Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀI TIỂU LUẬN Giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh em ở khu 3, phường Đại Phúc năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.64 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

Nội dung
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn tình huống…………………………..
2. Mục đích nghiên cứu……………. ……………..
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ………………...
4. Kêt cấu của tiểu luận…………………………….
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………
1.MÔ TẢ TÌNH HUỐNG………………………….
1.1 Tên và hoàn cảnh xảy ra tình huống………….
1.2 Diễn biến của tình huống………………………
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG…………………...
2.1 Mục tiêu phân tích tình huống………………...
2.2 Cơ sở lý luận đảm bảo yêu cầu xử lý tình huống

Trang
2


2
3
4
4
4
4
4
5
9
9

13.
14.
15.
16.
17.

hiệu quả……………………………….…….
2.3 Phân tích diễn biến của tình huống…………...
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG……………………….…
3.1 Mục tiêu xử lý tình huống………………….….
3.2 Xây dựng và đề xuất phương án xử lý tối ưu…
3.3 Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án….……

9
10
13
13
14
15


18.
29.

3.4 Kiến nghị……………….……………………….
KẾT LUẬN…………………………………………

15
17

ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn tình huống.
Đất đai là tài nguyên đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường, người ta coi
đất đai là hàng hoá đặc biệt. Câu nói “tấc đất, tấc vàng” nói lên sự quý giá ở
tầm mức cao nhất của đất đai thực ra cũng không đủ. Nếu nói dưới góc độ giá
trị lịch sử - xã hội : “mỗi tấc đất đều nhuốm máu cha ông”; đất đai là “giang

1


sơn gấm vóc” thì sự thiêng liêng, quý giá ấy khó lấy thước đo nào mà định
giá.
Trong quá trình vận động của xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị trường,
nhiều vấn đề bức xúc xảy ra hàng ngày. Trong đó đứng đầu là vấn đề tranh
chấp đất đai. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là dân không có thói quen cắm
cột mốc, quá trình sử dụng bị sai lệch hoặc chuyển nhượng, tặng cho không
làm đầy đủ các thủ tục cần thiết, hợp lệ. Hệ thống hồ sơ địa chính, đặc biệt là
bản đồ địa chính chính quy chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thống nhất, độ chính
xác và tin cậy không cao nên gây ra những khó khăn rất lớn cho các cấp chính
quyền địa phương trong thực thi thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp

luật, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Nhiều vấn đề lịch sử để lại chưa được giải quyết
dứt điểm và kịp thời như việc xác định nguồn gốc, mốc giới, thời hạn, mục
đích, quy chủ sử dụng đất đã nảy sinh nhiều bức xúc. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, các cơ quan chức năng gặp không ít khó khăn khi tìm chứng
cứ để xác định tính khách quan của vụ việc, thậm chí có nhiều trường hợp
phải suy đoán theo lập luận của các bên. Từ đó, xảy ra nhiều tình trạng khiếu
kiện vượt cấp, kéo dài, thưa gửi nhiều nơi và qua nhiều cấp giải quyết mà các
bên vẫn khiếu nại.
Giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai là một trong những chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước, là một trong những nội dung của công tác quản lý
Nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai. Thực hiện tốt nội
dung này không những góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản
lý nhà nước về đất đai, mà còn góp phần đáng kể trong việc giữ gìn ổn định
sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, hàn gắn tình đoàn kết trong nội bộ nhân
dân, giữ gìn an ninh, trật tự và ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng có thể xảy ra, đảm bảo trật tự xã hội cũng như củng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong những năm qua, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên lĩnh
vực đất đai đã có nhiều chuyển biến tích cực, giải quyết được một khối lượng
2


lớn vụ việc, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững an ninh, trật tự xã
hội. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại có liên quan đến đất đai hiện
nay vẫn còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội. Đây là một vấn đề nhức nhối đang được Đảng và
Nhà nước, xã hội rất quan tâm.
Việc nhận thức và vận dụng pháp luật không đúng, không thống nhất,
thậm chí sai phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo nhiều, công tác quản lý nhà nước
các cấp phải tập trung quá nhiều lực lượng, kinh phí để giải quyết khiếu nại, tố

cáo của công dân, gây tốn kém, mất thời gian. Có sự việc nhỏ chỉ cần giải
quyết ở cấp cơ sở là xong, nhưng thực tế việc hiểu biết và vận dụng pháp luật
của một số cán bộ còn chưa đúng, chưa phù hợp đã làm cho sự việc phức tạp
thêm, kéo dài thời gian, tạo ra nhiều dư luận không tốt trong quần chúng nhân
dân.
Sau khoá học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước, chương trình
chuyên viên khoá 1 - năm 2018 tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh
Bắc Ninh, tôi được trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước. Với
những kiến thức đó tiếp thu được qua học tập tại trường, tôi trình bày cách
giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai qua tình huống: "Giải quyết tranh
chấp đất đai giữa anh em ở khu 3, phường Đại Phúc năm 2017", làm đề tài
tiểu luận cuối khoá.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Xử lý tình huống nhằm giải quyết những mâu thuẫn, những bất cập, bất
thường phát sinh trong cuộc sống, góp phần ổn định đời sống, giữ vững trật tự
trị an trong khu phố ở phường Đại Phúc, nhằm tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trước tình hình thực tiễn đặt
ra. Mặt khác, học viên chọn xử lý tình huống là sự rèn khả năng vận dụng kiến
thức quản lý nhà nước vào thực tiễn cuộc sống làm cho đời sống xã hội ổn
định, phát triển.

3


- Muốn đạt được mục đích đó, tiến hành bài tập đúng quy trình, phân tích
đúng thực trạng, diễn biến tình huống và xây dựng được các phương án, đề
xuất biện pháp tối ưu phù hợp, khoa học. Nó là cơ sở nâng cao hiệu quả công
tác trong thực tiễn cho học viên khi kết thúc chương trình Bồi dưỡng kiến thức
Quản lý nhà nước chương trình chuyên viên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Nghiên cứu xử lý tình huống: " Giải quyết tranh chấp đất đai giữa
anh em ở khu 3, phường Đại Phúc năm 2017",
- Phạm vi nghiên cứu : Toàn bộ diễn biến khiếu nại của chủ thể là anh em
trong gia đình tranh chấp đất do bố mẹ để lại.
4. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài đặt vấn đề, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung giải quyết vấn đề gồm 3 phần:
1. Mô tả tình huống
2. Phân tích tình huống
3. Xây dựng các phương án xử lý tình huống
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1. Tên và hoàn cảnh xảy ra tình huống.
Tháng 1 năm 2017, UBND phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh nhận
được đơn xin giải quyết tranh chấp đất đai của ông Nguyễn Văn Du tại khu 3,
phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Nội dung đơn trình bày đề nghị giải
quyết về việc xây nhà và chiếm dụng nhà, đất bất hợp pháp của ông Nguyễn
Văn Dương. Do mâu thuẫn trong anh em không giải quyết được dẫn đến vụ
việc tranh chấp nói trên.
Ông Du trình bày, năm 1968 ông, bà nội cùng bố mẹ ông Dương, ông Du
cho ông Du một mảnh đất để xây dựng gia đình, có đất làm nhà, diện tích
khoảng 300 m2. Năm 1974 vợ chồng ông Du tiến hành xây dựng gia đình và
4


đến năm 1978 vợ chồng ông xây dựng một căn nhà cấp 4 và xây dựng công
trình phụ trên diện tích đất này.
Năm 1989 do kinh tế khó khăn ông Du vào miền Nam làm ăn kinh tế,
trước khi đi vợ chồng ông có nhờ mẹ đẻ và anh trai là ông Nguyễn Văn
Dương trông coi nhà đất giúp vợ chồng ông. Từ khi đi làm ăn trong miền Nam

hàng năm mỗi dịp tết đến ông vẫn về nhà thăm mẹ và ở lại nhà một thời gian
rồi lại tiếp tục vào trong Nam, từ năm 2007 – 2010 do kinh tế gia đình gặp
nhiều khó khăn nên ông ít về quê.
Đến năm 2011 gia đình ông Du về quê thì phát hiện anh trai là ông
Nguyễn Văn Dương đã xây dựng 01 căn nhà 2 tầng trên đất của ông. Từ khi
biết được anh trai xây dựng căn nhà và chiếm dụng đất, xây nhà trên diện tích
đất của ông, ông đã nhiều lần nhờ dòng họ vào cuộc để hòa giải nhưng không
thành.
Từ việc làm trên các ông đã cho rằng hộ ông Dương đã sử dụng đất bất
hợp pháp trên diên tích đất của ông. Tình huống đã nảy sinh phải xử lý với tên
tình huống là " Giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh em ở khu 3, phường
Đại Phúc năm 2017"
1.2. Diễn biến của tình huống.
1.2.1 Tại UBND phường Đại Phúc.
Ngày 18/01/2017, UBND Phường Đại Phúcđã tiếp nhận đơn đề nghị của
hộ gia đình ông Nguyễn Văn Du khu 3, Phường Đại Phúc, thành phố Bắc
Ninh về việc " đề nghị giải quyết về việc xây nhà và chiếm dụng nhà, đất bất
hợp pháp của ông Nguyễn Văn Dương "
Ngày 20/1/2017 cán bộ địa chính phường căn cứ nội dung đơn đề nghị
tiến hành xuống tại hiện trạng thửa đất ông Du trình bày kiểm tra xác định có
01 ngôi nhà cấp 4 và 01 ngôi nhà đang tiến hành xây dựng. Cán bộ địa chính
đã lập biên bản yêu cầu ngừng thi công xây dựng do thửa đất đang có đơn
tranh chấp.

5


Cụ thể là thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m 2 (theo bản đồ địa
chính đo đạc năm 2012 là thửa đất số 158, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,7 m 2
thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông

Nguyễn Văn Dương và thửa đất số 157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m 2 ,
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn
Đông là con trai của ông Nguyễn Văn Dương).
Thửa đất số 157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m 2, ông Đông đã làm
nhà 3 tầng ở trên thửa đất này từ năm 2003.
Căn cứ báo cáo của cán bộ địa chính phường về số liệu trên, UBND
phường Đại Phúc đã mời các bên liên quan đến trụ sở UBND phường Đại
Phúc để hòa giải.
Tại buổi hòa giải, qua nghe ý kiến của ông Dương trình bày nguồn gốc
thửa đất trên đúng là của bà nội và bố mẹ ông Du cho ông Du, tuy nhiên khi
ông Du vào miền Nam khó khăn về kinh tế không có tiền để đi nên ông
Dương đã đưa cho tiền, vàng và một số đồ khác,… Đồng thời, các năm sau thi
thoảng ông Dương có gửi tiền vào cho ông Du, ông Dương có ghi cụ thể các
đợt gửi tiền vào cho ông Du và ông Dương cho rằng số tiền gửi về cho ông Du
được quy đổi bằng quyền sử dụng đất thửa đất 18, tờ bản đồ 3, diện tích
302,3 m2.
Buổi hòa giải không đạt được kết quả, đồng chí chủ tọa giao cho lãnh đạo
khu 3 về tiếp tục làm công tác hòa giải, đồng thời tiếp tục xác minh nội dung
đơn và các hồ sơ có liên quan đến thửa đất trên.
Theo sổ mục kê và trong đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được lưu trữ có ghi tên ông Nguyễn Văn Du. Tuy nhiên, đến năm
1998 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng loạt cho các hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn xã đã ở ổn định không tranh chấp, có nguồn gốc đất ông cha
để lại thì được cấp giấy chứng nhận. Tại thời điểm trên ông Du đã vào miền
Nam nên không biết quá trình cấp giấy chứng nhận nên thửa đất trên đã được
cấp cho ông Nguyễn Văn Dương.
6


Qua tìm hiểu của các cụ cao niên trong khu sống tại thời điểm từ năm

1974, và đồng chí nguyên cán bộ quản lý ruộng đất thời điểm đó đã xác định
ông Nguyễn Văn Du đã ở trên thửa đất 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m 2 đã
xây nhà cấp 4 và ở trên mảnh đất này một thời gian đến khoảng năm 1989.
Ngày 12/2/2017, UBND phường tiếp tục tổ chức hòa giải và đề nghị ông
Nguyễn Văn Dương làm thủ tục trả lại quyền sử dụng thửa đất số 18, tờ bản
đồ 3, diện tích 302,3 m2 cho ông Nguyễn Văn Du, với lý do là:
-

Đất được cấp không đúng đối tượng, nguồn gốc thửa đất trên là
thửa đất do bố mẹ ông Du cho ông Du

-

Số tiền gửi về cho ông Du, không được lập thành văn bản ông Du
chưa xác nhận được quy đổi bằng quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên ông Nguyễn Văn Dương không nhất trí vẫn cho rằng số tiền
gửi về cho ông Du đã được quy đổi bằng quyền sử dụng đất thửa đất thửa đất
trên. Sau nhiều lần UBND phường Đại Phúc tổ chức hoà giải giữa các bên
nhưng không thành.
Ngày 15/02/2017 ông Nguyễn Văn Du có đơn đề nghị lên UBND tỉnh
Bắc Ninh với nội dung kiến nghị đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vì đã cấp sai đối tượng.
Ngày 21/02/2017 UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo UBND thành phố Bắc
Ninh kiểm tra , xem xét, giải quyết theo nội dung đơn, trả lời công dân và báo
cáo Chủ tịch UBND tỉnh theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Tại UBND Thành phố Bắc Ninh.
Sau khi nhận được công văn số 410/UBND-NC ngày 21/2/2017 của
UBND tỉnh Bắc Ninh. UBND thành phố Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số
1656/QĐ-CT ngày 8/4/2017 về việc thành lập tổ công tác xác minh đơn khiếu

nại của công dân.
Ngày 18/4/2017, Tổ công tác xác minh đơn khiếu nại về làm việc với
UBND phường Đại Phúc để xác minh nội dung đơn và đề nghị cung cấp các
hồ sơ có liên quan đến thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m2.
7


UBND phường Đại Phúc đã cung cấp đơn đề nghị cấp giấy năm 1991 có
ghi tên ông Nguyễn Văn Du và các hồ sơ có liên quan đến thửa đất số 18, tờ
bản đồ 3, diện tích 302,3 m2
Ngày 29/4/2017, Tổ công tác xuống tại nhà văn hóa khu 3 và mời các
đồng chí lãnh đạo khu, mặt trận tổ quốc, các ban ngành khu và các cụ cao niên
trong khu để tìm hiểu xác minh thông tin về nguồn gốc sử dụng đất thửa đất
trên. Tại buổi làm việc các đại biểu đều có ý kiến thửa đất trên ông Du là do
bố mẹ ông Du cho ông Du, ông Du đã ở trên mảnh đất này từ những năm
1974 sau đó đã đi miền Nam làm ăn kinh tế khoảng năm 1989.
Các ngày tiếp theo Tổ công tác cùng đại diện UBND phường xuống tại
khu 3 xác minh nguồn gốc sử dụng đất thửa đất 18, tờ bản đồ 3, diện tích
302,3 m2. Sau nhiều lần xác minh đã khẳng định nguồn gốc sử dụng đất thửa
đất trên là của ông Du.
Ngày 30/5/2017, Tổ công tác đã lập báo cáo về quá trình xác minh nộp
dung đơn đề nghị của ông Du và đề nghị UBND thành phố Bắc Ninh thu hồi
giấy chứng nhận thửa đất số 158, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,7 m2. Thửa đất
157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m 2, đề nghị công dân gửi đơn ra tòa án để
được giải quyết.
UBND Thành phố Bắc Ninh căn cứ báo cáo của tổ công tác, đã ban hành
Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 về việc thu hồi giấy chứng nhận
thửa đất số 158, , tờ bản đồ số 30 diện tích 150,7 m 2 do đã cấp không đúng đối
tượng . Thửa đất 157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m2 đề nghị công dân gửi
đơn ra tòa án để được giải quyết, lý do theo quy định tại Khoản 5 Điều

87 Nghị định 43/2014/NĐ- CP quy định “Nhà nước không thu hồi Giấy chứng
nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2
Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện
thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo
quy định của pháp luật”.
8


Tuy nhiên, ông Du không nhất trí với Quyết định trên tiếp tục khiếu nại
lên UBND tỉnh Bắc Ninh
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG.
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống.
- Phân tích tình huống làm rõ nguyên nhân nảy sinh tình huống, tìm ra cơ
sở khoa học để kết luận cơ sở pháp lý của tình huống và xây dựng lựa chọn
phương pháp xử lý tối ưu.
- Trách nhiệm của chính quyền các cấp cùng với các bên liên quan trong
tình huống.
2.2. Cơ sở lý luận đảm bảo yêu cầu xử lý tình huống hiệu quả.
Đứng trên lập trường phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, đòi
hỏi cán bộ, nhân dân khi phát hiện, xử lý tình huống phải nhìn nhận phân tích
toàn diện, nắm vững bản chất của sự việc, xử lý cần hướng tới đem lại cho
tương lai cuộc sống sự phát triển thuận lợi, bền vững.
Xử lý tình huống phải nắm vững hệ thống hiến pháp và pháp luật về đất
đai: Hiến pháp 1946, sửa đổi năm 1959, 1980, 1992… Luật đất đai năm 1993
được sửa đổi năm 1998 luật đất đai sửa đổi bổ sung 2001, Luật đất đai năm
2013; Bộ luật dân sự; Luật khiếu nại tố cáo ; chính sách khoán, giao quyền sở
hữu tạm thời…Đồng thời, phải rà soát lại kỹ càng tư liệu quản lý đất đai của
cơ sở, xem xét kiểm tra chặt chẽ tính pháp lý của tài liệu và nắm vững tình
hình thực tế. Có như vậy mới tăng cường được hiệu quả quản lý nhà nước về

đất đai, trong quá trình đẩy nhanh sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công
nghiệp hiện đại và dịch vụ hàng hoá với nhiều tác động cả tich cực và tiêu cực
của tình hình hiện nay.
2.3. Phân tích diễn biến của tình huống.
Sau khi nhận đơn để nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì đã
cấp sai đối tượng tình hình diễn biến và nguyên nhân được phát hiện ở các
cấp như sau:
2.3.1. Tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh.
9


Căn cứ Công văn số 321/NC- CT ngày 30/5/2017 của UBND tỉnh Bắc
Ninh giao cho Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường xem xét, báo cáo đề
xuất UBND tỉnh giải quyết khiếu nại của gia đình ông Du đề nghị hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vì đã cấp sai đối tượng.
Sau khi xem xét Sở Tài nguyên và Môi trường có báo cáo số 33/BCTNMT ngày 22/6/2017 với nội dung "Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc
Ninh thống nhất với Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 của Chủ
tịch UBND Thành phố Bắc Ninh về việc Quyết định thu hồi giấy chứng nhận
thửa đất số 158, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,7 m 2 do đã cấp không đúng đối
tượng . Thửa đất 157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m2 đề nghị công dân gửi
đơn ra tòa án để được giải quyết, lý do theo quy định tại Khoản 5 Điều
87 Nghị định 43/2014/NĐ- CP quy định “Nhà nước không thu hồi Giấy chứng
nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2
Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện
thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo
quy định của pháp luật”.
2.2.4. Tại UBND tỉnh Bắc Ninh.
Sau khi xem xét báo cáo số 33/BC-TNMT ngày 22/6/2017 của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh Bắc Ninh có Quyết định

732/QĐ-CT ngày 30/6/2017 với nội dung sau:
"Thống nhất với Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 của Chủ
tịch UBND thành phố Bắc Ninh trong việc giải quyết khiếu nại của ông
Nguyễn Văn Du, khu 3, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Đây là quyết
định cuối cùng giải quyết khiếu nại này".
Sau khi có quyết định trên của UBND tỉnh ông Du vẫn khiếu nại đến
UBND tỉnh Bắc Ninh và đề nghị UBND tỉnh phúc tra lại quyết định trên.
Gia đình ông Du nhiều lần khiếu nại đề nghị UBND tỉnh cho phúc tra lại
vụ việc trên.
10


Ngày 23/7/2017 Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh có Công văn số 235/NCCT về việc giao cho Chánh thanh tra tỉnh phúc tra lại việc giải quyết khiếu nại
theo Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 của Chủ tịch UBND thành
phố Bắc Ninh, đề xuất UBND tỉnh giải quyết theo thẩm quyền.
Thực hiện Quyết định số 102/QĐ-TT ngày 29/7/2017 của Chánh thanh
tra tỉnh Bắc Ninh về việc thành lập Đoàn phúc tra, tiến hành phúc tra, xác
minh nội dung đơn khiếu nại của công dân: ông Nguyễn Văn Du, khu 3,
phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh, khiếu nại quyết định số
1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Bắc Ninh,
trong việc giải quyết về đất đai của gia đình ông. Căn cứ kết quả thẩm tra, xác
minh Đoàn phúc tra kết luận như sau:
2.2.5. Kết quả phúc tra
Căn cứ hồ sơ của cơ quan đã xem xét giải quyết trước đây. Đoàn phúc tra
tiến hành thu thập, qua xác minh tại cơ sở Đoàn phúc tra xác định kết quả
phúc tra như sau:
2.2.5.1- Phúc tra xác định nguồn gốc sử dụng thửa đất ông Du đang có
khiếu nại
Đoàn phúc tra đã làm việc với lãnh đạo khu 3 và UBND phường Đại
Phúc để xác minh lại nguồn gốc sử dụng đất thửa đất ông Du khiếu nại. Theo

tài liệu lưu trữ ở phường có đơn đề nghị cấp giấy năm 1991 có ghi tên ông
Nguyễn Văn Du và sổ mục kê năm 1998.
Qua hồ sơ và ý kiến của lãnh đạo khu 3 cho thấy nguồn gốc thửa đất số
18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m2 là của ông Nguyễn Văn Du, do bà nội và
bố mẹ để lại.
2.2.5.2- Phúc tra xác định thời điểm ông Nguyễn Văn Du bắt đầu sử
dụng thửa đất trên
Theo ý kiến của cán bộ khu 3 và các cụ cao niên trong khu thì thửa đất số
18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m2 hộ ông Du đã ở trên mảnh đất này từ những

11


năm 1974 và đã làm nhà cấp 4 để ở sau đó đã đi miền Nam làm ăn kinh tế
khoảng năm 1989.
2.2.5.3- Phúc tra việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất
số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m2 của các đơn vị, cơ quan trước đây
* Phúc tra việc giải quyết của UBND phường Đại Phúc: Qua xem xét hồ
sơ lưu trữ của UBND phường Đại Phúc và ý kiến của đồng chí nguyên cán bộ
địa chính về việc cấp giấy chứng nhận thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích
302,3 m2, đối chiếu với các quy định của Nhà nước đặc biệt là Luật đất đai
năm 1993 được đổi năm 1998 và Luật khiếu nại tố cáo cùng các văn bản
hướng dẫn Đoàn phúc tra xác định
Việc UBND phường Đại Phúc xác định việc cấp giấy chứng nhận thửa
đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m 2 có tổ chức niêm yết công khai danh
sách được cấp đất . Tuy nhiên, lúc đó hộ ông Du không có ở nhà và không có
ai có ý kiến nên đã xét cấp cho ông Nguyễn Văn Dương.
* Phúc tra việc giải quyết của UBND thành phố Bắc Ninh
Đoàn phúc tra đã tiến hành xem xét các chứng từ mà Tổ công tác đã dùng
để báo cáo và tham mưu cho UBND thành phố Bắc Ninh ban hành Quyết định

số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 về việc thu hồi giấy chứng nhận thửa đất số
158, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,7 m 2 do đã cấp không đúng đối tượng. Sau
khi xem xét Đoàn phúc tra xác định một số nội dung sau:
- Xem xét đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991
có ghi tên ông Nguyễn Văn Du: Đoàn phúc tra xác định đơn đề nghị cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991 của ông Nguyễn Văn Du và hồ sơ
liên quan đã được các cấp (khu phố, xã) ký xác nhận, đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền sửa, phê duyệt... Do đó cơ sở để chứng minh nguồn gốc
thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m2.
- Xem xét ý kiến của các bên liên quan về nguồn gốc thửa đất số 18, tờ
bản đồ 3, diện tích 302,3 m 2: Theo ý kiến của một số cụ cao tuổi bất kỳ trong
khu và đã ở cùng thời điểm bố mẹ ông Du vẫn còn sống đều có ý kiến ông Du
12


đã ở trên thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích 302,3 m 2 được bố mẹ để lại. Đó
cũng là cơ sở để chứng minh nguồn gốc thửa đất số 18, tờ bản đồ 3, diện tích
302,3 m2 là của bố mẹ ông Du để lại cho ông Du.
Từ kết luận trên Tổ công Tác đã tham mưu cho UBND thành phố ban
hành Quyết định số số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017 là chính xác, đảm bảo
tính pháp lý.
* Phúc tra việc ban hành quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017
của Chỉ tịch UBND thành phố Bắc Ninh
Căn cứ Theo quy định tại Khoản 5 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ- CP
quy định “Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật
trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất
đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc
chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp
luật”.

Thửa đất 157, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,5 m 2 do đã chuyển nhượng
từ ông Nguyễn Văn Dương sang ông Nguyễn Văn Đông như vậy việc Chủ
tịch UBND thành phố Bắc Ninh ban hành Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày
16/06/2017 là đúng theo quy định của pháp luật.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Xử lý tình huống để giải quyết dứt điểm không để tình huống phát sinh
kéo dài; bảo vệ pháp luật; bảo vệ lẽ phải; tạo điều kiện cho sự phát triển kinh
tế xã hội, đời sống nhân dân ổn định. Chỉ rõ hạn chế và sai phạm, phát hiện
được rõ năng lực trách nhiệm của mỗi cá nhân và tổ chức để giữ vững kỷ
cương. xử lý tình huống với dự kiến nhiều phương án và lựa chọn được
phương án tối ưu, khả thi nhất.
3.2. Xây dựng và lựa chọn phương án xử lý tối ưu

13


Qua phân tích diễn biến tình huống nêu trên, có thể khẳng định: Việc giải
quyết khiếu nại của các đơn vị, cơ quan cơ bản đã tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật như nêu trên, tuy nhiên thời gian giải quyết khiếu nại còn kéo
dài chưa giải quyết dứt điểm. Với tư cách là thành viên của đoàn phúc tra, tôi
đề xuất phương án xử lý, giải quyết tình huống.
Đoàn phúc tra đề nghị Chánh thanh tra tỉnh đề xuất với UBND tỉnh Bắc
Ninh biện pháp giải quyết khiếu nại trên theo hướng sau:
* Phương án 1
- Đề nghị UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành quy định cụ thể về thời gian
giải quyết đơn khiếu nại, khiếu kiện tránh trường hợp đơn thư tồn đọng, kéo
dài vượt cấp như hiện nay.
- Giao cho UBND thành phố Bắc Ninh chỉ đạo các cơ quan chức năng,
hướng dẫn hộ ông Du làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

ở, sau khi đã ban hành Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 16/06/2017.
* Phương án 2
- Tổ chức hội nghị hoà giải cho các gia đình và cán bộ phường, tập trung
phân tích giữa quy định của pháp luật và tình cảm anh em trong gia đình để
các bên có thể chấp nhận được.
* Phương án 3
- Tổ chức họp các gia đình cùng chính quyền địa phương bàn phương án
bồi thường theo thỏa thuận thửa đất 158, tờ bản đồ số 30, diện tích 150,7 m 2
để ông Du không gửi đơn ra tòa án giải quyết.
Theo tôi 3 phương án trên, phương án 1 là đảm bảo tính pháp lý cao nhất
và dứt điểm khiếu kiện dễ nhất.
Phương án 2 và 3 đảm bảo được tình cảm anh em nhưng công tác hòa
giải khó khăn hơn, cán bộ quản lý phải vất vả hơn. Nhưng đây là phương án
không khả thi vì anh em đã nhờ dòng họ hòa giải nhưng không giải quyết
được
3.3. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án
14


Sau khi được UBND thành phố ban hành quyết định, căn cứ quyết định,
các cấp, các tổ chức và cá nhân căn cứ chức năng thực hiện, đạt dưới sự lãnh
đạo điều hành của Đảng và chính quyền các cấp, sự phối hợp của tổ chức đoàn
thể trong phương và công dân khu 3 thống nhất cùng thực hiện. Trong khi tổ
chức thực hiện lãnh đạo các cấp cần coi trọng khâu kiểm tra giám sát nắm bắt
tình hình diễn biến tư tưởng trong thực hiện phương án nhằm thực hiệu qủa
phương án đề ra.
3.4. Kiến nghị
Qua tình huống đã trình bày ở trên phần nào đã cho chúng ta thấy rõ:
- Về cơ bản các cơ quan hữu quan đã thực hiện đúng theo quy trình giải
quyết khiếu nại tố cáo. Tuy nhiên vụ việc trên cho thấy còn nhiều vấn đề phức

tạp, thời gian giải quyết còn keo dài, sự hiểu biết về pháp luật của một số cán
bộ, nhân dân còn hạn chế. Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay còn thiếu
và chưa đồng bộ; Trình độ, năng lực quản lý của không ít cán bộ còn yếu, đặc
biệt là cán bộ cấp cơ sở. Một tình huống tưởng đơn giản như đã nêu, nhưng do
năng lực cán bộ cơ sở kém, không giải quyết được, đã trở thành những vụ việc
phức tạp, cần đến các cấp chính quyền cao nhất của thành phố, tỉnh giải quyết.
Qua thực tế trên xin kiến nghị:
- Lãnh đạo các cấp quan tâm nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất
toàn diện cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Tổ chức các lớp tập huấn về Luật đất đai,
tập huấn xử lý khiếu kiện về đất đai với các tình huống giả định hoặc tình
huống đã xử lý được rút ra làm bài học kinh nghiệm cho cán bộ cơ sở .
- Chỉ đạo rà soát kiểm tra chứng nhận quyền sử dụng đất với thực tế để
điều chỉnh và tăng cường hiệu quả quả lý đất đai trên các địa bàn cơ sở.
- Quy hoạch nâng cấp kết cấu hạ tầng cơ sở trong đó có kết cấu giao
thông theo quan điểm đột phá chiến lược mà Đảng đã đề ra.
- Các cơ quan của nhà nước ở cơ sở cần rút kinh nghiệm trong việc ra các
quyết định hành chính, đặc biệt là các quyết định quản lý nhà nước, quyết định
cưỡng chế, quyết định các biệt.
15


- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ, nhất là kiến thức, năng lực về quản lý hành chính nhà
nước.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, hợp tác giữa các cơ quan chức năng để
giải quyết các vụ việc một cách có hiệu quả; tăng cường mối quan hệ giữa
nhà nước và nhân dân.

KẾT LUẬN:
Hiện nay, việc giải quyết đơn thư khiếu nại của nhân dân trong thực tế

cuộc sống còn rất nhiều bất cập, các cấp chính quyền ở địa phương cũng như
các cơ quan chuyên môn với đội ngũ cán bộ năng lực chuyên môn còn hạn
chế, giải quyết công việc còn biểu hiện mang tính chủ quan cá nhân, chưa căn
cứ vào các quy định của pháp luật cũng như các chính sácch của Đảng và Nhà
nước, dẫn tới một loạt các quyết định không đúng các quy định.
16


Với các kết quả giải quyết công việc như vậy đã gây mất lòng tin nhân
dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Do đó, cần có những biện pháp kiên quyết trong việc xử lý đối với cán bộ khi
tiến hành giải quyết các khiếu nại gây thiệt hại về kinh tế, buộc người đó ra
quyết định đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại, có như vậy mới tạo được
lòng tin trong nhân dân với Đảng.
Quá trình đổi mới đẩy mạnh công nghiếp hoá, hiện đại hoá, nhiều chính
sách mới ra đời dễ phát sinh tình huống phải xử lý, không xử lý khéo sẽ gây
phức tạp khiếu kiện kéo dài vượt cấp, kìm hãm sự phát triển. Các cấp chính
quyền ở địa phương cũng như các cơ quan chuyên môn cần quan tâm hơn nữa
đến việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, nêu
cao vai trò trách nhiệm của cán bộ vàấy thức tự giác của công dân góp phần
vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quản lý
hiệu quả đất đai nguồn tài nguyên quốc gia.

17



×