Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tieu luan xử lý sai phạm trong việc giải quyết đơn khiếu nại của công dân về việc thi hành án dân sự xảy ra tại huyện x – bắc ninh, năm 2015 QLNN chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.29 KB, 17 trang )

Phần thứ I- MỞ ĐẦU
Quản lý nhà nước được hiểu là sự tác động và điều chỉnh mang tính
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình, quan hệ xã hội, hành vi hoạt
động của con người do các cơ quan Nhà nước tiến hành để thực hiện các
chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Sự tác động mang tính quyền lực
Nhà nước là sự tác động bằng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế, qua
đó Nhà nước thể hiện quyền lực của mình đối với mọi hoạt động trong xã
hội.
Công tác thi hành án nói chung (bao gồm thi hành án hình sự, thi
hành án dân sự) vừa là công tác chuyên môn, nghiệp vụ vừa thể hiện quyền
lực Nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc hiến định: “Các bản án và quyết định
của tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành” (Điều 136 Hiến pháp năm 1992).
Để một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án
phát sinh hiệu lực trên thực tế, cần phải có sự chấp hành, phối hợp chấp
hành, phối hợp tác động của nhiều chủ thể. Tuy nhiên sự tác động điều
chỉnh, hướng dẫn hành vi của các chủ thể này theo cách nào đó nhằm hướng
tới mục đích để phán quyết của tòa án thể hiện hiệu lực trên thực tế chính là
yêu cầu của quản lý Nhà nước về thi hành án.
So với hoạt động quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, hoạt động
quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án mang nhiều yếu tố đặc thù,
bởi lẽ ngoài việc phải thực hiện đúng chức năng, nguyên tắc, nội dung của
quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này, quản lý Nhà
nước về thi hành án còn nhằm khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật,
thể hiện quyền lực Nhà nước đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nội dung quản lý, cách thức tác động và cơ chế quản lý cũng thể
hiện những vấn đề riêng, có linh hoạt để công tác thi hành án đạt hiệu quả
cao, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Hiện nay, có nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề thi hành án là


một giai đoạn của tố tụng hay là giai đoạn độc lập mang tính hành chính –

-1-


tư pháp. Đây được coi là vấn đề khá mấu chốt cả về lý luận và thực tiễn,
hiện còn nhiều ý kiến khác nhau, song cần phải thừa nhận hoạt động thi
hành án nói chung không hoàn toàn do pháp luật tố tụng điều chỉnh và hoạt
động này do cơ quan hành chính thực hiện; các biện pháp thực thi pháp luật
chủ yếu do pháp luật hành chính – tư pháp quy định. Giai đoạn thi hành án
là giai đoạn độc lập tiếp sau giai đoạn xét xử.
Việc thi hành một bản án dân sự có liên quan đến lợi ích vật chất của
công dân hay của Nhà nước thường gặp những khó khăn trở ngại nhất định,
bởi nó động chạm đến quyền, lợi ích vật chất cụ thể của các bên đương sự.
Vậy việc các đương sự khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thi hành án dân sự
không tránh khỏi.
Tình huống dưới đây là một tình huống cụ thể. Để đảm bảo tính bí
mật về vụ việc thi hành án do vậy tình huống trong tiểu luận này và tên
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được hư cấu.

-2-


Phần thứ II- NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Mô tả tình huống:
Ngày 20/10/2015 ông Nguyễn Tiến Minh đã ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cùng toàn bộ tài sản gắn liền trên đất có diện tích
là 200m2 thửa 103, tờ bản đồ địa chính số 15 thuộc thôn Đông – xã Bằng
An – Huyện X – tỉnh Bắc Ninh cho vợ chồng anh Nguyễn Văn Hai là người
cùng thôn với giá tiền là 500 triệu đồng. Do ông Minh không thực hiện hợp

đồng trên nên ông Hai đã khởi kiện tại Tòa án dân dân huyện X .
Tòa án nhân dân huyện X đã thụ lý và giải quyết vụ việc trên nhưng
ông Minh không đồng ý với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện X
mà làm đơn kháng cáo để tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phúc thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm số 50/2007/DS-PT ngày 08/5/2017 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản quyết định:
Về hình thức: Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của ông Nguyễn Tiến
Minh;
Về nội dung: Sửa án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự.
1. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Tiến Minh và ông Nguyễn Văn Hai lập ngày 20/10/2015.
2. Ông Nguyễn Tiến Minh phải trả cho ông Nguyễn Văn Hai số tiền
500 triệu đồng và lãi xuất chậm thi hành án.
Sau khi bản án phúc thẩm trên có hiệu lực pháp luật ông Nguyễn Văn
Hai là người được thi hành án đã đến cơ quan thi hành án dân sự huyện X
nay gọi là Chi cục thi hành án dân sự để làm đơn yêu cầu thi hành án.
Cơ quan thi hành án dân sự thụ lý đơn yêu cầu thi hành án của ông
Hai và ra quyết định thi hành án số 333 ngày 25/5/2017 có nội dung: Cho
thi hành khoản bồi thường của ông Minh – địa chỉ: Thôn Đông Bằng an –
Huyện X – Bắc Ninh trả cho ông Hai cùng địa chỉ số tiền là 500 triệu đồng
và lãi xuất chậm thi hành án.

-3-


Thi hành án dân sự huyện X đã tiến hành làm các thủ tục theo quy
định của pháp luật, thông báo thời gian tự nguyện thi hành án cho ông Minh
là 30 ngày, hết thời gian tự nguyện mà ông Minh không thi hành.

Ngày 27/11/2017 chấp hành viên thi hành án dân sự ra quyết định kê
biên số 02. Thời gian kê biên: vào hồi 9h ngày 18/12/2017; địa điểm kê
biên: Thôn Đông – xã Bằng An huyện X - tỉnh Bắc Ninh.; Tài sản kê biên
là thửa đất số 103, tờ bản đồ số 15 có diện tích 200m2 và tài sản gắn liền
trên.
Ngày 03/4/2018 thi hành án dân sự huyện đã định giá ½ đất và tài sản
trên phần đất phía nam thửa đất trên là 400 triệu đồng.
Tài sản kê biên của ông Minh là đất và tài sản gắn liền trên đất, theo
quy định của pháp luật thi hành án dân sự thì việc bán đấu giá đối với tài
sản kê biên là động sản và bất động sản có giá trị từ trên 10 triệu do tổ chức
bán đấu giá thực hiện…
Mức phí bán đấu giá tài sản là 5% trên tổng số tiền bán đấu giá thành,
tiền phí đó người phải thi hành án phải chịu (trường hợp này ông Minh phải
chịu).
Ngày 10/4/2018 ông Minh có đơn đề nghị bán tài sản cho bà Hoa (em
họ ông) và được ông Hai là người thi hành án đồng ý.
Để tránh phải trả tiền chi phí bán đấu giá ngày 14/4/2018 ông Minh
(là người phải thi hành án), ông Hai (là người được thi hành án và bà
Nguyễn Thị Hoa (em họ ông Minh) đã thỏa thuận đề nghị cơ quan thi hành
án dân sự huyện X không chuyển tài sản trên lên Trung tâm bán đấu giá tài
sản tỉnh Bắc Ninh để ông Minh không phải chịu khoản phí bán đấu giá tài
sản. Các bên tự thỏa thuận bán cho bà Hoa để lấy tiền thi hành án (biên bản
thỏa thuận ngày 14/4/2018).
Ngày 14/4/2018 bà Hoa có đơn xin mua tài sản gửi cơ quan thi hành
án.
Ngày 15/4/2018 bà Hoa nộp đủ số tiền 400 triệu đồng.

-4-



Ngày 28/4/2018 thi hành án huyện X đã bàn giao tài sản trên cho bà
Hoa, ông Minh cũng có mặt tại nhà đồng ý bàn giao nhưng không ký vào
biên bản bàn giao.
Số tiền bán tài sản và số tiền ông Minh đã nộp thêm sau khi trừ đi các
khoản phí cưỡng chế, định giá còn lại trả cho ông Hai vẫn chưa đủ số tiền
phải thi hành án, ông Minh vẫn còn tiếp tục phải thi hành án số tiền còn lại
và lãi xuất chậm thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự huyện vẫn tiếp
tục đôn đốc ông Minh thi hành khoản tiền còn lại.
Ngày 23/5/2018 ông Minh làm đơn xin lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất phần còn lại (một nửa đã thỏa thuận bán cho bà Hoa). Chi cục thi
hành án không chấp nhận vì ông Minh chưa thi hành xong bản án và ½ tài
sản trên còn lại của ông Minh cơ quan thi hành án đã kê biên những chưa
xử lý để thi hành nốt phần tiền còn thiếu theo quyết định của bản án.
Ngày 05/06/2018 ông Minh đã làm đơn khiểu nại gửi Chi cục thi
hành án dân sự huyện với nội dung:
1. Chi cục thi hành án dân sự huyện X tự bán tài sản nhà đất của gia
đình ông, ông và gia đình không biết, không ký văn bản giấy tờ nào.
2. Bán tài sản của ông mà không thông qua tổ chức bán đấu giá tài
sản là vi phạm quy định (Điều 101 luật thi hành án).
2. Lý do chọn tình huống:
Trong phạm vi tiểu luận này tôi đưa ra tình huống: “Giải quyết đơn
khiếu nại của ông Nguyễn Tiến Minh trong lĩnh vực thi hành án dân sự”.
tình huống thuộc phạm vi quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân
sự.
Vận dụng tri thức đã được học tập trong khóa học bồi dưỡng kiến
thức quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên và nghiên cứu thực tế
trong lĩnh vực này Tôi mạnh dạn đưa ra tình huống trên để trao đổi, để lựa
chọn phương án tối ưu nhất trong việc giải quyết tình huống trên.
Tôi cho rằng việc giải quyết dứt điểm, đúng quy định của pháp luật
sẽ giảm được những khiếu nại và sẽ tránh được tình trạng đơn thư kéo dài

và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn bảo đảm pháp

-5-


luật được thực thi một cách nghiêm minh, củng cố thêm lòng tin của nhân
dân vào các cơ quan công quyền.
Việc giải quyết khiếu nại và tố cáo của công dân luôn được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, thể hiện trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trước công dân, và là một
biểu hiện cụ thể về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân.
Cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo được hình thành và ngày càng
hoàn thiện, thể hiện qua việc Nhà nước ban hành những văn bản pháp lý tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của
mình trong khuôn khổ pháp luật.
Bên cạnh đó, pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng có những chế tài
nghiêm khắc để xử lý nhằm ngăn chặn những trường hợp lợi dụng dân chủ
để làm ảnh hưởng, mất uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà
nước.
3. Xác định mục tiêu xử lý tình huống:
Các văn bản pháp lý sử dụng trong phân tích tình huống:
+ Luật khiếu nại tố cáo (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm
2005).
+ Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 (vì thời gian của tình huống
xảy ra trước khi luật thi hành án có hiệu lực).
+ Luật thi hành án dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009)
+ Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày14/9/2004 của Chính Phủ về kê
biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án.
+ Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự
về thủ tục thi hành án dân sự.
+ QĐ số 1420/QĐ-GQKNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục thi hành
án dân sự về việc ban hành quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành
án dân sự.

-6-


+ Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban
hành kèm theo QĐ số 1420/QĐ-GQKNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục
thi hành án dân sự).
Đơn khiếu nại của ông Minh đúng theo quy định tại khoản 1 điều 33
Luật khiếu nại tố cáo; điều 140 – khoản 1, điều 147 của luật thi hành án dân
sự: Việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn có ghi rõ ngày, tháng, năm
khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại và yêu cầu của người khiếu
nại và có ký tên của người khiếu nại.
Sau khi nhận đơn của ông Minh về nội dung khiếu nại trên, chi cục
thi hành án dân sự huyện X xem xét thực hiện đúng nguyên tắc giải quyết
khiếu nại, tố cáo được quy định tại Điều 140 luật thi hành án; điều 4 chương
1 của quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo; tại khoản 1 điều 2 chương I có
ghi:
Việc giải quyết khiếu nại tố cáo phải đảm bảo tuân thủ các quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
Mọi khiếu nại tố cáo phải được xem xét, xử lý, giải quyết đúng pháp
luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và người
có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự.
4. Phương án giải quyết tình huống:
Trong tình huống này ta có thể lựa chon một trong hai phương án giải

quyết sau:
* Phương án 1: Không thụ lý giải quyết đơn của ông Minh
(không chấp nhận đơn khiếu nại của ông Minh) vì:
Đơn khiếu nại của ông Minh thuộc một trong những trường hợp
khiếu nại không được thụ lý giải quyết được quy định tại khoản 4 điều 141
“thời hiệu khiếu nại đã hết”.
Điều 59 Pháp lệnh thi hành án năm 2004 quy định quyền khiếu nại về
thi hành án như sau:
“Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền liên
quan đến việc thi hành án có quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành

-7-


vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên, nếu có căn cứ rằng
các quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của họ. Thời gian khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định hoặc biết được hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án, chấp hành viên”.
“Trong trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả
kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng
thời hạn, thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng đó
không tính vào thời hạn khiếu nại”.
Tại điều 140 luật thi hành án dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009)
cũng quy định quyền khiếu nại về thi hánh án như sau:
Khoản 1: Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự; Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khoản 2: Thời hạn khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên như sau:
Điểm d: Đối với quyết định, hành vi về thi hành án sau khi áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định hoặc biết được hành vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng
mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời
hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không
tính vào thời hạn khiếu nại.
* Đối với khiếu nại của ông Minh:
Thứ nhất là: Chi cục thi hành án huyện X tự bán tài sản nhà đất của
gia đình ông, ông và gia đình không biết không ký văn bản giấy tờ nào.
Khiếu nại này không chấp nhận được vì hai lý do sau:
1. Chi cục thi hành án bán tài sản đã kê biên của ông cho chị Hoa trên
cơ sở đề nghị của ông (bằng văn bản làm việc thỏa thuận thi hành án ngày
14/4/2009) việc bán trên căn cứ thỏa thuận của người được thi hành án;

-8-


người phải thi hành án và người mua tài sản và được pháp luật quy định tại
Điều 5 – Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định về thủ tục,
cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án.
Các đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nhưng việc
thỏa thuận không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác.
2. Chi cục thi hành án dân sự huyện X tiến hành bàn giao tài sản trên
cho bà Hoa là ngày 28/4/2009 ông Minh cũng có mặt ở đó và biết được sự
việc trên, nhưng không có ý kiến gì mà đến ngày 05/8/2010 (15 tháng sau)
ông mới có đơn khiếu nại như vậy thời hiệu khiếu kiện việc làm trên của
chấp hành viên với ông đã hết, được quy định tại điều 140 khoản 2 điểm d –

Luật thi hành án 2008 về thời hiệu khiếu kiện như sau:
Đối với quyết định, hành vi về thi hành án sau khi áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định
hoặc biết được hành vi đó.
Thứ hai là: Bán tài sản của ông mà không thông qua tổ chức bán đấu
giá tài sản là vi phạm quy định điều 101 – Luật thi hành án.
Khiếu nại này không chấp nhận được vì lý do sau:
Chi cục thi hành án bán tài sản đã kê biên của ông cho bà Hoa mà
không chuyển cho Trung tâm bán đấu giá tài sản trên cơ sở đề nghị của
chính ông (biên bản làm việc ngày 14/4/2018) việc bán tài sản trên là căn cứ
thỏa thuận của người được thi hành án; người phải thi hành án và người
mua tài sản được pháp luật quy định tại Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày
30/9/2004 quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt hành chính trong lĩnh
vực thi hành án tại điều 5 có quy định về thỏa thuận thi hành án như sau:
Các đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nhưng việc
thỏa thuận không được trái pháp luật, đạo đức xã hội ảnh hưởng đến lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác.
Thỏa thuận này không trái quy định pháp luật và có lợi cho các bên
đương sự vì vậy chấp hành viên bán tài sản trên cho chị Hoa là phù hợp với
quy định của pháp luật.

-9-


* Phương án 2: Thụ lý giải quyết theo trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền (chấp nhận đơn khiếu nại của ông
Minh).
Trường hợp 1: Ông Minh phải chứng minh được trường hợp trở ngại
khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà ông Minh không thực hiện
được quyền khiếu nại và thời hiệu khiếu nại vẫn còn.

Ví dụ: Ông Minh biết sự việc trên một vài ngày thì ông bị ốm phải
điều trị dài ngày tại bệnh viện hoặc ông có việc đột xuất phải đi xa…
Trường hợp 2: Mô tả tình huống đã nêu: Để tránh phải trả tiền chi phí
bán đấu giá ngày 14/4/2018 ông Minh, ông Hai đã thỏa thuận bán cho bà
Hoa để lấy tiền thi hành án.
Theo quy định tại Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy
định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án thì Điều 5 có quy định về thỏa thuận thi hành án như sau:
Các đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nhưng việc
thỏa thuận không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác.
Trường hợp vụ việc đang do cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
chấp hành viên lập biên bản ghi rõ nội dung thỏa thuận, nếu các đương sự
không tự nguyện thi hành theo đúng nội dung thỏa thuận thì cơ quan thi
hành án căn cứ nội dung bản án, quyết định để tổ chức thi hành.
Khoản 1, điều 44 Pháp lệnh thi hành án dân sự quy định: Giao tài sản
để thi hành án: Trong trường hợp người được thi hành án, người phải thi
hành án thỏa thuận để người được thi hành án nhận tài sản đã kê biên để trừ
vào số tiền được thi hành án thì Chấp hành viên lập biên bản và giao tài sản
đó cho người được thi hành án trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc
(kể từ ngày thỏa thuận).
Vậy đối chiếu với khiếu nại thứ nhất của ông Minh:
Chi cục thi hành án dân sự huyện X tự bán tài sản nhà đất của gia
đình ông, ông và gia đình không biết, không ký văn bản giấy tờ nào.
Trường hợp này khiếu nại được chấp nhận vì 2 lý do sau đây:

- 10 -


1. Người được thi hành án là ông Hai, người phải thi hành án là ông

Minh, thỏa thuận với người thứ ba là bà Hoa, Chấp hành viên thi hành án
dân sự huyện X đã áp dụng luật tương tự như việc thỏa thuận với người
được thi hành án. Như vậy việc thỏa thuận trên hoàn toàn là đúng theo quy
định của pháp luật, nhưng trong biên bản giao tài sản cho bà Hoa ngày
28/4/2009 ông Minh không ký biên bản, như vậy biên bản giao tài sản bên
giao đã không giao (không ký) do vậy thỏa thuận trước đây của các bên
đồng nghĩa bị hủy bỏ như vậy: “Nếu các đương sự không tự nguyện thi
hành theo đúng nội dung thỏa thuận thì cơ quan Thi hành án căn cứ nội
dung bản án, quyết định để tổ chức thi hành”. Theo đúng quy định tại điều
5 Nghị định 173/2004.
2. Tại khoản 1 điều 22 của Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày
14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo
thi hành án, quy định như sau:
Việc nhận quyền sử dụng đất đã kê biên, định giá kể cả quyền sử
dụng đất có tài sản gắn liền với đất trước khi đấu giá được giải quyết theo
quy định: Trường hợp người phải thi hành án đồng ý cho người được thi
hành án nhận quyền sử dụng đất đã kê biên để thi hành án và người được thi
hành án đồng ý nhận quyền sử dụng đất đã kê biên để thi hành án và người
được thi hành án đồng ý nhận quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên lập
biên bản về việc thỏa thuận đó, ra quyết định công nhận việc người được thi
hành án nhận quyền sử dụng đất đã kê biên để làm thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho người nhận quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai.
Qua xem xét hồ sơ thi hành án vụ việc trên, chấp hành viên giải quyết
vụ việc đã chưa ra quyết định công nhận việc người được thi hành án nhận
quyền sử dụng đất đã kê biên hay quyết định công nhận sự thỏa thuận và và
quyết định đó phải gửi cho người được thi hành án, người phải thi hành án,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định. Như vậy việc giải
quyết của Chấp hành viên trong vụ việc trên vi phạm thủ tục về thi hành án,
vì thế việc ông Minh khiếu nại tài sản của ông đã bán cho bà Hoa và được

pháp luật công nhận là có căn cứ và còn thời hiệu (ông Minh chưa nhận
được quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan thi hành án cho

- 11 -


bà hao, đây là căn cứ công nhận tài sản đã bán là quyền sở hữu của người
mua là bà Hoa), đương nhiên khiếu nại của ông Minh còn thời hiệu (chưa
nhận, chưa biết được quyết định) cơ quan thi hành án thụ lý giải quyết đơn
của ông Minh theo trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền.
5. Lựa chọn phương án giải quyết
Sau khi nhận đơn khiệu nại của ông Minh ngày 10/8/2010 Chi cục thi
hành án huyện X đã có công văn trả lời ông Minh theo phương án 1 điều
141- khoản 4 là: Đơn khiếu nại của ông Minh không được thụ lý giải quyết
là “thời hiệu khiếu nại đã hết”.
Theo tôi lựa chọn trường hợp 2 – phương án 2: Bởi vì: ông Minh
khiếu nại vụ việc trên hoàn toàn có căn cứ và còn thời hiệu, phải thụ lý và
giải quyết theo trình thự thủ tục quy định tại mục 1 chương III của Quy chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự. Ban hành theo theo quyết
định số 1420/QĐ-KNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục thi
hành án dân sự.
6. Những kiến nghị đề xuất:
Từ tình huống giải quyết khiếu nại, tố cáo thực tế trên qua nghiên cứu
tôi xin đề xuất một số vấn đề như sau:
1. Triệt để tuân thủ quy định về trình tự thủ tục trong giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
2. Khi giải quyết một vụ việc cụ thể thì các công việc cần thiết phải
làm là:
Tóm tắt các nội dung khiếu kiện:

+ Chuẩn bị các giấy tờ cần thiết và tìm các văn bản pháp luật có liên
quan đến vấn đề cần giải quyết.
+ Tiến hành thẩm tra, xác minh các tình tiết, chứng cứ qua thực tế
một cách khách quan đa chiều.
+ Cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải tham mưu
cho thủ trưởng đơn vị một phương án chính xác nhất.

- 12 -


+ Để giải quyết khiếu nại, tố cáo được triệt để, thủ trưởng đơn vị giải
quyết khiếu nại, tố cáo phải quán triệt các quan điểm của Đảng về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi
trọng công tác khiếu nại, tố cáo của công dân. Vấn đề này không chỉ là mục
tiêu mà còn là động lực thúc đẩy, tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện
pháp luật nói chung và khiếu nại, tố cáo nói riêng; phải thường xuyên quan
tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

- 13 -


Phần thứ III – KẾT LUẬN
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ công chức
đề nghị cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ công chức
khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, việc khiếu nại xảy ra khi
có tranh chấp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan, tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao thẩm quyền để thực hiện quyền lực Nhà nước.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam quy định “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc
bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Nghiêm cấm việc trả
thù người khiếu nại tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu
khống, vu cáo làm hại người khác. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước và lợi ích hợp pháp của tập thể công dân phải được kịp thời xử lý
nghiêm minh”.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự được đề
cập tại điều 44 – Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, được quy định từ
điều 59 đến điều 62 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Luật thi hành án dân sự năm 2008 dành 20 điều (từ điều 141 đến điều
159) quy định về trình tự thủ tục khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố
cáo về thi hành án dân sự. Như vậy quyền khiếu nại tố cáo của đương sự
trong lĩnh vực thi hành án dân sự coi trọng và quy định cụ thể hơn, đó là sự
thay đổi lớn, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân và thể hiện nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ tư
pháp.
Tình hình xã hội diễn biến như vậy cho nên công tác thi hành án dân
sự trong những năm qua gặp không ít khó khăn, số lượng thi hành ngày
càng tăng, tồn đọng ngày càng nhiều. Người phải thi hành án có thể họ

- 14 -


không còn tài sản gì hoặc có thể họ trốn tránh thi hành án bằng cách không
đứng tên chủ sở hữu một tài sản nào.
Khi cơ quan thi hành án kê biên tài sản của họ xảy ra rất nhiều khiếu

kiện, việc khiếu nại như của ông Minh ở tình huống trên không phải là ít.
Nếu việc kê biên, bán tài sản của ông Minh mà đủ thi hành khoản tiền
phải trả cho ông Hai thì sẽ không có những khiếu kiện như trên.
Ngày nay, những quy định của pháp luật về khiếu nại đã ngày càng
hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện một trong những
quyền cơ bản của mình, phát huy dân chủ, bảo về quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính Nhà nước,
nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo.

- 15 -


Lời cảm ơn ./.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu chương trình Chuyên viên quản
lý Nhà nước tại trường chính trị Nguyễn văn Cừ, đã được các thầy cô giáo
của trường truyền đạt cho những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước dành
cho chuyên viên, và giúp tôi hoàn thành bản tiểu luật này.
Tuy nhiên bản thân, năng lực còn nhiều hạn chế, công việc chuyên
môn của cơ quan còn bận, thời gian dành cho nghiên cứu, đi thu thập tài
liệu, văn bản không nhiều, nên không tránh khỏi những thiếu sót trong khi
viết và hoàn thành tiểu luận.
Bản thân mong muốn được sự đóng góp, giúp đỡ hơn nữa của các
thầy cố giáo để giúp tôi nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng
quản lý Nhà nước, ngày càng hoàn thiện bản thân mình góp phần vào công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu đẹp.
Xin chân thành cảm ơn ./.

- 16 -



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 1992( sửa đổi năm 2001).
2. NĐ 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004
3. NĐ 173/2004/NĐ-CP ngày 13/7/2009
4. QĐ số 1420/QĐ-GQKNTC ngày 1/6/2010
5. Pháp lệnh thi hành án năm 2004
6. Bộ luật Dân sự năm 2005.
7. Tài liệu bồi dưỡng về quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên
do Học viện Hành chính xuất bản năm 2010.

- 17 -



×