Tải bản đầy đủ (.docx) (252 trang)

Đề cương chi tiết quản lý công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.79 KB, 252 trang )

1

Chương 1.
KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG VÀ KHOA HỌC QUẢN LÝ CÔNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG

1.1.1. Khái niệm quản lý công
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là tác động có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thể
quản lý tối đối tượng quản lý để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu
của tổ chức trong điều kiện môi trường biến đổi.
Từ định nghĩa này, có thể thấy rằng:
- Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, đó
là quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý.
- Quản lý là tác động có ý thức
- Quản lý là tác động bằng quyền lực
- Quản lý là tác động theo quy trình
- Quản lý là phối hợp các nguồn lực
- Quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung
- Quản lý tồn tại trong một môi trường luôn biến đổi
Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản lý, cách
thức quản lý (có ý thức, bằng quyền lực, theo qui trình) và môi trường quản lý.
Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau để hình thành nên quy luật và
tính quy luật quản lý.
1.1.1.2. Khu vực công
Quản lý công gắn liền với phạm vi hoạt động trong khu vực công. Theo
nghĩa rộng, khu vực công là tổng thể các nhu cầu của cư dân xã hội về dịch vụ
công, hàng hóa công đòi hỏi phải được đáp ứng và hệ thống các cơ quan, tổ chức



2

công của nhà nước thực hiện việc quản lý sản xuất và cung ứng dịch vụ công, các
hàng hóa công cộng và một phần các loại hàng hóa cá nhân dưới hình thức công
cộng đáp ứng nhu cầu chung của xã hội.
Khu vực công bao gồm hai phân hệ hợp thành: Các chủ thể có trách nhiệm
tạo ra và cung ứng các dịch vụ công, hóa hóa công cộng cho xã hội (các cơ quan
quản lý vĩ mô nhà nước các cấp và đội ngũ cán bộ công chức với các hoạt động
tương ứng – công vụ, có trách nhiệm quản lý việc tổ chức sản xuất và cung ứng
dịch vụ công, hàng hóa công cộng; các tổ chức công thực hiện việc sản xuất các
dịch vụ công, hàng hóa công cộng); và hệ thống các dịch vụ công, hàng hóa công
cộng đòi hỏi chủ thể bên cung ứng phải đáp ứng.
Theo nghĩa hẹp, khu vực công là khu vực bao gồm toàn bộ hệ thống các cơ
quan, tổ chức công có nhiệm vụ quản lý sản xuất, cung ứng dịch vụ công, hàng hóa
công cộng cho xã hội.
Tựu chung lại, khu vực công là khu vực hoạt động do nhà nước làm chủ sở
hữu, nhà nước đầu tư vốn, trực tiếp thực hiện hoặc một phần do tư nhân đầu tư,
tiến hành có sự trợ giúp tài chính của nhà nước và được nhà nước quản lý nhằm tạo
ra các sản phẩm và dịch vụ phục vụ nhu cầu chung thiết yếu của xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm Quản lý công
Thuật ngữ quản lý công xuất hiện ở các nước tư bản phát triển từ khoảng
đầu thế kỷ XX nhưng chỉ được sử dụng tương đối rộng rãi vào khoảng những năm
1960. Đây là giai đoạn các nhà nghiên cứu hành chính tập trung vào việc chuyển từ
nghiên cứu chủ yếu khía cạnh hình thành chính sách trong hoạt động của nhà nước
sang nghiên cứu khía cạnh quản lý. Các nguyên tắc và phương pháp quản lý như
quản lý tài chính và ngân sách, quản lý nguồn nhân lực… bắt đầu được sử dụng


3


phổ biến trong hoạt động hành chính nhà nước để hướng vào việc đảm bảo hiệu
lực và hiệu quả hoạt động.
Quản lý công thực sự bùng nổ vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX
cùng với sự chuyển đổi từ mô hình hành chính công truyền thống sang mô hình
quản lý công mới.
Quản lý công là sự tác động có tổ chức và bằng pháp luật của bộ máy nhà
nước đối với khu vực công nhằm đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho mọi người
dân một cách công bằng, ổn định, hiệu quả và phi lợi nhuận.
Quản lý công là một bộ phận quan trọng của quản lý nhà nước đối với xã hội
nói chung.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động quản lý công
- Quản lý công là hoạt động phổ biến và cần thiết trong mọi xã hội.
Trong xã hội, khi hình thành hoạt động cộng đồng là cần sự hợp tác, phối
hợp. Muốn cho hoạt động chung của xã hội đạt hiệu quả cao thì cần thiết phải quản
lý. Hoạt động quản lý ban đầu có thể là rất đơn giản, và chủ thể tham gia quản lý
cũng chưa có sự phân biệt một cách rõ ràng với các cá nhân còn lại trong cộng
đồng. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội loài người, sự xuất hiện của các mô
hình, các phương pháp và công nghệ mới trong sản xuất, cũng với tính chất phức
tạp của các quan hệ xã hội cũng như quan hệ sản xuất, hoạt động quản lý trở nên
phổ biên và ngày càng cần thiết, thậm chí có thể coi là hoạt động không thể thiếu
trong các quá trình sản xuất và quá trình xã hội mặc dù hoạt động quản lý đương
nhiên không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất.
- Chủ thể và đối tượng của hoạt động quản lý công phải gắn liền với khu
vực công.


4

Chúng ta nói hoạt động quản lý cũng như khoa học quản lý nói chung là một
hoạt động hay một khoa học tổng hợp. Quản lý công phân biệt với các khoa học

quản lý chuyên ngành cũng như quản lý nói chung ở chỗ đối tượng mà khoa học
này hướng tới là các quan hệ quản lý trong khu vực công. Ở đó, chủ thể của quá
trình quản lý thường phải là các cơ quan công quyền, đối tượng hướng đến của
hoạt động quản lý công là đa số nhân dân và các nguồn lực được huy động cũng
như được quản lý là các nguồn lực công, thuộc sở hữu của quốc gia.
- Quản lý công là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ
thuật.
Tính khoa học của hoạt động quản lý công thể hiện ở chỗ, hoạt động quản lý
phải được xây dựng trên cơ sở những tri thức khách quan chứ không phải là ý
muốn chủ quan của người quản lý. Nói cụ thể hơn, những quyết định quản lý,
những nguyên tắc quản lý, quy trình quản lý… không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm,
thói quen mà phải tuân theo quy luật khách quan của đời sống xã hội. Tính nghệ
thuật thể hiện ở chỗ, muốn cho hoạt động quản lý mang lại hiệu quả cao thì ngoài
việc phải thực thi nó một cách khoa học thì cần phải vận dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo, phù hợp với các hàm biến số xác định. Mặt khác quản lý là hoạt động gắn
liền với con người cho nên trong nhiều trường hợp, đây là quá trình giải quyết các
mối quan hệ giữa những con người trong cùng một tổ chức. Điều đó đòi hỏi sự
mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo đến tầm một nghệ thuật.
Tính khoa học và tính nghệ thuật không loại trừ nhau mà chúng thống nhất
hữu cơ với nhau. Đó là mối quan hệ cộng sinh, cộng trưởng. Tính khoa học thể
hiện rõ nét hơn ở những khía cạnh liên quan tới các nguyên tắc quản lý, quy trình
quản lý; tính nghệ thuật thể hiện rõ nét hơn ở các khía cạnh liên quan đến phương
pháp quản lý, phong cách, nghệ thuật quản lý.


5

1.1.3. Chủ thể và đối tượng của Quản lý công
1.1.3.1. Chủ thể quản lý công
* Chủ thể quản lý

Là nhân tố đặc biệt quan trọng của mọi hoạt động quản lý và của mọi hệ
thống quản lý, chủ thể quản lý có những đặc trưng cơ bản:
- Chủ thể quản lý là nhân tố tạo ra các tác động quản lý
Các tác động quản lý tồn tại ở nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. Nó có
thể là mục tiêu, nội dung, phương thức quản lý; cũng có thể là các nguyên tắc,
phương pháp, phong cách và nghệ thuật quản lý. Hay ở một bình diện khác là các
quyết định quản lý. Hiệu quả quản lý của các tổ chức tùy thuộc phần lớn vào chất
lượng của các tác động quản lý đó. Việc tạo ra các tác động quản lý lại tùy thuộc
vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Cách thức tạo lập các tác động
quản lý lại tùy thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Cách thức tạo
lập các tác động quản lý quy định tính chất và các mô thức quản lý xác định.
- Chủ thể quản lý có một quyền lực nhất định
Quyền lực là sức mạnh được thừa nhận. Nó là công cụ và phương tiện không
thể thiếu của chủ thể quản lý. Nhờ có quyền lực, chủ thể quản lý mới tạo ra được
các tác động quản lý để điều khiển và điều chỉnh hành vi của thuộc cấp. Tuy nhiên
việc sử dụng quyền lực như thế nào là một vấn đề quan trọng, có vai trò quyết định
tới việc hình thành văn hóa quản lý và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả của quản lý.
- Chủ thể quản lý tồn tại ở nhiều quy mô và tầng nấc khác nhau.
Chủ thể quản lý có thể là một người, một nhóm người hoặc là một tổ chức
và tồn tại ở các tầng nấc khác nhau. Với các tổ chức nhỏ, chủ thể quản lý có thể là


6

một người; với tổ chức lớn chủ thể quản lý có thể là một nhóm người; với một
quốc gia, khu vực… chủ thể quản lý là một tổ chức người. Chủ thể quản lý tồn tại
dưới các cấp độ: cấp cao, cấp trung, cấp thấp.
Các hình thức và cấp độ tồn tại của chủ thể quản lý được biểu hiện ở các
tuyến quyền lực (ngang – dọc; trên – dưới) và có quan hệ tác động lẫn nhau từ đó
tạo nên tính phức tạp của cơ chế quản lý. Việc thiết lập các mối quan hệ quyền lực

và phối hợp hoạt động giữa chúng một cách hợp lý là tạo ra cơ chế quản lý khoa
học và là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt dộng của các tổ chức.
- Chủ thể quản lý phải có những năng lực và phẩm chất nhất định
Chủ thể quản lý có thể được phân thành ba cấp độ cơ bản (quản lý cấp cao,
cấp trung và cấp thấp) song dù ở cấp nào, chủ thể quản lý cũng cần phải có những
năng lực và phẩm chất cơ bản.
Năng lực chuyên môn: Đó là những tri thức cơ bản về chuyên môn liên quan
tới lĩnh vực mà người quản lý phụ trách.
Năng lực làm việc với con người: Đó là khả năng của họ và thừa nhận
những giá trị khác biệt.
Năng lực tư duy, bản lĩnh và phương pháp tổ chức công việc khoa học: Đó là
khả năng nhìn xa, trông rộng, hay có tầm nhìn chiến lược và hiện thực hóa nó trong
thực tiễn. Chủ thể quản lý phải có tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Những nhóm năng lực và phẩm chất trên không phải do bẩm sinh mà chỉ có
thể được hình thành thông qua quá trình học tạp, nghiên cứu và trải nghiệm trong
thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình đào tạo để có được các nhà quản lý vừa có tâm
vừa có tầm thì phải lưu ý tới các lĩnh vực tri thức khoa ọc phù hợp và phải chú
trọng tới vai trò của thực tiễn quản lý.


7

- Chủ thể quản lý có lợi ích xác định
Lợi ích của chủ thể quản lý có thể thống nhất hoặc đối lập với lợi ích của đối
tượng quản lý. Điều đó tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Song, tính chất của quan hệ lợi ích đóng vai trò quyết định tới tính chất của hoạt
động quản lý và hiệu quả của nó. Thực tiễn quản lý đã chứng minh rằng, khi lợi ích
của chủ thể đối lập với lợi ích của đối tượng thì hoạt động quản lý bị “biến dạng”
thành hoạt động cai trị hoặc thống trị. Khi lợi ích của chủ thể thống nhất với lợi ích
của đối tượng thì hoạt động quản lý mới được biểu hiện theo đúng nghĩa của nó.

Tuy nhiên, để có sự thống nhất về lợi ích giữa chủ thể và đối tượng thì phải trải qua
một quá trình vận động, biến đổi và phát triển lâu dài của xã hội.
* Chủ thể quản lý công
Chủ thể quản lý công là nhà nước và tùy thuộc vào thể chế của mỗi quốc gia,
chủ thể quản lý công có thể chỉ là chính phủ - cơ quan hành pháp của nhà nước, có
thể là sự gắn kết hỗn hợp các cơ quan quyền lực nhà nước.
1.1.3.2. Đối tượng của Quản lý công
* Đối tượng của quản lý
Với tư cách là những con người hiện thực và là nhân tốt quan trọng của hệ
thống quản lý, đối tượng quản lý có những đặc trưng cơ bản sau:
- Đối tượng quản lý là những người tiếp nhận các tác động quản lý và có thể
tham gia ở mức độ nhất định việc tạo lập các tác động quản lý.
Khi tiếp nhận các tác động quản lý, đối tượng quản lý có thể “chấp nhận”
hay “không chấp nhận” và dẫn tới “hưng phấn” hay “ức chế” điều đó phụ thuộc
vào nội dung của những tác động quản lý mà chủ thể đưa ra. Tuy nhiên, không


8

phải cứ nội dung của những tác động quản lý khách quan, đúng đắn thì sẽ được đối
tượng quản lý chấp nhận và tạo ra sự hưng phấn ở họ. Chính vì vậy, chủ thể quản
lý ngoài việc lưu ý tới nội dung của các tác động quản lý thì còn phải quan tâm tới
hình thức và phương thức tác động tới đối tượng quản lý.
Khi tham gia ở mức độ nhất định việc tạo lập các tác động quản lý, đối
tượng quản lý có thể không có đóng góp, đóng góp ít hoặc đóng góp nhiều, song
việc tham gia đó là hết sức có ý nghĩa. Chủ thể quản lý nên sử dụng phong cách
quản lý dân chủ để phát huy trí tuệ của cấp dưới trong việc xây dựng quyết định
quản lý vì việc thực hiện nó sẽ có hiệu quả cao hơn khi đối tượng quản lý được cọi
là “người trong cuộc”.
- Đối tượng quản lý là những con người có khả năng tự điều chỉnh hành vi

của họ.
Chủ thể quản lý không vì có quyền lực là sử dụng nó tùy tiện để tác động
vào đối tượng quản lý bởi vì họ không phải là những “công cụ biết nói”, chỉ biết
“vâng lệnh” và tuân phục mà đối tượng quản lý là những chủ thể hoạt động có ý
thức, có động cơ và mang tính sáng tạo. Chính vì vậy chủ thể quản lý phải tác động
tới đối tượng quản lý một cách có ý thức, bằng quyền lực và theo quy trình. Đồng
thời, chủ thể quản lý phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng,
trình độ của đối tượng quản lý để đưa ra các tác động phù hợp. Có như vậy thì mới
thiết lập được sự thống nhất giữa vai trò điều chỉnh của chủ thể với khả năng tự
điều chỉnh của đối tượng quản lý.
- Đối tượng quản lý là một tổ chức xác định
Tổ chức là sự tập hợp và liên kết của các thành viên theo một cách thức xác
định, là sự phối hợp các hoạt động để thực hiện mục tiêu chung. Tổ chức có thể


9

phân chia thành tổ chức chính thức – phi chính thức; tổ chức kinh tế - chính trị văn hóa – xã hội …
Bất cứ tổ chức nào đều có những yếu tố cơ bản: Mục tiêu, cơ cấu, nguồn
nhân lực, hệ thống chính sách, hệ thống thông tin, hệ thống cơ sở vật chất – kỹ
thuật, công nghệ và văn hóa tổ chức.
Chủ thể quản lý tác động tới đối tượng quản lý với tư cách là tổ chức như
vậy sẽ bao chứa nhiều nội dung và nhiều cấp độ. Tuy nhiên, tổ chức là một hệ
thống toàn vẹn song nhân tố con người đóng vai trò quyết định. Vì vậy, hệ thống
hợp tác xã hội với các nhân tố chức năng xã hội và tâm lý xã hội cần được đặc biệt
lưu ý. Việc tạo lập các chức năng xã hội và tâm lý xã hội hợp lý đóng vai trò quyết
định đối với thành công của quản lý.
- Đối tượng quản lý là những con người có phẩm chất và năng lực nhất định.
Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đối tượng quản lý phải căn cứ
vào mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Để có những năng lực đáp ứng

công việc tổ chức, đối tượng quản lý không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm, thói
quen, mà phải được đào tạo ở những nội dung và hình thức phù hợp. Chỉ có những
người có tri thức, kỹ năng, thái độ và trách nhiệm cao mới có thể đáp ứng được yêu
cầu của công việc.
- Đối tượng quản lý có lợi ích xác định.
Đối tượng quản lý là những con người khác nhau về tình cảm, nhu cầu, lợi
ích … Song, khi làm việc trong một tổ chức, họ sẽ được liên kết lại để thực hiện
mục tiêu chung của tổ chức. Lợi ích của các thành viên có thể đối lập hoặc thống
nhất với lợi ích của chủ thể quản lý. Điều đó tùy thuộc vào việc xác lập nội dung
của mục tiêu chung. Chỉ có sự thống nhất về lợi ích giữa đối tượng quản lý với chủ


10

thể quản lý thông qua mục tiêu chung thì mới tạo nên động lực cho sự phát triển
của tổ chức, và ngược lại.
* Đối tượng của quản lý công
Đối tượng của quản lý công là khu vực công bao gồm hai phân hệ và mối
quan hệ biện chứng giữa các phân hệ này, trong đó bao gồm: Các cơ quan chức
năng quản lý cung ứng dịch vụ công và hàng hóa công cộng và các tổ chức công
trực tiếp tạo ra dịch vụ công và hàng hóa công cộng – đại diện cho bên cung về
dịch vụ công và hàng hóa công cộng; Khách hàng tiêu dùng dịch vụ công, đó là
toàn bộ cư dân xã hội với các nhu cầu về dịch vụ công và hàng hóa công cộng –
đại diện cho bên cầu về dịch vụ công và hàng hóa công cộng.
1.1.4. Vai trò của quản lý công
Quản lý công của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ và hàng hóa
công có vai trò vô cùng quan trọng, nó liên quan đến sự sống còn và phát triển của
nhà nước, của chế độ xã hội, góp phần chủ yếu vào việc thực hiện các mục tiêu
phát triển chung của đất nước. Vai trò này thể hiện như sau:
- Quản lý công hiệu quả sẽ tạo ra được niềm tin, lý tưởng, sự gắn kết mọi

người dân với nhà nước và chế độ xã hội, đặc biệt là việc cung ứng các dịch vụ
phối hợp.
- Quản lý công góp phần trực tiếp nâng cao đời sống của nhân dân, phát
triển sức sản xuất.
- Quản lý công góp phần điều chỉnh sự phát triển chênh lệch trong nước tạo
thế phát triển bền vững cho quốc gia.


11

- Quản lý công góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
- Quản lý công góp phần tạo ra nguồn nhân lực to lớn cho xã hội, một tài
nguyên vô giá cho sự phát triển của tương lai.
- Quản lý công góp phần tạo ra cơ chế hoạt động tích cực của hệ thống các
cơ quan chức năng quản lý công, các tổ chức công và đội ngũ cán bộ công chức
phục vụ trong các cơ quan và tổ chức này, nhờ đó tạo ra được sự đồng thuận của xã
hội, sự gắn kết giữa người dân và nhà nước.
1.1.5. Phân biệt quản lý công với các khái niệm có liên quan
1.1.5.1. Quản lý công với Hành chính công
Thuật ngữ ‘hành chính’ (administration) có nghĩa hẹp hơn so với thuật ngữ ‘quản
lý’ (management). Trong lĩnh vực công, ‘hành chính công’ (public administration)
và ‘quản lý công’ (public management) cũng có ý nghĩa khác nhau. Hành chính
công đề cập đến thủ tục, quy trình để thực hiện chính sách đã được hoạch định bởi
người khác thành hành động cụ thể trong thực tế quản lý, điều hành. Trong khi đó
quản lý công được hiểu theo nghĩa rộng hơn, ngoài việc bao gồm quy trình, thủ tục
hành chính, quản lý công còn liên hệ tới việc xác định ai, tổ chức nào sẽ thực hiện
và chịu trách nhiệm về việc đảm bảo đạt được mục tiêu, kết quả mà nhà hoạch định
chính sách đã đề ra. Vì vậy, sự thay đổi từ ‘hành chính công’ sang ‘quản lý công’
được coi là sự thay đổi lớn về học thuyết và thực tế trong việc quản lý đối với lĩnh

vực công. Ngày nay, thuật ngữ Quản lý công được sử dụng phổ biến, ngược lại
Hành chính công ít được sử dụng hơn. Hành chính công cũng được dùng để chỉ
Quản lý công truyền thống phát triển trong thể kỷ 20 đối lập với Quản lý công mới
nỗi lên từ cuối những năm 1980.


12

1.1.5.2. Quản lý công với Quản lý tư
Vấn đề tranh luận về sự khác biệt giữa quản lý công và quản lý tư dù đã kéo
dài khá lâu nhưng cho đến nay, những tranh luận này vẫn có nguy cơ kéo dài bất
tận. Thông thường, người ta cho rằng “Phương thức quản lý tư thì hướng về thành
tích của hiệu năng kinh tế như được quy định ở thị trường còn phương thức quản lý
công thì hướng về lợi ích công cộng như được quy định ở các cuộc hội thảo chính
trị”. Hiện nay, khi phân biệt quản lý công và quản lý tư, có nhiều tiêu chí nhưng về
cơ bản người ta nhấn mạnh mặt kinh tế, chủ yếu là những quan hệ của những tổ
chức và những nhà lãnh đạo với thị trường, theo đó chỉ ra rằng: đối với các xí
nghiệp tư doanh thì chính thị trường có mặt khắp nơi, nó vừa là nơi tiêu thụ sản
phẩm, vừa là nguồn cung cấp nguyên liệu, vừa là tiêu chuẩn mang lại thành công
hay thất bại. Đối với những tổ chức công thì mối quan hệ với thị trường được nới
lỏng hơn nhiều vì tuân thủ một qui tắc logic khác biệt dựa hoàn toàn vào quyền lực
nhà nước, tức là khả năng áp đặt những điều kiện một cách đơn phương. Người
viên chức nhà nước chỉ có thể hành động khi được phép do một đạo luật hoặc do
những quy chế, không những đề ra những mục tiêu làm phương hướng mà còn chỉ
những những biện pháp để đạt tới đích nữa. Người viên chức không thể khởi
xướng sáng kiến kể cả nếu khi viên chức đó tin chắc là sáng kiến này cho phép đạt
được dễ dàng những mục tiêu mà Chính phủ đề ra. Sự cần thiết phải luôn luôn dựa
theo một cái khung hợp pháp trong lĩnh vực quản lý thông thường những chương
trình công, áp đặt một sự cứng rắn không có ở doanh nghiệp tư.
Bên cạnh yếu tố kinh tế, quản lý công và quản lý tư còn được phân biệt với

nhau bởi yếu tố pháp lý và yếu tố chính trị của nó.
Cũng phải nói rằng, nếu như trong quá khứ, người ta có thể phân biệt dễ
dàng những phương thức hoạt động cũng như những mục tiêu của khu vực công và


13

khu vực tư thì từ vài năm nay, người ta chứng kiến một sự thâm nhập lẫn nhau một
cách có ý nghĩa giữa hai phương thức hoạt động của hai khu vực. Một mặt, các
doanh nghiệp tư không còn theo đuổi lợi nhuận tối đa với nhiệt tình mạnh mẽ như
trước kia nữa, thậm chí những doanh nghiệp này còn tiến tới chỗ thừa nhận có một
trách nhiệm xã hội kéo chúng lại gần với những mục tiêu phục vụ lợi ích công. Mặt
khác, chính phủ khi phân tích một cách tương đối về thành tích kinh tế của mình
trong cách phân phối những dịch vụ công của mình đang tìm cách phỏng theo cách
thực hành quản lý của khu vực tư kể cả việc ủy thác cho các doanh nghiệp tư sản
xuất những của cải công với những điều kiện nào đó nữa.
Mặc dù có những hiện tượng xích lại gần nhau như vậy, thì vẫn có một sự
khác biệt chủ yếu, tức là phía tư doanh đang tìm kiếm mức sống sung túc cho một
cá thể hoặc cho một nhóm nhỏ hẹp những cá thể, trong khi cơ cấu công thì lại
nhằm thỏa mãn lợi ích tổng thể và mức sống sung túc của đa số trong cộng đồng,
khi mà sự khác biệt này thể hiện trên bình diện quản lý bằng những thái độ rất khác
nhau.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ KHOA HỌC QUẢN LÝ CÔNG

1.2.1. Quan niệm Khoa học quản lý công
Quản lý công là một môn học nghiên cứu toàn bộ các vấn đề nảy sinh và
phát triển trong khu vực công.
Khoa học quản lý công là một ngành khoa học quản lý chuyên ngành bao
gồm hệ thống những khái niệm, phạm trù, những quan nhiệm về ngành quản lý
công được phân bổ, sắp xếp theo một trình tự logic nhất định cấu thành khoa học

quản lý công.


14

Quản lý công là một khoa học nghiên cứu toàn bộ những vấn đề cơ bản có
liên quan đến thực tiễn quản lý trong lĩnh vực công, quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý để tìm ra những quy luật của các quá trình và hiện tượng này, từ đó
giúp cho các chủ thể quản lý có thể tìm ra những biện pháp, công cụ, phương thức
để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
1.2.2. Đối tượng nghiên cứu
Bất kỳ một bộ môn khoa học nào cũng đều có đối tượng nghiên cứu, hệ
thống phạp trù và phương pháp nghiên cứu, đó là những cơ sở để phân biệt khoa
học này với khoa học khác. Ngày nay, xu thế phân chia và tổng hợp các bộ môn
khoa học đã hình thành nhiều bộ môn khoa học khác nhau với đối tượng nghiên
cứu khác nhau.
Đối tượng của khoa học quản lý công là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ
giữa người với người trong quản lý, quan hệ giữa chủ thể với đối tượng quản lý.
Quản lý công có nhiệm vụ nghiên cứu tìm ra quy luật và tính quy luật của hoạt
động quản lý, từ đó xác định các nguyên tắc, chính sách, công cụ, phương pháp,
các hình thức tổ chức quản lý để không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng
quản lý, đảm bảo quản lý một cách khoa học.
Có thể khái quát lại, đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý công là các
vấn đề mang tính quy luật giữa hai phân hệ cầu về dịch vụ công, cung về dịch vụ
công và mối quan hệ biện chứng giữa hai khu vực này để tìm ra những cách thức tổ
chức và đáp ứng tốt nhu cầu về dịch vụ công của xã hội mà nhà nước là chủ thể
bên cung phải đáp ứng.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của khoa học quản lý công
1.2.3.1. Chức chăng



15

- Phát hiện, dự báo những quy luật phát sinh và biến động trong quá trình
quản lý, đặc biệt là trong quan hệ giữa các chủ thể quản lý với đối tượng của nó.
- Hình thành hệ thống tri thức có tính lí luận, có căn cứ khoa học và thực
tiễn về những sự kiện, hiện tượng nảy sinh trong quá trình quản lý.
1.2.3.2. Nhiệm vụ
* Đối với các nhà quản lý
Khoa học quản lý cung cấp những tri thức cơ bản, cốt lõi về quản lý liên
quan tới: yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người quản lý; vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ cơ bản của nhà quản lý; trang bị những kiến thức về nguyên tắc
quản lý, về quy trình quản lý (những bước cơ bản của quá trình lập kế hoạch, ra
quyết định, những nội dung cơ bản của công tác tổ chức, những phương pháp quản
lý và phong cách quản lý, những loại hình và phương pháp kiểm tra được sử dụng
trong thực tiễn); những nội dung cơ bản của quy trình thông tin trong quản lý…
* Đối với việc nghiên cứu và giảng dạy ngành khoa học quản lý công
Khoa học quản lý công trang bị hệ thống tri thức để làm cơ sở nền tảng cho
việc đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực quản lý chuyên sâu hoặc là các lĩnh vực của
khoa học quản lý chuyên ngành.
Trong công tác nghiên cứu và giảng dạy nói chung và trong lĩnh vực nghiên
cứu và giảng dạy ngành quản lý công, thường người ta vẫn phải áp dụng phương
pháp đi từ cái chung đến cái riệng, hay đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, vì đó là
phương pháp nhận thức hữu dụng nhất. Chính vì vậy, để chiếm lĩnh các lĩnh vực
quản lý chuyên sâu và các lĩnh vực thuộc khoa học quản lý chuyên nganh thì phải
nắm vững lý luận chung về quản lý. Khoa học quản lý là một trong những môn


16


khoa học giúp các nhà khoa học có được một trong những phương pháp đặc biệt
quan trọng đã nêu ở trên.
1.2.4. Phương pháp nghiên cứu khoa học quản lý công
Quản lý công với tư cách là một khoa học xã hội, cũng như các khoa học
khác, muốn nhận thức được đối tượng của nó nhất thiết phải vận dụng những
phương pháp nghiên cứu chung và những phương pháp nghiên cứu cụ thể.
1.2.4.1.Các phương pháp chung
Để làm rõ quy luật và tính quy luật của quản lý, Quản lý công phải vận dụng
các phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đó là phương pháp:
- Phương pháp biện chứng duy vật
- Phương pháp logic – lịch sử
- Phương pháp trừu tượng hóa
Các phương pháp này đều được các khoa học khác sử dụng trong nghiên cứu
để nhận thức bản chất đối tượng của chúng. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng
các phương pháp này, mỗi khoa học đều có cách tiếp cận riêng.
* Phương pháp biện chứng duy vật
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp xem xét các sự vật, hiện
tượng và quá trình của thế giới quan trong mối liên hệ tác động qua lại, trong sự
vận động biến đổi và phát triển theo quy luật của chúng.
Quản lý là một trong những hiện tượng, quá trình của thể giới hiện thực. Để
nhận thức bản chất và quy luật của quản lý, Khoa học quản lý công cần thiết phải
vận dụng phương pháp biện chứng duy vât.


17

Bằng phương pháp biện chứng duy vật, quản lý công chỉ ra rằng: quản lý là
một trong những dạng hoạt đọng hoặc lao động đặc biệt của con người. Nhưng nó
không tồn tại biệt lập mà có quan hệ mật thiết với điều kiện kinh tế xã hội ở những
giai đoạn phát triển nhất định. Nói cụ thể hơn, hoạt động quản lý không phải là một

dạng hoạt động quản lý thuần túy tự nó và vì nó. Hoạt động quản lý gắn liền với
các dạng hoạt động cụ thể của con người. Tuy nhiên, trong vô lượng các hoạt động
của con người thì hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định đối với sự
tồn tại và phát triển của con người, của xã hội, đồng thời, nó có ý nghĩa quyết định
đối với tính chất của hoạt động quản lý.
Mặt khác, với tư cách là một dạng hoạt động có tính độc lập tương đối, quản
lý luôn gắn với một tổ chức hay một hệ thống xác định. Hệ thống này bao gồm các
nhân tố bên trong và chịu sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Sự tương tác
của chúng tạo nên quy luật vận động biến đổi và phát triển của quản lý. Đó là sự
biệu hiện của mối liên hệ biên trong của hệ thống quản lý và mối liên hệ giữa hệ
thống quản lý với môi trường quản lý.
Mối quan hệ quản lý được tạo nên bởi sự tác động qua lại giữa chủ thể quản
lý với đối tượng quản lý thông qua các công cụ, phương tiện quản lý để đạt tới mục
tiêu quản lý xác định. Thông qua mối quan hệ quản lý mà hình thành quy luật quản
lý và tính quy luật của quản lý.
Quy luật quản lý thực chất là thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa mục tiêu
quản lý, nội dung quản lý và phương thức quản lý. Tính quy luật quản lý được biểu
hiện ở việc xây dựng và thực thi các nguyên tắc quản lý, quy trình quản lý, các
phương pháp quản lý, phong cách quản lý và nghệ thuật quản lý.
Quy luật quản lý và tính quy luật quản lý xem xét đến cùng là sản phẩm của
“quy luật hoàn cảnh” hay nói cụ thể là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều


18

kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhận thức đúng đắn và vận dụng sang tạo
quy luật quản lý trong thực tiễn là nhân tố cốt lõi quyết định sự phát triển của quản
lý.
* Phương pháp logic – lịch sử
Phương pháp logich – lịch sử còn được gọi là phương pháp kết hợp giữa

logic với lịch sử, hoặc là phương pháp thống nhất giữa logic với lịch sử.
Phương pháp logic là phương pháp xem xét các sự vật, hiện tượng của thế
giới trong mối liên hệ nội tại, tất yếu cũng như những cái chung, cái giống nhau, có
tính lặp lại của sự vận động, biến đổi và phát triển của chúng (xem xét sự vật trong
tính đồng đại của nó, hay là xem xét sự vật về mặt không gian).
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét các sự vật, hiện tượng của thế
giới qua các giai đoạn phát sinh, hình thành, phát triển và tiêu vong của chúng
(xem xét sự vật về mặt lịch đại của nó, hoặc xem xét sự vật về mặt thời gian).
Để nhận thức được bản chất và quy luật của sự vận động, biến đổi và phát
triển của sự vật thì phải kết hợp cả hai phương pháp: phương pháp logic và phương
pháp lịch sử, hay là phương pháp logic – lịch sử.
Bằng phương pháp logic – lịch sử, quản lý công chỉ ra rằng mỗi một loại
hình và cấp độ quản lý đều có quá trình phát sinh, hình thành, phát triển và mất đi
của nó; đồng thời các loại hình quản lý khác nhau (quản lý kinh tế, quản lý hành
chính, quản lý nhân lực …) đều có mối liên hệ nhất định với nhau, đều có những
cái chung, cái giống nhau, cái lặp lại hay là tính quy luật của chúng. Tính quy luật
của chúng được biểu hiện ở chỗ bất cứ loại hình quản lý nào cũng đều phải xác lập
và thực thi mục tiêu quản lý phù hợp, nội dung quản lý đúng đắn và phương thức
quản lý hợp lý. Bất cứ loại hình quản lý nào cũng phải xây dựng và thực hiện các


19

nguyên tắc quản lý, quy trình quản lý, phương pháp quản lý, phong cách quản lý và
nghệ thuật quản lý… Tuy nhiên, những cái chung, cái lặp lại, cái giống nhau đó khi
vận dụng vào các loại hình quản lý cụ thể lại mang những nét đặt thù.
* Phương pháp trừu tượng hóa
Phương pháp trừu tượng hóa là phương pháp xem xét các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan không phải ở tất cả các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của
nó, mà nó gạt bỏ những hiện tượng bên ngoài đa dạng, phong phú những yếu tố

ngẫu nhiên để hướng tới các điển hình, cái cốt lõi nhằm vạch ra bản chất và các
cấp độ bản chất của sự vật.
Phương pháp trừu tượng hóa nếu được vận dụng một cách đúng đắn sẽ là
sức mạnh của tư duy khoa học. phương pháp này không làm cho tư duy xa rời hiện
thực mà giúp hiểu rõ hiện thực ở cấp độ bản chất, quy luât vận động của hiện thực
– điều mà nhận thức cảm tính không làm được.
Nhờ có phương pháp trừu tượng hóa, khoa học quản lý giúp chúng ta nhận
thức được rằng: trong sự đa dạng, phong phú, muôn hình muôn vẻ của các loại
hình và cấp độ quản lý nhưng bản chất của quản lý là biểu hiện mối quan hệ tác
động giữa con người với con người. Tuy nhiên, mối quan hệ đó không phải là mối
quan hệ giữa con người với con người nói chung mà là quan hệ giữa chủ thể quản
lý (người quản lý) với đối tượng quản lý (người bị quản lý). Mặt khác, trong quan
hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thì quan hệ quyền lực là hạt nhân cốt
lõi…
Vận dụng phương pháp trừu tượng hóa, quản lý công đã xác lập những
“mẫu số chung” cho tất cả các lĩnh vực và cấp độ quản lý ở các nội dung liên quan
tới chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nguyên tắc quản lý, quy trình quản lý,
phương pháp quản lý…


20

Chính vì vậy, hệ thống tri thức chung của quản lý công đóng vai trò là cơ sở
lý luận và phương pháp luận cho tất cả các khoa học quản lý chuyên ngành.
1.2.4.2 Các phương pháp cụ thể
Ngoài những phương pháp chung như đã trình bày ở trên, quản lý công còn
sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp phân tích – tổng hợp,
Phương pháp quy nạp – diễn dịch, Phương pháp hệ thống, Phương pháp mô hình
hóa và một số phương pháp khác.
1.2.5. Đặc điểm của Khoa học quản lý công

- Khoa học quản lý công là một hệ thống tri thức phản ánh thực tiễn hoạt
động và các quan hệ trong quản lý công
- Khoa học quản lý công là một khoa học xã hội hành vi
- Khoa học quản lý công mang đậm tính thực tiễn
- Khoa học quản lý công là một khoa học tổng hợp, có quan hệ với nhiều
lĩnh vực tri thức khoa học khác.


21

Chương 2. CHỨC NĂNG VÀ NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ CÔNG
2.1. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ CÔNG

2.1.1. Quan niệm về chức năng trong quản lý công
a. Khái niệm: Do đối tượng và không gian quản lý rộng lớn nên hoạt động
quản lý rất đa dạng và phức tạp. Để thuận lợi cho việc thực hiện các chức năng cần
phải phân định thành các nhóm hoạt động chuyên biệt và giao cho cá nhân, bộ
phận, tổ chức có chuyên môn phù hợp đảm nhận. Đây là quá trình phân công,
chuyên môn hóa lao động và kết quả là hình thành lên các chức năng quản lý. Như
vậy có thể nói, chức năng quản lý là kết quả của chuyên môn hóa và quá trình phân
công lao động.
Chức năng quản lý hành chính nhà nước là những phương diện hoạt động
chuyên biệt của quản lý, là sản phẩm của quá trình phân công, chuyên môn hóa
hoạt động trong lĩnh vực thực thi quyền hành pháp. Chức năng quản lý công là lý
do để tồn tại việc quản lý công của nhà nước. Nói cách khác, vì phải thực hiện các
chức năng quản lý khu vực công mà xã hội mới cần có sự xuất hiện và điều hành
của nhà nước đối với khu vực công.
Để quản lý khu vực công, nhà nước phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác
nhau, các nhiệm vụ này được nhóm lại để hình thành nên các chức năng quản lý
công. Như vậy, có thể hiểu: Chức năng quản lý công của nhà nước là tập hợp tất cả

các nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện để quản lý khu vực công.
b. Đặc điểm:
- Chức năng quản lý của mỗi quốc gia là khác nhau tùy thuộc vào chế độ
chính trị, địa vị pháp lý của hệ thống hành pháp trong mối tương quan với cơ quan
lập pháp và tư pháp.


22

- Các chức năng quản lý được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản quy
phạp pháp luật.
- Các chức năng quản lý đều được phân cấp trong các cơ quan hành chính
nhà nước, các tổ chức sự nghiệp công và các doanh nghiệp nhà nước.
- Phân công chức năng quản lý luôn gắn liền với hợp tác. Phân công, chuyên
môn hóa càng sâu đòi hỏi sự hợp tác càng cao, mối liên hệ càng phải chặt chẽ để
thực hiện các chức năng quản lý.
2.1.2. Các chức năng trong quản lý công
2.1.2.1. Chức năng lập kế hoạch trong quản lý công
Lập kế hoạch là một trong những chức năng cơ bản nhất, phổ biến nhất của
quản lý công. Chức năng này tồn tại và bắt buộc phải tồn tại trong mọi tổ chức
công dù đó là các tổ chức sản xuất, kinh doanh hay các doanh nghiệp, các công ty
xuyên quốc gia. Đó cũng là chức năng của mọi tổ chức, không phân biệt tổ chức đó
hoạt động trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa.
Lập kế hoạch là một trong những công việc khó khăn nhất, phức tạp nhất và
cũng là nơi thể hiện cao nhất năng lực của những nhà quản lý công. Chức năng lập
kế hoạch đòi hỏi vận dụng nhiều loại kiến thức khác nhau về chính trị, kinh tế, xã
hội cũng như một số kỹ năng về lập kế hoạch. Trong chức năng lập kế hoạch, phân
tích và dự báo là kiến thức không thể thiếu được của các nhà quản lý công.
* Tầm quan trọng của việc lập kế hoạch

Trong hoạt động quản lý công, việc lập kế hoạch đóng vai trò quan trọng.
Không có kế hoạch tốt, một tổ chức công không thể xác định chính xác mục tiêu


23

mà mình muốn đạt được và cách thức mà tổ chức công cần làm để đạt tới mục tiêu.
Lập kế hoạch luôn gắn liền với việc lựa chọn phương hướng hành động để đạt tới
mục tiêu của bất kỳ tổ chức nào. Lập kế hoạch không chỉ là chức năng cơ bản của
các nhà quản lý công ở mọi cấp độ mà nó còn liên quan đến tất cả các chức năng
còn lại của quá trình quản lý. Những chức năng khác đều phải dựa trên nền tảng
của các kế hoạch đã được vạch ra từ trước. Như vậy, chức năng lập kế hoạch bao
giờ cũng phải được thực hiện trước khi thực hiện các chức năng khác. Tầm quan
trọng của việc lập kế hoạch được thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây: Kế hoạch
chỉ ra con đường đi tới mục tiêu một cách chính xác; kế hoạch cụ thể làm tăng hiệu
quả của công việc; kế hoạch giúp nhà quản lý công hạn chế rủi ro khi ra quyết
định; kế hoạch là cơ sở của việc kiểm tra; kế hoạch giúp nhà quản lý công ứng phó
với những thay đổi diễn ra bên trong và bên ngoài tổ chức. Như vậy, lập kế hoạch
là một tiến trình kết hợp của tất cả các mặt hoạt động của nhà quản lý, là việc xác
định chủ thể quản lý mong muốn cái gì và làm thế nào để đạt được mong muốn đó.
Hay nói cách khác, lập kế hoạch là trả lời câu hỏi làm cái gì, làm như thế nào, ai
làm, làm khi nào và làm ở đâu.
* Phân loại kế hoạch
- Phân loại theo tính chất của kế hoạch
Trong một tổ chức, kế hoạch được chia thành kế hoạch chiến lược và kế
hoạch thực thi hay kế hoạch hoạt động.
+ Kế hoạch chiến lược: Là các kế hoạch áp dụng cho toàn bộ cơ quan, tổ
chức, các cấp hành chính, thiết lập các mục tiêu tổng thể và xác định vị trí tương
lai của cơ quan, tổ chức hoặc địa phương trong môi trường hoạt động cụ thể.



24

+ Kế hoạch thực thi là các kế hoạch chỉ rõ các chi tiết cụ thể về cách thức để
đạt được các mục tiêu trong kế hoach chiến lược. Đó là những kế hoạch hoạt động
hàng tuần, hàng tháng, hàng quí.
- Phân loại theo thời gian của kế hoạch
+ Kế hoạch dài hạn: Đề ra các chương trình, mục tiêu và các hoạt động
nhằm tạo ra thay đổi cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội ở cơ quan, tổ chức, đề
ra những giải pháp lớn để thực hiện những mục tiêu. Kế hoạch dài hạn có thể được
xác định từ 5 năm, 10 năm, 20 năm tùy theo yêu cầu và hoàn cảnh cụ thể của từng
cơ quan, đơn vị
+ Kế hoạch trung hạn: Được xây dựng để phục vụ cho việc thực hiện các
mục tiêu của các kế hoạch dài hạn. Kế hoạch trung hạn thường có thời gian thực
hiện từ 1 năm đến dưới 5 năm.
+ Kế hoạch ngắn hạn: là những chương trình hành động cụ thể, thường là kế
hoạch tháng, quí hoặc 6 tháng đến dưới 1 năm. Kế hoạch ngắn hạn có thể là kế
hoạch tổng hợp hoặc kế hoạch đặc thù ngành.
Phân loại kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn thường gắn với qui mô của
các mục tiêu cần đạt được. Kế hoạch càng dài hạn thì việc xây dựng càng phức tạp,
đòi hỏi sự nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng hơn các kế hoạch ngắn hạn.
* Phân loại theo đối tượng điều chỉnh:
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Là kế hoạch phát triển các lĩnh vực
kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ, giao
thông vận tải .v.v.; Các lĩnh vực xã hội như chính sách phát triển văn hóa – giáo
dục, trật tự an toàn xã hội, chính sách đối ngoại.


25


- Kế hoạch nhân sự: Là kế hoạch xác định nhu cầu nhân sự tương lai cho
một cơ quan, tổ chức, về số lượng, chất lượng và thời điểm cung cấp nguồn nhân
lực cho việc thực hiện các chương trình hành động cụ thể. Kế hoạch nhân sự cũng
xác định những biện pháp cần thiết để đáp ứng nhu cầu nhân sự nhằm đảm bảo cho
cơ quan, tổ chức hoàn thành những chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Kế hoạch tài chính (ngân sách): Là kế hoạch xác định khả năng thu và nhu
cầu chi ngân sách, bảo gồm tổng thu, tổng chi và các khoản mục thu, chi trong kỳ
ngân sách. Đồng thời, kế hoạch tài chính xác định các biện pháp để tăng các nguồn
thu và chi ngân sách có hiệu quả cho từng dự án, từng thời gian thích hợp.
- Kế hoạch dự án: Là kế hoạch lập và thực hiện một dự án tại cơ quan, đơn
vị, bao gồm việc xác định mục tiêu, các công việc và hoạt động cần phải tiến
hành, cách thức thực hiện, quản lý công việc và nguồn lực cần thiết cho các hoạt
động đó nhằm hoàn thành dự án.
* Các thành phần của kế hoạch
- Mục tiêu của kế hoạch: Xác định những kết quả tương lai mà nhà quản lý
công mong muốn đạt được. Các mục tiêu này cần căn cứ vào các nguồn lực của tổ
chức, kết quả đã đạt được trong quá khứ, có thể là những mong muốn của nhà quản
lý công, là những sức ép từ phía xã hội.
- Phương hướng và các biện pháp thực hiện: Phương hướng là xác định định
hướng những hành động chủ yếu trong tương lai. Biện pháp là xác định những hoạt
động cụ thể được dự kiến triển khai để đạt những mục tiêu đã đặt ra.
- Các nguồn lực: Bao gồm nguồn lực hiện có và nguồn lực tiềm năng.
Nguồn lực hiện có là nguồn lực đã có sẵn, chỉ cần đưa chúng vào sử dụng. Nguồn
lực tiềm năng là những nguồn lực có thể có trong tương lai. Các nguồn lực của một


×