Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIểu luận CV QLNN giải quyết khiếu nại của nhân viên công ty TNHH đối với cơ quan bảo hiểm xã hội thành phố b, tỉnh c năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.83 KB, 23 trang )

Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

MỞ ĐẦU
1. Nhận thức chung
Là một chuyên viên mới được phân công về công tác tại Phòng Nội vụ
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, tôi đã được tham gia học tập tại lớp Bồi
dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên, khóa 1, năm
2018 do Trương Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Bắc Ninh tổ chức. Sau gần hai
tháng học tập, tôi đã được các thầy cô tại trường trang bị những kiến thức, kỹ
năng quý báu, cần thiết cho công việc hiện tại của mình.
Trong phần kiến thức chung, khóa học đã cho tôi những tiếp cận lần
lượt về hệ thống chính trị, trong đó trung tâm của hệ thống chính trị đó là Nhà
nước, từ đó đưa ra những lý luận về Bộ máy Nhà nước, trong đó có bộ máy
hành chính Nhà nước và hoạt động công vụ trong bộ máy đó. Người thực thi
công vụ là công chức, chương trình cũng đề cập đến các vấn đề về công chức,
trong đó quan trọng nhất là vấn đề đạo đức công vụ. Ngoài ra, còn các hoạt
động trong bộ máy hành chính nhà nước: thủ tục hành chính nhà nước, hệ
thống thông tin trong quản lý hành chính nhà nước, quản lý tài chính trong cơ
quan hành chính nhà nước, cải cách hành chính nhà nước.
Nhà nước ta là một Nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân, bảo đảm dân chủ XHCN. Bộ máy Nhà nước thực thi ba quyền:
Quyền lập pháp; Quyền tư pháp; Quyền hành pháp thực hiện hai quyền là
quyền lập quy và quyền hành chính. Trong đó, quyền hành chính là quyền tổ
chức ra bộ máy hành chính đề điều hành các hoạt động kinh tế-xã hội… Bộ
máy hành chính nhà nước Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc thứ bậc: Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Ủy ban nhân dân các cấp là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Để thực hiện các chính sách của
Nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các hoạt động công vụ,
trong đó, các hoạt động công vụ được thực thi bởi đội ngũ công chức. Trong
hoạt động thực thi công vụ, người công chức ngoài chuyên môn, nghiệp vụ



1


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

cần quan tâm đến vấn đề đạo đức công vụ, đặc biệt là đạo đức cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Ngoài ra, để tiến hành quản lý hành chính nhà nước có hiệu quả, cơ
quan hành chính nhà nước phải đảm bảo tuân thủ một cách nghiêm túc các thủ
tục hành chính. Bên cạnh đó, để duy trì các hoạt động cho sự tồn tại và phát
triển của các cơ quan hành chính nhà nước đòi hỏi hoạt động quản lý tài chính
phải được thực hiện theo đúng quy định, pháp luật. Hệ thống thông tin trong
quản lý hành chính nhà nước cũng phải được xây dựng, sử dụng một cách đầy
đủ, an toàn, kịp thời nhằm việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính
nhà nước đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt, các cơ quan hành chính nhà nước
phải quan tâm đến vấn đề cải cách hành chính nhà nước nhằm tăng cường
hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước trong quá trình
quản lý các mặt của đời sống xã hội, phát triển kinh tế, duy trì trật tự của xã
hội theo mong muốn của Nhà nước.
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng
mang tính toàn diện, bao quát tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội ở
mọi vùng lãnh thổ khác nhau khắp đất nước. Khóa học đã cung cấp cho tôi
những kiến thức về quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ để hoạt động
quản lý nhà nước vừa đảm bảo tính thống nhất vĩ mô trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia, nhưng đồng thời có tính đến yếu tố đặc trưng của từng vùng, miền,
địa phương.
Trong đời sống nói chung, và trong hoạt động thực thi công vụ nói
riêng, ngoài những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, những lý luận học
được trong nhà trường, trên sách vở, người công chức còn cần có những kỹ

năng mềm nhằm hoạt động thực thi công vụ đạt hiệu quả cao. Khóa học đã
rèn luyện cho tôi những kỹ năng: quản lý thời gian, kỹ năng giao tiếp, quản lý
hồ sơ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng viết báo
cáo, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin. Những kỹ năng mềm trên không chỉ
học qua sách vở, lý thuyết mà đó còn phải là sự đúc kết kinh nghiệm qua
những trải nghiệm thực tế trong hoạt động thực thi công vụ của người cán bộ

2


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

công chức, qua học hỏi những người đi trước để đúc kết cho bản thân mình
những kinh nghiệm trong cuộc sống nói chung, trong giải quyết công việc nói
riêng. Đây là một quá trình học hỏi, rèn luyện liên tục, không ngừng nghỉ của
người công chức.
Qua chương trình học, chuyên đề tôi tâm đắc nhất đó là chuyên đề về
đạo đức công vụ. Xét về lý luận, đạo đức công vụ được hiểu là đạo đức thực
thi công vụ của cán bộ, công chức; là những giá trị và chuẩn mực đạo đức
được áp dụng cho một nhóm người nhất định trong xã hội - cán bộ, công chức
trong lĩnh vực hoạt động cụ thể là công vụ. Đạo đức công vụ bao hàm đạo
đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức không chỉ trong các mối quan
hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ công. Trong
hoạt động công vụ, đạo đức sẽ có tác dụng trực tiếp tới đời sống xã hội nếu nó
được thực hiện đúng đắn, ngược lại, nó sẽ đưa đến những hậu quả tai hại nếu
người thực hiện hoạt động công vụ không có lương tâm, sẵn sàng chà đạp lên
luật pháp để trục lợi. Xuất phát từ những vấn đề trên, việc bồi dưỡng đạo đức
công vụ là vấn đề quan trọng mà bản thân tôi cần phải tu dưỡng, rèn luyện
thường xuyên, lâu dài. Đặc biệt là đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Đây được coi như kim chỉ nam trong hoạt

động thực thi công vụ của người cán bộ công chức, nhằm xây dựng một nền
công vụ trong sạch, vững mạnh.
2. Lý do chọn tình huống
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn trong hệ thống an ninh xã hội.
Bảo hiểm xã hội vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính xã hội, nhân
đạo của Nhà nước ta, nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trước
những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Nhận thức được vai trò, tầm quan
trọng của lực lượng lao động trong sự nghiệp phát triển, Đảng và Nhà nước ta
đã đưa ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm đối với người lao động, trong
đó có chính sách bảo hiểm xã hội.
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước ta, đã được thực hiện từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX.

3


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Trải qua hơn năm mươi năm thực hiện với những sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp trong từng giai đoạn, chính sách bảo hiểm xã hội đã góp phần to lớn đảm
bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định
tình hình chính trị - xã hội của đất nước.
Đến nay, bảo hiểm xã hội đã được thực hiện cho cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong các thành phần
kinh tế, ở những nơi có quan hệ lao động, có sử dụng lao động và các hộ kinh
doanh cá thể. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, Việt Nam đang thực hiện chế độ về
bảo hiểm xã hội bắt buộc, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, chế độ bảo hiểm
thất nghiệp. Trong đó chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm năm chế độ
là: Chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Chính sách bảo hiểm xã hội đã khẳng

định vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới, thể hiện tính ưu việt của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Công tác thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành
phố B, tỉnh C trong những năm qua đã có nhiều bước phát triển, đối tượng
người lao động được tham gia đóng bảo hiểm xã hội ngày càng tăng, nguồn
thu quỹ bảo hiểm ngày càng cao, ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện việc chi
trả các chế độ chính sách cho người lao động theo đúng quy định của Nhà
nước, góp phần giúp người lao động khắc phục khó khăn, ổn định đời sống,
an tâm công tác, tạo được sự đồng thuận lớn trong nhân dân. Tuy vậy, trong
quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều đơn vị sử dụng lao
động còn thiếu ý thức trong việc chấp hành Luật Bảo hiểm xã hội, đặc biệt các
doanh nghiệp mới được thành lập trong quá trình đổi mới, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh. Do chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của
bảo hiểm xã hội trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động và
quá trình phát triển của doanh nghiệp, chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt nên
nhiều chủ doanh nghiệp đã trốn tránh trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội
dưới nhiều hình thức như: Không kê khai đúng số lượng lao động, ký kết hợp
đồng lao động ngắn hạn theo dạng chuỗi, không đóng bảo hiểm xã hội cho

4


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo đúng quy
định, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động, vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị - xã hội.
Xuất phát từ vai trò bảo hiểm xã hội đối với người lao động nói riêng và
toàn xã hội nói chung, đồng thời qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề giải
quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, liên quan đến người sử

dụng lao động, để giải quyết một số tình huống thường xảy ra trong quan hệ
lao động, tôi chọn đề tài: “Giải quyết khiếu nại của nhân viên Công ty
TNHH đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố B, tỉnh C năm 2018”
làm đề tài tiểu luận cuối khóa Lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước
chương trình chuyên viên, khóa 1, năm 2018 của Trường Chính trị Nguyễn
Văn Cừ, tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích tình huống, nguyên nhân và hậu quả của tình huống
- Xác định mục tiêu xử lý tình huống
- Đưa ra được phương án giải quyết phù hợp, đảm bảo cho các quy định
về bảo hiểm xã hội được thực thi trên thực tế, đồng thời góp tiếng nói của
mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho người lao
động, góp phần hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tình huống khiếu nại của bà Nguyễn Thị M, nhân
viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) A đối với cơ quan Bảo hiểm xã
hội Thành phố B
- Phạm vi nghiên cứu: tại Thành phố B, tỉnh C năm 2018
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần Mục lục, Tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 phần chính:
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Phần thứ hai:GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần thứ ba: KẾT LUẬN

5


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xảy ra tình huống
Bà Nguyễn Thị M sinh năm 1994, là con đầu trong một gia đình nông
dân nghèo, có bốn anh chị em tại tỉnh C. Trong điều kiện hoàn cảnh gia đình
gặp nhiều khó khăn, nhưng vì không muốn những đứa con của mình phải chịu
thiệt thòi, ông bà đã quyết tâm cho các con ăn học hy vọng sau này có được
việc làm ổn định. Với bản tính cần cù, chịu thương, chịu khó, chắt chiu tằn
tiện, sự giúp đỡ của bà con xóm, làng và chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các
chị em của bà Nguyễn Thị M vẫn được học hành đầy đủ.
Tháng 7 năm 2014 bà Nguyễn Thị M tốt nghiệp Trường trung cấp Kinh
tế tỉnh C với tấm bằng trung cấp kinh tế chuyên ngành Kế toán doanh nghiệp,
loại khá. Tuy nhiên, để tìm được việc làm phù hợp với khả năng và trình độ
chuyên môn như bà M trong giai đoạn hiện nay không phải là điều dễ dàng.
Sau thời gian dài tìm việc làm ở hầu khắp các doanh nghiệp trên địa bàn trong
tỉnh, ngày 01/6/2016 bà Nguyễn Thị M được Công TNHH A tiếp nhận vào
làm việc (theo loại hợp đồng thời vụ 3 tháng/lần), công việc cụ thể làm nhân
viên thống kê lao động tại Phân xưởng sản xuất Vật liệu xây dựng của Công
ty. Sau 6 tháng làm việc với 2 lần ký hợp đồng thời vụ, thấy khả năng làm
việc tốt, đức tính thật thà, năng động, sáng tạo trong công việc, Giám đốc
Công ty đã ký hợp đồng có xác định thời hạn 2 năm với bà M từ ngày
01/12/2016 để đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi của cả hai phía.
Công ty TNHH A có trụ sở đóng tại thành phố B, được thành lập và đi
vào hoạt động từ tháng 7 năm 2006 theo Luật Doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức
gồm: Văn phòng Công ty, 2 đội thi công công trình và 1 phân xưởng sản xuất
vật liệu xây dựng. Số lượng lao động sử dụng thường xuyên khoảng 76 người.
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của Công ty: Xây dựng dân dụng, giao
thông, thuỷ lợi; sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng.

6



Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Đầu năm 2017 bà Nguyễn Thị M xây dựng gia đình với ông Nguyễn
Văn C tại Thành phố B. Sau thời gian mong mỏi đợi chờ, ngày 09/01/20184
bà M sinh cháu trai đầu lòng trong niềm vui sướng, hạnh phúc của đôi vợ
chồng trẻ và gia đình hai bên.
Từ đó, xảy ra tình huống giữa bà Nguyễn Thị M và Công ty TNHH A.
1.2. Diễn biến của tình huống
Bà M nghỉ sinh 6 tháng theo chế độ từ ngày 1/1/20187, nhưng trong 6
tháng đó bà không nhận được tháng lương nào. Ông C một mình nuôi vợ
trong thời gian vợ nghỉ sinh và con nhỏ chỉ bằng một suất lương của mình nên
gia đình gặp nhiều khó khăn, túng thiếu về kinh tế, ông thường hay cáu gắt,
bực bội mỗi khi nói đến vấn đề thu nhập, chi tiêu trong gia đình. Bởi vì, tại cơ
quan nơi ông đang làm việc có cô nhân viên văn phòng nghỉ sinh con cùng
thời điểm với vợ ông thì đã được Bảo hiểm xã hội thanh toán chế độ thai sản
từ tháng 2/2018. Ông C đã liên lạc với Công ty TNHH A, nơi bà M đang làm
việc đề nghị thanh toán chế độ thai sản cho vợ ông và được trả lời là Bảo hiểm
xã hội thành phố B không giải quyết. Đến ngày 01/7/2018 thì bà M đi làm và
hỏi lại cụ thể lý do tại sao không giải quyết chế độ thai sản thì Công ty TNHH
A không trả lời được, đã thế cô cán bộ phụ trách bảo hiểm xã hội của Công ty
còn nói: “qua Bảo hiểm xã hội mà hỏi”. Sự thiếu trách nhiệm của cán bộ công
ty đã làm cho bà M hết sức bất bình. Ngày 10/5/2018, bà M viết đơn khiếu nại
gửi Bảo hiểm xã hội thành phố B, với nội dung như sau:
Kính gửi: Bảo hiểm xã hội thành phố B
Tôi tên Nguyễn Thị M xin trình bày với quý cơ quan sự việc như sau:
Tôi đang làm việc tại Công ty TNHH A, ngày 01/01/2018 tôi nghỉ sinh,
sau thời gian 6 tháng được nghỉ theo quy định, đến ngày 01/7/2018 tôi đã đi
làm. Trước khi sinh con tôi có thời gian công tác tại Công ty TNHH A và tham
gia bảo hiểm xã hội là 01 năm 01 tháng (hàng tháng Công ty đều khấu trừ tiền

đóng bảo hiểm xã hội vào tiền lương của tôi). Chiếu theo Luật Bảo hiểm xã
hội thì tôi đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản như quy định.

7


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Để đảm bảo quyền lợi cho bản thân và gia đình, tôi làm đơn này đề nghị
Bảo hiểm xã hội thành phố B giải quyết chế độ thai sản cho tôi. Tôi nghĩ rằng
Công ty TNHH A phải có trách nhiệm thanh toán chế độ thai sản cho tôi
nhưng khi hỏi cán bộ phụ trách bảo hiểm của Công ty thì họ trả lời là Bảo
hiểm thành phố B không giải quyết, và cho đó là trách nhiệm của cơ quan Bảo
hiểm xã hội.
Vậy tôi viết đơn này yêu cầu Bảo hiểm xã hội trả lời lý do tại sao không
thanh toán chế độ thai sản cho tôi.
Là cơ quan nhà nước, chịu trách nhiệm các vấn đề về chế độ bảo hiểm xã
hội cho người lao động, tôi yêu cầu Bảo hiểm xã hội thành phố phải trả lời
trong thời gian 30 ngày để tôi còn có thời gian khiếu kiện lên cấp cao hơn khi
tôi thấy chưa thoả đáng.
Thành phố C, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Người viết đơn
Đã ký
Nguyễn Thị M
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị M gửi, cơ quan Bảo
hiểm xã hội thành phố B đã khẩn trương rà soát hồ sơ tham gia Bảo hiểm xã
hội của Công ty TNHH A và thấy rằng: Danh sách tham gia bảo hiểm xã hội
của Công ty TNHH A chưa có tên bà Nguyễn Thị M, cán bộ chính sách cho
biết hồ sơ đề nghị thanh toán thai sản cho bà Nguyễn Thị M của công ty
TNHH A chuyển sang ngày 01/02/2018, nhưng cán bộ chính sách Bảo hiểm

xã hội thành phố B trả lại, lý do là Công ty TNHH A chưa báo tăng lao động
bà Nguyễn Thị M và Công ty còn nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội quý III và quý
IV/2017 vẫn chưa chuyển trả. Với nguyên tắc có đóng góp thì mới có thụ
hưởng nên bảo hiểm xã hội không thanh toán.
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Qua phân tích tình huống nhằm xác định một số vấn đề sau:

8


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

- Trên cơ sở diễn biến của tình huống, xác định những cơ sở lý luận nào
được sử dụng để phân tích tình huống.
- Trên cơ sở lý luận đó, phân định sai phạm dẫn đến tình huống là xuất
phát từ bản thân bà Nguyễn Thị M, hay Công ty TNHH A, hay Cơ quan Bảo
hiểm xã hội Thành phố B
- Phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan, dẫn đến tình huống
khiếu nại của bà Nguyễn Thị M đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố
B, tỉnh C
- Từ đó xây dựng những phương án giải quyết tình huống, lựa chọn
phương án giải quyết tốt nhất để xử lý tình huống.
2.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để giải quyết tình huống trên cơ bản dựa vào Luật Bảo
hiểm xã hội của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11
ngày 29 tháng 6 năm 2006 và Bộ luật Lao động Luật số 10/2012/QH13 của
Quốc hội ngày 18 tháng 6 năm 2012.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia Bảo
hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động: người làm việc theo hợp đồng

lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có đủ từ 3 tháng trở lên;
cán bộ công chức, viên chức…và tại Điều 4 quy định các chế độ người tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng bao gồm: Chế độ ốm đau, chế độ
thai sản, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ
tử tuất.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo quy
định tại Điều 91 và Điều 92 của Luật Bảo hiểm xã hội và hàng tháng trích từ
tiền lương, tiền công của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo
hiểm xã hội.
Điều 141 Bộ luật Lao động quy định, bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp
dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên. Ở
những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng

9


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

bảo hiểm xã hội theo quy định và người lao động được hưởng các chế độ trợ
cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu
trí và tử tuất.
Vấn đề đặt ra là: Người lao động đã hội đủ các điều kiện thì phải được
đóng bảo hiểm xã hội và được hưởng các chế độ theo quy định, còn cơ quan,
đơn vị, cá nhân nào làm sai thì phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật.
Bảo đảm cho người lao động được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của mình theo quy định, yên tâm công tác, tạo năng suất lao động
cao hơn, giữ vững lòng tin đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
2.3. Phân tích tình huống
Đối chiếu với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động

thì bà Nguyễn Thị M thuộc diện tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc và được
hưởng các quyền lợi về chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Từ sự việc Công ty TNHH A không thực hiện đúng các quy định của
pháp luật lao động, không đăng ký tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho bà
Nguyễn Thị M, nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2017, không
thanh toán chế độ thai sản cho bà M khi bà nghỉ sinh, dẫn đến việc bà M phải
khiếu nại lên Bảo hiểm xã hội thành phố B, theo tôi có các nguyên nhân và
hậu quả sau đây:
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
* Đối với bà M: chưa tự trang bị cho mình kiến thức cơ bản về pháp luật
lao động, thiếu hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong quá
trình tham gia lao động. Ở đây, bà M gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Công
ty TNHH A, chỉ biết mình được nhận vào làm việc là may mắn rồi nên không
dám đề đạt nguyện vọng gì thêm, kể cả trong trường hợp quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm.
* Đối với công ty TNHH A

10


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

- Giám đốc Công ty chưa nhận thức đầy đủ các điều kiện ràng buộc hoạt
động của một doanh nghiệp và những yếu tố xã hội có tác động thúc đẩy sản
xuất phát triển trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp mới chỉ chú trọng
đầu tư sản xuất kinh doanh, chạy theo lợi nhuận, chưa quan tâm đến quyền lợi
của người lao động, chưa nhận thấy lực lượng lao động là một trong những
yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Không báo tăng tham gia bảo hiểm cho người lao động và đóng nộp
Bảo hiểm xã hội theo đúng quy định, xem đây là một trong những biện pháp

tình thế để ổn định tài chính doanh nghiệp phục vụ sản xuất.
* Đối với Tổ chức công đoàn của Công ty
Chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là tuyên truyền giáo
dục, nâng cao nhận thức về pháp luật cho người lao động, đặc biệt là các
quyền và nghĩa vụ của người lao động trong doanh nghiệp; chưa kịp thời nắm
bắt tình hình và có biện pháp bảo vệ người lao động khi quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của họ bị xâm pham.
* Đối với Bảo hiểm Xã hội thành phố B
Chưa kịp thời nắm số lao động tăng của đơn vị tham gia bảo hiểm xã
hội, để buộc Công ty THHH A phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho những
người lao động theo quy định, chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc thu nợ
tiền bảo hiểm xã hội, để đơn vị nợ đọng lâu ngày, gây khó khăn trở ngại cho
quá trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, làm ảnh hưởng quyền lợi cho
người lao động.
2.3.2 Nguyên nhân khách quan
- Công tác quản lý nhà nước ở các cấp đối với Công ty TNHH A nói
riêng và các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung còn buông lỏng, thiếu sự
đồng bộ, công tác thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng có nơi, có lúc
chưa kiên quyết, còn “nhẹ tay” khi xử lý những vi phạm của doanh nghiệp.
- Một số văn bản quy phạp pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về
chế độ bảo hiểm xã hội còn bất cập, chưa chặt chẽ, tính hiệu lực chưa cao, cơ

11


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

quan bảo hiểm xã hội được giao tránh nhiệm quản lý nguồn thu bảo hiểm xã
hội nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lao động, không có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

- Các biện pháp để thu nợ bảo hiểm xã hội đã được quy định, như bắt
buộc nộp lãi đối với các đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ mạnh
vì họ sẵn sàng nộp lãi còn hơn phải vay ngân hàng để nộp bảo hiểm xã hội.
Nộp lãi bảo hiểm xã hội không cần làm các thủ tục phức tạp và lãi suất thấp,
trong khi vay ngân hàng cần phải có các thủ tục thế chấp, phương án sản
xuất…
- Công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể có tích cực,
nhưng chưa sâu rộng, các cơ quan thông tin đại chúng chưa thực sự xem công
tác này là trách nhiệm của mình. Về phía cơ quan Bảo hiểm xã hội mặc dù có
tích cực trong công tác, song chưa có biện pháp hữu hiệu để đạt kết quả cao,
một số tổ chức xã hội chưa tích cực, năng động trong công tác này.
- Người lao động rất khó khăn tìm được việc làm, họ rất ngại khi phải
khiếu nại hoặc đề xuất yêu cầu với người sử dụng lao động vì đó cũng là một
trong những lý do để dẫn đến mất việc làm như hiện nay. Trong khi chúng ta
vẫn chưa có được một thị trường việc làm để người lao động có điều kiện lựa
chọn và bình đẳng khi tham gia ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng
lao động theo đúng nghĩa của nó. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
để các doanh nghiệp thường xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động mà người lao động không dám lên tiếng.
2.3.3. Hậu quả
- Về cá nhân bà M và gia đình: Không được giải quyết chế độ thai sản
kịp thời nên đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của gia đình, đặc biệt là
trong giai đoạn giá cả sinh hoạt tăng cao như hiện nay.
- Về mặt quản lý Nhà nước: Việc thực hiện pháp luật bị hạn chế, làm ảnh
hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Chưa bảo đảm sự công bằng giữa

12



Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo dư luận không tốt
trong nhân dân.
- Về mặt xã hội: Một bộ phận người lao động qua tình huống này sẽ chưa
thực sự tin tưởng vào cán bộ, công chức, cơ quan quản lý nhà nước về bảo
hiểm xã hội, ảnh hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội mà Đảng và Nhà
nước ta đã và đang thực hiện.
- Uy tín lãnh đạo Công ty, tổ chức Công đoàn của doanh nghiệp bị giảm
sút, người lao động mất niềm tin, không yên tâm công tác, năng suất, chất
lượng và hiệu quả lao động giảm, ảnh hưởng đến thu nhập của người lao
động.
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Không
vì mục đích kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế cần phải tuân thủ
và áp dụng đúng quy định của pháp luật, nhằm mục đích an sinh và an toàn xã
hội. Bảo hiểm xã hội chứa đựng nhiều ý nghĩa lớn lao, đó là tính nhân đạo,
tính nhân văn của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy mục tiêu xử lý cần đạt được
như sau:
Thứ nhất, bà Nguyễn Thị M phải được hưởng chế độ thai sản và các
quyền lợi khác của người lao động theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và
Bộ luật Lao động. Xây dựng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và
người lao động trong doanh nghiệp ngày càng gắn bó, trách nhiệm, tạo niềm
tin cho người lao động yên tâm công tác, phát huy hết khả năng của mình
trong công việc.
Thứ hai, Công ty TNHH A phải kịp thời báo tăng số lượng người lao
động và trích nộp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, đảm bảo kỷ
cương phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật, khẳng định đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội là hoàn toàn đúng đắn,

tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

13


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Thứ ba, bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của người tham
gia bảo hiểm xã hội, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và
người lao động trong quá trình đóng và thụ hưởng bảo hiểm. Nâng cao trách
nhiệm của cán bộ công chức, viên chức, cơ quan Bảo hiểm xã hội trong quá
trình thực thi công vụ.
Việc tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không chỉ là
quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ
quan Bảo hiểm xã hội mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, của các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Vì vậy, thực hiện
xã hội hoá trong công tác bảo hiểm xã hội là việc làm cần thiết và phù hợp với
xu thế hiện nay.
3.2. Xây dựng và lực chọn phương án, giải pháp tối ưu để xử lý tình huống
Qua phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống, để đạt được các
mục tiêu đã xác định tôi đề xuất các phương án giải quyết và lựa chọn phương
án giải quyết như sau:
3.2.1 Xây dựng các phương án giải quyết tình huống
* Phương án 1: Công ty TNHH A chủ động thanh toán chế độ thai
sản cho bà M. Sau đó làm việc với Bảo hiểm xã hội thành phố B để quyết
toán chế độ thai sản của bà M cho Công ty TNHH A nhằm giảm bớt phần
nào khó khăn trong cuộc sống cho gia đình bà M.
Bởi vì theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội

thì hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên qũy tiền lương, tiền công
đóng bảo hiểm xã hội của người lao động 3% vào quỹ ốm đau và thai sản;
trong đó người sử dụng lao động giữ 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ
điều kiện hưởng chế độ theo quy định
- Ưu điểm:

14


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt, đảm bảo quyền lợi cho bà
Nguyễn Thị M, lấy lại lòng tin cho người lao động, tránh được những dư luận
không có lợi cho công ty.
- Nhược điểm:
Gây ra sự ngộ nhận về tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho người
lao động không tự mình quan tâm đến quyền lợi của mình và đi đến ỷ lại, họ
nghĩ rằng chỉ cần viết đơn là giải quyết ngay, chưa đảm bảo được tính công
bằng và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Số tiền nợ bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A vẫn còn, ảnh hưởng
đến nguồn thu bảo hiểm, tạo tiền lệ xấu trong quá trình giải quyết chế độ bảo
hiểm xã hội, làm mất lòng tin vào tính ưu việt của xã hội ta cũng như chế độ
chính sách của Đảng và Nhà nước.
* Phương án 2: Bảo hiểm xã hội chủ động đứng ra làm đơn vị triệu
tập viên, mời bà Nguyễn Thị M, Công ty TNHH A, Công đoàn Công ty
TNHH A đến cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố B làm việc, phân tích
làm rõ sai trái, thiếu sót, trách nhiệm thuộc về ai. Từ đó yêu cầu Công ty
TNHH A phải tiến hành làm thủ tục báo tăng kịp thời cho bà Nguyễn thị
M, truy nộp bảo hiểm xã hội, để giải quyết chế độ thai sản cho bà M, đảm
bảo quyền lợi cho người lao động.

Cán bộ chính sách tính toán số tiền chế độ thai sản cho bà M với cách
tính được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội như sau:
Bà M có hệ số lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,86.
Mức lương tối thiểu chung được áp dụng để tính là: 1.300.000 đồng (thời
điểm bà M nghỉ sinh con).
Với 6 tháng nghỉ sinh hưởng chế độ thai sản (quy định tại Khoản 1, Điều
157 Bộ Luật Lao động: “Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là
6 tháng)”, bà M được hưởng số tiền (theo Khoản 1, Điều 35 Luật Bảo hiểm
xã hội: Người lao động hưởng chế độ thai sản mức hưởng bằng 100% mức

15


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm của sáu tháng liền kề
trước khi nghỉ việc):
1,86 x 1.300.000đ x 6 tháng = 14.508.000 đồng
Bà M được hưởng thêm 2 tháng lương tối thiểu trợ cấp một lần khi sinh
(quy định tại Điều 34, Luật Bảo hiểm xã hội: “Lao động động nữ sinh con
hoặc nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng hai
tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con”)
2 tháng x 1.300.000đ = 2.600.000 đồng.
Tổng cộng số tiền bà M được hưởng là:
14.508.000 + 2.600.000đ = 17.108.000 đồng.
- Ưu điểm:
Đảm bảo tính pháp chế, tính công bằng, tinh thần thái độ phục vụ của cán
bộ trong đơn vị sử dụng lao động được cải thiện, với mục tiêu “tất cả vì quyền
lợi người lao động”.
Đảm bảo hợp tình, hợp lý, thu hút được đối tượng tham gia bảo hiểm,

góp phần đẩy nhanh công tác xã hội hoá bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần
chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn, việc bổ sung, sửa đổi một số quy
định trong quản lý, trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu
đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp
pháp đối với người lao động.
- Nhược điểm:
Cán bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội phải tập trung đầu tư thời gian để xử lý,
gia đình bà Nguyễn Thị M và người lao động trong Công ty có thể ngộ nhận,
trách nhiệm sai sót thuộc về cơ quan Bảo hiểm xã hội.
*Phương án 3:
Yêu cầu Công ty TNHH A trích kinh phí thường xuyên, giải quyết trợ
cấp khó khăn cho gia đình bà Nguyễn Thị M với số tiền bằng tiền chế độ
thai sản.
- Ưu điểm:

16


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt cho gia đình bà Nguyễn Thị M.
- Nhược điểm:
Công ty TNHH A và Bảo hiểm xã hội thành phố M chưa thực hiện đúng
quy định của pháp luật, không gắn trách nhiệm của Công ty với quyền lợi lâu
dài của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (thời gian và mức đóng bảo
hiểm xã hội là cơ sở để giải quyết các chế độ khác cho người lao động sau này
như hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động...), tính khả thi không cao vì phải phụ
thuộc vào sự tự giác của Công ty TNHH A.
3.2.2. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Quá trình phân tích, đối chiếu với mục tiêu đã xác định với ba phương án

đã trình bày ở trên, phương án nào cũng có mặt ưu và nhược. Tuy nhiên, trong
trường hợp này tôi lựa chọn phương án 2 là phương án để giải quyết, vì trong
các phương án đã xây dựng, nó là phương án tối ưu. Thực hiện phương án này
sẽ đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao tinh
thần, thái độ phục vụ của cán bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội và các đơn vị sử
dụng lao động, với mục tiêu “tất cả vì quyền lợi người lao động”, vừa đảm
bảo hợp lý, hợp tình, thu hút được đối tượng tham gia, góp phần đẩy nhanh
công tác xã hội hóa bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng minh tính đúng
đắn trong thực tiễn về việc bổ sung sửa đổi một số quy định trong quản lý,
trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong giai
đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người
lao động.
3.3. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án, giải pháp đã lựa chọn để xử
lý tình huống
Để thực hiện tốt phương án đã được lựa chọn, đòi hỏi sự phối hợp thực
hiện giữa người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan Bảo hiểm xã
hội một cách khoa học chặt chẽ, đầy đủ thủ tục, theo đúng trình tự các bước,
đảm bảo quyền lợi cho người lao động được giải quyết đúng, đủ và kịp thời.
Bước thứ nhất:

17


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Bảo hiểm xã hội thành phố thông báo mời Công ty TNHH A, bà Nguyễn
Thị M và đại diện tổ chức công đoàn công ty tới cơ quan Bảo hiểm xã hội để
làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót của cá nhân, tổ chức có liên quan
đến sự việc, chỉ rõ hậu quả mà Công ty phải gánh chịu nếu vẫn cố tình không
báo tăng và đóng bảo hiểm cho người lao động theo đúng quy định, trên tinh

thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Thống nhất cách thức, trình tự các bước, thời
gian thực hiện. Yêu cầu các bên có liên quan phải cam kết thực hiện nghiêm
túc.
Bước thứ hai:
- Trách nhiệm của bà M: Phải gặp trực tiếp cán bộ phụ trách các chế độ
bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A, thực hiện đối chiếu các hồ sơ, hợp
đồng lao động đầy đủ, đồng thời đề nghị cán bộ phụ trách tiến hành làm thủ
tục báo tăng bảo hiểm xã hội cho bà kịp thời, đúng quy định.
- Trách nhiệm của Công ty TNHH A: Tiến hành cân đối tài chính, tìm
nguồn ưu tiên truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội đầy đủ, tiến hành làm các thủ
tục để báo tăng lao động và thanh toán chế độ thai sản cho bà M, đồng thời rà
soát lại trong Công ty TNHH A còn chế độ nào của người lao động từ trước
đến nay chưa thanh toán, khẩn trương xem xét, giải quyết.
- Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội thành phố B: Khẩn trương phối hợp
và đốc thúc Công ty TNHH A tiến hành nhanh chóng các thủ tục như báo tăng
lao động, truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2017. Tiến
hành thanh toán kịp thời chế độ thai sản cho bà M và những trường hợp khác
trong Công ty (nếu có).
Bước thứ ba:
Bảo hiểm xã hội thành phố B hướng dẫn Công ty TNHH A thực hiện
báo tăng theo mẫu 02a-TBH. Tiến hành đối chiếu tiền chênh lệch do nợ bảo
hiểm xã hội quý III và quý IV/2017. Hướng dẫn Công ty lập danh sách truy
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc theo mẫu số 03-TBH.

18


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Công ty TNHH A sau khi hoàn tất xong các thủ tục, tiến hành truy nộp số

tiền nợ đóng bảo hiểm xã hội vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội của cơ quan
bảo hiểm xã hội, qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành
phố B hoặc tài khoản tại kho bạc Nhà nước thành phố B.
Bước thứ tư:
Bảo hiểm xã hội thành phố B sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ và giấy
báo đã chuyển vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội, tiến hành kiểm
tra duyệt danh sách đề nghị hưởng chế độ thai sản theo mẫu số C67a - HD để
chi trả cho đối tượng kịp thời, đúng quy định hiện hành, đảm bảo quyền lợi
cho bà Nguyễn Thị M, góp phần giảm bớt khó khăn cho gia đình.
Bước thứ năm:
Bảo hiểm xã hội tổ chức họp kiểm điểm, rút kinh nghiệp, đề xuất biện
pháp tăng cường quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn.
Công ty TNHH A tổ chức cuộc họp kiểm điểm việc không làm thủ tục
báo tăng kịp thời cho người lao động, không trích nộp bảo hiểm kịp thời theo
quy định. Lãnh đạo Công ty tìm mọi biện pháp đẩy mạnh sản suất kinh doanh,
ổn định tình hình tài chính doanh nghiệp, bảo đảm đủ các nguồn chi theo đúng
quy định.
3.4. Khuyến nghị và đề xuất
Qua tình huống trên để thực hiện tốt việc quản lý Nhà nước về công tác
bảo hiểm xã hội, bảo đảm nguồn thu vào quỹ bảo hiểm xã hội đúng, đủ, kịp
thời, đồng thời giải quyết đầy đủ quyền lợi cho người lao động, tôi có một số
kiến nghị như sau:
3.4.1. Đối với cơ quan nhà nước ở Trung ương
- Luật bảo hiểm xã hội được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006; có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Nghị
định 152/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và một số văn bản hướng dẫn khác đã đánh
dấu một bước tiến trong quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực an sinh, an toàn xã
hội. Tuy nhiên, tình trạng không đăng ký tham gia bảo hiểm cho người lao

19



Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

động khi có đủ điều kiện và nợ đọng bảo hiểm xã hội vẫn còn xảy ra thường
xuyên ở các doanh nghiệp, trên phạm vi cả nước. Hiện nay, pháp luật có quy
định thêm biện pháp mới là tính tiền lãi chậm nộp cho các đơn vị nợ đọng bảo
hiểm, tuy nhiên biện pháp này tỏ ra không mấy hiệu quả trên thực tế. Do vậy,
trước mắt các cơ quan nhà nước cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và
đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước về lao động. Còn về lâu dài cần phải
có cơ chế hoàn thiện đồng bộ và hiệu quả trong việc quản lý nguồn thu bảo
hiểm xã hội, cần xem xét theo hướng giao trách nhiệm thu bảo hiểm xã hội
cho cơ quan thuế, tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ, nguồn thu và kịp thời xử lý
các đối tượng vi phạm. (cơ quan bảo hiểm xã hội có nhiệm vụ quản lý nguồn
thu bảo hiểm nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực lao
động và bảo hiểm xã hội, không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trên lĩnh vực này).
3.4.2. Đối với chính quyền địa phương
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể, quán triệt thực hiện sâu rộng, nghiêm túc chế độ,
chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn hiện nay. Xác định đây là nhiệm
vụ chính trị quan trọng của tất cả các ban, ngành, tổ chức, đoàn thể... và của
toàn xã hội.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bảo hiểm xã hội, và Luật Lao
động cho chủ doanh nghiệp, người lao và đại diện người lao động để họ nhận
thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc tham
gia bảo hiểm xã hội, từ đó tự giác thực hiện một cách có hiệu quả.
3.4.3. Đối với Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố
Đề xuất chính quyền các cấp mở các hội nghị liên ngành bao gồm: ngành
Lao động Thương binh và Xã hội; Bảo hiểm xã hội; Liên đoàn lao động;

Thanh tra chuyên ngành, cùng nhau bàn và đi đến thống nhất các chương
trình, kế hoạch hành động, tiến hành thanh tra, kiểm tra các đơn vị có sử dụng
lao động.

20


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

Xử lý dứt khoát, khen thưởng các đơn vị hoàn thành tốt nhiêm vụ đóng
bảo hiểm xã hội.
Tăng cường điểm các đơn vị nợ đọng, trốn nộp bảo hiểm xã hội, tăng
cường kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Gắn
việc thực hiện bảo hiểm xã hội với công tác thi đua, khen thưởng ở các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, kịp thời tuyên dương bồi dưỡng trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ trong toàn ngành, nêu cao tinh thần trách nhiệm
trong quá trình thi hành công vụ, theo dõi, nắm chắc tình hình tham gia bảo
hiểm xã hội của các đơn vị trên địa bàn, có phương án xử lý kịp thời các tình
huống.
3.4.4. Đối với tổ chức Công đoàn và người lao động trong doanh nghiệp
Nâng cao khả năng, kỹ năng hoạt động của cán bộ công đoàn, kịp thời
nắm bắt thông tin về bảo hiểm xã hội của đơn vị, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội khi bị xâm phạm.
Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, bảo
hiểm xã hội cho người lao động. Người lao động trong doanh nghiệp phải tích
cực tham gia hoạt động công đoàn, chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.

21



Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc, trong điều
kiện Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì
việc thực hiện tốt chế độ bảo hiểm xã hội đã chứng tỏ được tính ưu việt của xã
hội ta.
Nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác quản lý bảo hiểm xã hội
hiện nay là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự vào cuộc
đồng bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức, đồng thời phải tăng cường công
tác tuyên truyền giáo dục Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Lao động cho lực lượng
lao động để họ nâng cao nhận thức có khả năng tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
Từ việc giải quyết tình huống bà Nguyễn Thị M nhân viên Công ty trách
nhiệm hữu hạn A khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố B không thực
hiện đúng chế độ thai sản cho mình, cho thấy mỗi quyết định của cán bộ quản
lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình thi hành công vụ có ý nghĩa
hết sức quan trọng, nó có thể làm tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
nếu quyết định đúng, phù hợp với tình hình thực tế và ngược lại. Vì vậy, trong
quá trình xử lý các tình huống phát sinh từ hoạt động thực tiễn, người cán bộ
cần phải thận trọng, bình tĩnh, sáng tạo, coi trọng quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động, của doanh nghiệp, đồng thời, phải thực hiện
đúng pháp luật, vận dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn các quy định
pháp luật bảo đảm giải quyết công việc hợp lý, hợp tình, tạo sự đồng thuận
trong xã hội.
Lần đầu tiên làm quen với đề tài tình huống trong quản lý, mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng với những hạn chế về thời gian, trình độ chuyên môn và
nhận thức của bản thân, bài viết không thể tránh khỏi những thiết sót về mặt
nội dung cũng như hình thức, rất mong nhận được ý kiến phê bình của các

thầy giáo, cô giáo để đề tài được hoàn chỉnh và có tính khả thi cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

22


Tiểu luận cuối khóa lớp QLNN chương trình chuyên viên khoá 1 - Bắc Ninh 2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động Luật số 10/2012/QH13 của Quốc hội ngày 18 tháng
6 năm 2012
2. Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
3. Công văn 1477/BHXH-CSXH của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về
việc Hướng dẫn thực hiện chế độ thai sản theo quy định của Bộ Luật Lao
động 10/2013/QH13 ngày 23 tháng 4 năm 2013
4. Nghị định 152/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc Hướng dẫn một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc ngày 22
tháng 12 năm 2006
5. Bộ giáo trình quản lý nhà nước chương trình chuyên viên của Học
viện Hành chính Quốc Gia, Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội năm 2017.
6. Giáo trình Luật Lao động Trường đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất
bản sự thật năm 2005.

23



×