo nghĩa rộng, chứ không phải bằng cấp của người đi học), khả năng vừa
đi vào đời sống vừa đơn độc suy nghĩ, thậm chí không ngại dấn thân vào những
khu vực thoạt nhìn tưởng là trừu tượng siêu hình, nhưng nằm trong bản chất của
sự sống, những điều hình như không dây dưa gì đến đời thường, nhưng một lúc
nào đó, những người bình thường lại rất cần. Tóm lại cần tạo ra những nhân cách
lớn, mà phần vốn liếng tinh thần bao gồm cả quan sát thể nghiệm lẫn kiến thức
do sách vở mang lại, từ đó có thói quen sống làm việc của một trí thức. Chỉ

những người như thế mới có khả năng vừa nói một cách đầy đủ về đời sống, vừa
nâng người đọc lên tầm tư duy mới. Đó cũng là những người dám lên tiếng về
các vấn đề lớn lao của nhân dân đất nước và khi cần, lấy uy tín danh dự của mình
ra, bảo đảm cho điều mình nói. Cái cốt cách trí thức ấy cũng chính là tiền đề gốc,
để tạo ra những giá trị có tính chất nhân bản sâu sắc.
Thiếu lý tưởng nghề nghiệp, thiếu cốt cách trí thức, đây có phải căn bệnh có
thật của những người viết văn hôm nay không, thậm chí nếu có thì nên gọi là
bệnh hay là quan điểm thực tiễn cần thiết, một điểm đáng tự hào, xin các bạn
đồng nghiệp cùng bàn. Phần chúng tôi, xin thú thực là trước khi nêu ý kiến này,
đã phải phân vân rất nhiều, cầm bút viết ra mà cứ cảm thấy ngần ngại. Đúng là
khi đã vào sâu nghề nghiệp, trong thâm tâm nhiều người cũng thấy phải phấn
đấu để tạo ra cốt cách cho ngòi bút của mình, học thêm, trau dồi bản lĩnh thêm.
Tự đào luyện thành một trí thức chân chính, cái điều ấy càng ngày càng hiện lên
như một mơ ước. Có điều trong những ngày gạo châu củi quế, văn hoá tiêu dùng
tràn lan này, cái chuyện đó xa vời quá, bàn tới không được, nói ra e thành
chuyện lạc lõng. Nhưng có cái lạ ở những người viết văn là những nét tâm lý
đáng sợ sau đây: khi không thể làm, thì coi là việc không cần làm. Và nếu mình
không làm được mà người khác có ý muốn làm thì ra công khích bác, chế giễu.
“Thời buổi này còn nói chuyện trí thức ư? Cũ rồi, lỗi thời rồi! Lại muốn chơi trội

×