Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Tiểu luận tính nhân văn của báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.87 KB, 54 trang )

Mục lục
Phần 1: Mở đầu...................................................................................................1
1. Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu.....................................................................1
2. Lí do chọn đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu...................................................1
3.Mục đích.........................................................................................................2
4. Nhiệm vụ.......................................................................................................2
5. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................2
6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2
7. Ý nghĩa..........................................................................................................3
8. Kết cấu đề tài.................................................................................................3
Phần 2: Nội dung.................................................................................................4
I.Khái niệm...........................................................................................................4
1.Giải mã khái niệm..........................................................................................4
1.1. Nhân văn.................................................................................................4
1.2. Nhân đạo.................................................................................................5
1.3. Nhân loại.................................................................................................6
2. Khái niệm tính nhân văn trong báo chí.........................................................6
II. Bản chất tính nhân văn trong báo chí..........................................................8
1. Khái quát chung.............................................................................................8
2. Cấp độ tính nhân văn của báo chí................................................................13
2.1. Đề tài.....................................................................................................13
2.2. Góc nhìn................................................................................................15
2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu........................................................................17
2.5. Về mặt hình thức...................................................................................18
2.6. Thời điểm đăng tải................................................................................19
3. Nhà báo, công chúng báo chí và tính nhân văn của báo chí........................19
III. Liên hệ..........................................................................................................20
1.Tính nhân văn trong báo chí hiện nay..........................................................20
1.1. Tình hình chung....................................................................................20
1.2. Tình hình cụ thể....................................................................................21
1.2.1. Việc đã làm được, làm tốt...............................................................21


1.2.2. Việc chưa làm được, làm chưa tốt..................................................23
2. Rút ra bài học..............................................................................................37
2.1 Nguyên nhân dẫn tới việc vi phạm tính nhân văn trong báo chí...........37


2.2 Giải pháp năng cao tính nhân văn trong báo chí....................................38
2.2.1. Trách nhiệm của nhà nước và các cơ quan báo chí đối với việc
nâng cao tính nhân văn của báo chí..........................................................38
2.2.2. Đối với nhà báo.............................................................................40
2.2.3. Đối với các đơn vị đào tạo báo chí.................................................46
3. Trách nhiệm của bản thân............................................................................47
Phần 3: Kết luận............................................................................................49
Phần 4: Tài liệu tham khảo


Phần 1: Mở đầu
1. Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu
Viết về một đối tượng đã học tâm đắc nhất: Tính nhân văn của báo chí.
2. Lí do chọn đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu
Chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với tất cả những thành
tựu kỳ diệu của cách mạng khoa học và công nghệ. Mặt khác, loài người cũng đang
đứng trước những hiểm họa đe dọa tàn phá môi trường sống,hủy hoại nhân tính con
người, chà đạp các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội.
Báo chí Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu to lớn,
góp phần quan trọng vào sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhìn chung,
báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời những sự kiện chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa nổi bật, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của
nhân dân. Báo chí góp phần đắc lực trong việc xây dựng những điển hình tiên tiến
trong các phong trào thi đua yêu nước, đấu tranh để phòng, chống nạn tham ô, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Các cán bộ hoạt động báo chí xứng đáng là những chiền sĩ

trên mặt trận văn hóa, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Báo chí đứng trên lập trường nhân đạo cộng sản để thông tin, lí giải các hiện tượng, sự
kiện của đời sống xã hội. Báo chí còn có vai trò quan trọng trong việc đưa tin, phản
ánh hiện thực một cách khách quan. Báo chí tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để góp phần
phanh phui, lên án những thế lực gây ảnh hưởng xấu đến lợi ích xã hội và xâm phạm
tới quyền con người.
Song bên cạnh những kết quả đạt được, báo chí Việt Nam hiện nay còn tồn tại
nhiều vấn đề cần khắc phục để xây dựng một nền báo chí Việt Nam hiện đại và phát
triển như: một số thông tin chưa chính xác, thông tin chưa được cập nhật kịp thời, một
số cơ quan báo chí chưa nhạy bén về chính trị, có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, bị
ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của kinh tế thị trường nên chưa làm tốt chức năng là
cơ quan tuyên truyền giáo dục về tư tưởng, văn hóa của mình, đội nguc cán bộ, phóng
viên làm việc trong các cơ quan truyền thông, báo chí vẫn chưa đủ về số lượng và chất
lượng, chưa đáp ứng yêu cầu mới của nhân dân, xã hội và của thời đại, cơ sở vật chất
còn thiếu; công tác chỉ đạo, quản lý báo chí còn nhiều hạn chế. Một nguyên nhân quan
trọng của thực trạng trên thuộc về đội ngũ cán bộ, phóng viên làm việc trên lĩnh vực
báo chí truyền thông có biểu hiện suy thoái đạo đức, tha hóa về lối sống, đạo đức nghề
nghiệp trong quá trình tác nghiệp…
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, sứ mạng cao cả của báo chí là đấu
tranh, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Vì sự nghiệp phát triển toàn diện con người, đóng
góp thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước. Để phát huy vai trò to lớn đó, một

1


trong những giái pháp báo chí cần làm là đề cao hơn nữa tính nhân văn khi thông tin
đa chiều về cuộc sống. Bởi đây là một yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả thông
tin của báo chí nói riêng và các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung.
Tính nhân văn là yếu tố làm nên tính hấp dẫn của báo chí mang hơi thở của cuộc
sống và làm vinh danh tên tuổi của các cây bút yêu nghề. Một tác phẩm báo chí giàu

giá trị nhân văn bao giờ cũng tạo được mối dung cảm sâu sắc trong tâm chí tiếp cận
của công chúng. Nhà báo khi đó mới làm tròn vai trò định hướng dư luận trước những
hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh trong cuộc sống mà mình mắt thấy tai nghe.
Ngược lại một tác phẩm thiếu hoặc yếu tính nhân văn sớm muộn sẽ trở nên mờ nhạt
trong trí nhớ đọc giả. Nhà báo khi đặt bút viết những tác phẩm như vậy sẽ dần bị đọc
giả tẩy chay - hình phạt ghê gớm nhất mà không có một nhà báo nào muốn mắc phải
trong sự nghiệp cầm bút.
Vì vậy tính nhân văn trong báo chí là vấn đề mà công chúng, đặc biệt là nhà báo
và các bạn sinh viên báo chí cần hiểu rõ hơn về tính nhân văn của báo chí cũng như
đạo đức nghề nghiệp để hành nghề và rèn nghề đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
3.Mục đích
Nâng cao năng lục tiếp cận công chúng của tác phẩm, hướng ngòi bút cả người viết
vào con đường phục vụ nhân dân, vì cuộc sống tốt đẹp, vì sự phát triển của đất nước.
Nắm chắc được khái niệm tính nhân văn trong báo chí, hiểu được bản chất, ý
nghĩa, hiện trạng vấn đề từ đó liên hệ thực tế và rút ra bài học cho bản thân trong việc
học tập hiện tại cũng như hành nghề sau này.
4. Nhiệm vụ
Từ cơ sở xác định rõ ràng mục tiêu, bài trung luận có nhiệm vụ:
Thứ nhất,hệ thống hóa những vấn đề cơ bản liên quan đến tính nhân văn của báo
chí bao gồm: khái niệm, nội dung, hình thức qua báo chí và đi sâu vào các tác phẩm
báo chí.
Thứ hai, tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu các khái niệm, tính chất, đặc điểm cơ bản,
các yếu tố chi phối,; vị trí, vai trò tầm quan trọng của tính nhân đạo trong báo chí.
Thứ ba, liên hệ thực tế với báo chí: việc đã làm được, chưa làm được, làm tốt hay
làm chưa tốt từ đó rút ra bài học và liên hệ trách nhiệm của bản thân; đề ra một số giải
pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của tính nhân văn trong báo chí.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu tính nhân văn của báo chí qua nghiêm cứu tài liệu, sách, báo, các bài viết
trên mạng internet, phóng sự.
6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích và tổng hợp: thu thập và phân tích các nguồn tư liệu đưa ra
kết luận.

2


Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Đánh giá về tính nhân đạo của báo chí trong suốt
giai đoạn từ buổi đầu của báo chí đến giai đoạn hiện nay, để tìm những nhân tố ảnh
hưởng đến tính nhân văn của báo chí.
Phương pháp thu thập tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phân tích tài liệu.
Phương pháp tổng hợp, khái quát.
Phương pháp so sánh, thống kê.
7. Ý nghĩa
Về lý luận: Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu bài luận giúp hiểu rõ và thấy được vai
trò, vị trí, tầm quan trọng của tính nhân văn trong báo chí hiện nay.
Về thực tiễn:Từ bài luận giúp rút ra một số phương pháp, kinh nghiệm nhằm củng
cố và nâng cao chất lượng hiệu quả trong cách làm báo nhất là đối với sinh viên báo
chí.
8. Kết cấu đề tài
Trong bài luận, ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung
có ba mục:
I. Khái niệm tính nhân văn, tính nhân văn trong báo chí
II. Bản chất tính nhân văn trong báo chí
III. Liên hệ

3


Phần 2: Nội dung

I.Khái niệm
1.Giải mã khái niệm
Trong cuộc sống cũng như trong văn học và báo chí, các khái niệm tính nhân đạo,
tính nhân văn và tính nhân loại có cùng phạm trù ngữ nghĩa, nhưng biểu hiện ở các cấp
độ và sắc thái ngữ nghĩa khác nhau.
1.1. Nhân văn
Theo Tiin: "Nhân" là người, hiểu rộng ra thì đó là đặc trưng con người, bản chất
con người. "Văn" có thể là văn hóa, văn minh lẫn văn học. Nhân văn là những nét đặc
trưng thuộc bản chất của con người kết hợp với tri thức văn hóa, văn minh, thể hiện
qua cách suy nghĩ, giao tiếp, lịch sử, truyền thống, tôn giáo, tâm linh…
Theo Soha: Nhân văn thuộc về văn hoá, thuộc về con người.
Theo Wiki: Chủ nghĩa nhân văn (hay chủ nghĩa nhân bản nhưng lưu ý "chủ nghĩa nhân
bản" còn là một cách gọi khác của chủ nghĩa duy con người) là một nhánh triết học luân
lý lớn cũng như một thế giới quan chuyên chú vào lợi ích, giá trị và phẩm cách của con
người. Theo chủ nghĩa nhân văn, bao dung, bất bạo động và tự do lương tâm là những
nguyên tắc quan trọng cho sự cộng sinh của nhân loại.
Theo từ điển Hán Nôm: Nhân văn chỉ chung những hoạt động cao đẹp của con người.
Trong tiếng Anh: Nhân văn là Human Civilization.
Từ điển tiếng Việt thông dụng (1996) nhân văn là "thuộc về văn hóa loài người,
thuộc về con người (14,tr.412).
Trong "Từ điển tiếng Việt - Tường giải và liên tưởng" NXB văn hóa thông tin, 2004:
"Nhân văn là thuộc về văn hóa con người (6,tr.590)"; còn trong "Từ điển tiếng Việt", NXB
Thống kê, năm 2005 "Nhân văn là văn minh loài người" (15, t.646)
Cần có một sự hòa đồng trong quan niệm về "Giá trị nhân văn" và "Tính nhân
văn". Hiểu theo cách chiết tự thì Nhân là Con người, Văn là văn vẻ, "Từ điển
Hán-Nôm Hanosoft: "Văn là dấu vết của đạo đức lễ nhạc để lại trong quá trình
giáo hóa con người, tạo nên vẻ đẹp rõ rệt được gọi là văn (như văn minh, văn
hóa). Do vậy Nhân văn có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người.
Nhân văn là phạm trù thuộc văn hóa. Mà nói đến văn hóa là nói đến "hiện tượng
lịch sử, phát triển phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội" nên quan niệm về nhân văn

trong từng giai đoạn lịch sử xã hội loài người cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Đối với chủ nghĩa nhân văn Mác xít: Vượt lên trên tất cả những quan niệm nhân
văn trong các giai đoạn lịch sử phát triển xã hội loài người, kế thừa toàn bộ những giá
trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, dựa trên cơ sở khoa học, kiên định lập trường giai

4


cấp công nhân, nhằm giải phóng con người một cách cơ bản, toàn diện, C.MácĂngghen đã xây dựng chủ nghĩa nhân văn Mác xít trên lập trường chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi lỗ
lực đấu tranh, chủ nghĩa nhân văn Mác xít đã đề cao tinh thần tự do, bình đẳng, xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, bất công, nô dịch nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Bằng việc luận giải con đường cách mạng, khoa học để gieo trồng tư tưởng nhân văn
trong học thuyết của mình vào mảnh đất hiện thực, mục đích cuối cùng mà MácĂngghen hướng tới là xây dựng một xã hội trong đó con người được phát triển toàn
diện về thể lực, trí lực, nhân cách; tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của con người.
Như vậy chủ nghĩa nhân văn Mác xít là đỉnh cao văn hóa loài người, là cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận cho chiến lược phát triển con người của các Đảng Cộng sản,
nhằm thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Quan niệm Mác
xít về nhân văn có thể thâu tóm khẩu hiệu “Vì con người, từ con người, do con người”.
Từ những quan niệm phong phú về tính nhân văn, chúng ta có thể đưa ra một quan
niệm thống nhất, dựa vào việc tổng hợp ý kiến của những nhà nghiên cứu: Tính nhân
văn là một giá trị văn hóa, thể hiện khát vọng giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bất công; đề cao tinh thần yêu thương; bác ái giữa người với người; đề cao việc phát
triển toàn diện con người dựa trên việc tôn trọng đầy đủ quyền lợi chính đáng con
người, nhằm phát huy cao nhất vai trò động lực và chủ thể của con người trong xã hội
do chính con người tạo dựng lên.
1.2. Nhân đạo
Từ điển Tiếng Việt: Nhân đạo là tính trọng mạng sống của người của vật, biết
thương kẻ nghèo yếu, chịu chia sẻ sự đau đớn với kẻ khốn cùng.

Wikipedia: Nói chung, chủ nghĩa nhân đạo hay nhân đạo chủ nghĩa là một đạo lý
có lòng tốt, từ thiện, và nhân ái đến toàn thể loài người một cách vô tư. Trong lịch sử,
chủ nghĩa nhân đạo là một khái niệm luôn tiến triển nhưng luôn có tính toàn thể. Theo
chủ nghĩa này, không ai nên kỳ thị người đau khổ hoặc bị hành hạ vì lý do giới
tính, thiên hướng tình dục, dân tộc, đẳng cấp, tuổi, tôn giáo, hay quốc tịch.
Chủ nghĩa nhân đạo cũng được xác định là sự chấp nhận tất cả mọi người chỉ vì là
con người và bỏ những quan điểm xã hội thiên vị, thành kiến, và thói quen phân biệt
chủng tộc.
Theo Soha: "Nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quý trọng và bảo vệ
con người".
Như vậy có thể hiểu nhân đạo có thể hiểu là những phẩm chất đạo đức thể hiện ở
nhận thức, thái độ và hành vi sự yêu thương, quý trọng, chăm sóc và bảo vệ con người,
nhất là những con người, những thân phận đang gặp những khó khăn bất chắc.

5


1.3. Nhân loại
Từ điển tiếng Việt: "Nhân loại là tổng thể nói chung những con người trên Trái
Đất; loài người".
2. Khái niệm tính nhân văn trong báo chí
Tính nhân văn trong báo chí là nhiệt tình phản ánh và tham gia vào cuộc đấu tranh
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con người về kinh tế - xã hội và văn hóa tinh thần, đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ của con người, bảo vệ
những giá trị nhân đạo chân chính.
Nhân văn, có thể hiểu là "thuộc về văn hóa loài người", tức là những tinh chất, "giá
trị văn hóa chung của loài người, của nhân loại". Theo đó, tính nhân văn nhấn mạnh
đến việc báo chí đề cao, quý trọng, ca ngợi và bảo về những giá trị văn hóa chung của
cộng đồng, vì cuộc sống và lợi ích chính đáng của con người và của cộng đồng. Tính
nhân loại, theo đó, thường xuyên được hiểu là báo chí tôn trọng, bảo vệ và truyền bá
những giá trị văn hóa chung nhất của nhân loại, không phân biệt dân tộc, tôn giáo,…;

trong thực tế hiện nay nó là mục tiêu vì hòa bình, ổn định, sự tiến bộ và phát triển bền
vững của cộng đồng quốc tế, sự bình đẳng của các quốc gia, các dân tộc trên khắp
hành tinh.
Một tác phẩm có tính nhân văn là tác phẩm văn học hoặc báo chí thể hiện con
người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ,
tâm hồn, tình cảm, phẩm cách, hướng đến sự khẳng định và đề cao vẻ đẹp của
con người. Tính nhân văn chính là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại và
nó được thể hiện trong mọi lĩnh vực như lịch sử, văn hóa, triết học, tâm lí
học…
Tính nhân văn, nhân loại là hệ giá trị vừa rất trừu tượng, lại vừa biểu hiện rất cụ
thể thông qua các sự kiện và vấn đề thời sự hằng ngày, thể hiện nhận thức thái độ và
hành vi ứng xử của con người . Trong báo chí truyền thông, đó là thái độ tiếp cận,
đánh giá các sự kiện và vấn đề trong cuộc sống hằng ngày liên quan đến cộng đồng và
số phận con người;đó là quan điểm, thái độ và những nỗ lực không mệt mỏi trong cuộc
đấu tranh vì quyền con người, quyền công dân, dân chủ, dân sinh, vì sự tiến bộ xã hội
và những giá trị nhân đạo chân chính.
Nhân văn, nhân loại là hệ thống giá trị chung của loài người; đồng thời hệ giá trị
ấy lại biểu hiện ở mỗi cộng đồng, dân tộc theo bản sắc văn hóa và trình độ phát triển
của mình. Bất kỳ ai, dân tộc nào, sống ở đâu,…cũng đều có khát vọng sống, mong
muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc trong hòa bình. Như trong "Tuyên ngôn độc lập"
ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố:

6


"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc."
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1976 của nước Mỹ. Suy rộng ra,
câu ấy có nghĩa là: "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào

cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do."
Với tinh thần và nguyên tắc thấm đẫm tính nhân văn của Tuyên ngôn độc lập, bằng
chứng lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc mình qua hàng ngàn năm lịch sử, báo
chí Việt Nam tự giác và kiên quyết qua đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và quyền con
người cũng như các giá trị nhân văn cao cả; kiên quyết chống lại các thế lực núp bóng
danh nghĩa nhân quyền để can thiệp thô bạo vào quyền tự quyết của các quốc gia, các
dân tộc khác nhằm thiết lập sự thống trị dưới mọi hình thức.
Nhưng quan niệm, quan điểm tiếp cận về hệ giá chung ấy cũng như dạng thức biểu
hiện của nó trong cuộc sống và mức độ trình độ phát triển của mỗi nước, mỗi khu vực.
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, thành các nhóm xã hộ có lợi ích khác nhau,
quan điểm và cách thức tiếp cận vấn đề này cũng không giống nhau. Hằng ngày báo
chí nước ta đã cố gắng phản ánh sự đa dạng phong phú, muôn màu muôn vẻ các giá trị
văn hóa và hình thức hoạt văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; qua đó góp
phần bảo vệ, giữ gìn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa các dân tộc, và khơi dậy
tiềm năng sáng tạo của mỗi con người, mỗi nhóm sáng tạo, cũng như của mỗi dân tộc
vì sự phồn vịnh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn là, qua
đó báo chí thể hiện mong muốn, nguyện vọng thiết tha ngàn đời của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam là được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc; trẻ em được cắp
sách đến trường, "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành", vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". Đó là mục tiêu nhân văn cao
cả mà báo chí và những người làm báo cùng với toàn thể dân tộc mình phấn đấu,
chiếm đấu không ngừng nghỉ, không mệt mỏi.
Tính nhân văn phụ thuộc rất nhiều vào bản thân việc lựa chọn đề tài phàn ánh của
nhà báo, cuộc sống hằng ngày muôn hình muôn vẻ có rất nhiều sự kiện diễn ra nhưng
không phải sự kiện nào, mảng đề tài nào ta cũng có thể thể hiện tính nhân văn. Đó phải
là những sự kiện tiêu biểu, có ý nghĩa xã hội rộng lớn, được đông đảo mọi người quan
tâm.
Tính nhân văn phụ thuộc rất nhiều vào lao động sáng tạo của nhà báo. Nếu
không thực sự say mê, tâm huyết với nghề, trân trọng những trang viết, trân trọng từng
số phận con người được phản ánh trong tác phẩm, nhà báo sẽ không thể trụ lại với

nghiệp cầm bút, huống hồ việc cho ra đời những tác phẩm báo chí đậm tính nhân văn.

7


Tính nhân văn của truyền thông còn thể hiện ở mọi tin bài, cả những tấm ảnh báo
chí có sức lay động lòng người. Khi viết về một vụ việc nào đó mang tính bi kịch gia
đình, người viết cần đặt mình vào hoàn cảnh của người trong cuộc trước dư luận xã
hội, cần quan tâm đúng mức tới “sức chịu đựng”của các thành viên, nhất là các thành
viên trẻ tuổi trong gia đình họ. Khi viết về những ông bố bà mẹ phạm tội gì đó, mặc dù
đó là sự thật mười mươi, nhưng lại làm cho con cái họ bị áp lực dư luận, đến mức phải
chọn cái chết để tránh sự nhục mạ của công luận thì rõ ràng bài viết đó, tấm ảnh đó rất
kém tính nhân văn, người phóng viên, người biên tập viên đó cũng kém tính nhân văn.
Tính nhân văn đòi hỏi sự phản ánh các vụ việc phải trung thực, chính xác, khách
quan. Hơn thế nữa, tính nhân văn cao cả của tác phẩm báo chí, của người cầm bút là
sự cân nhắc cái được, cái chưa được khi thông tin, bình luận vụ việc đó. Tính nhân văn
của người cầm bút đòi hỏi chính người cầm bút đó phải tự đặt mình là người trong
cuộc, người của chính vụ việc ấy để cân nhắc về hiệu ứng xã hội của thông tin, bình
luận để từ đó mà quyết định mức độ thông tin, thời điểm thông tin. Nhà báo không làm
những gì đã tổn thương lại càng tổn thương thêm. Báo chí đã từng có bài học về tính
nhân văn khi thông tin một hoa hậu Việt Nam chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông trung
học đến công chúng, bởi đây là khía cạnh “vênh nhau” giữa việc đề ra quy chế và cụ
thể hóa quy chế bằng thể lệ của từng cuộc thi.
Tính nhân văn của truyền thông - báo chí, tính nhân văn của nhà báo trong hành
nghề, trong tác nghiệp chính là đạo đức nghề nghiệp, là cái tâm trong sáng, là trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân cao cả của người viết báo, người làm báo.
II. Bản chất tính nhân văn trong báo chí
1.Khái quát chung
Nếu như trong văn hoc nghệ thuật, tính nhân văn làm nên giá trị trường tồn cho tác
phẩm vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian, thì trong báo chí, tính nhân văn cũng

làm nên vẻ đẹp, sức sống cho không ít tác phẩm.
Công chúng hiện đại tiếp xúc với những sản phẩm báo chí không chỉ với nhu cầu
tiếp nhận thông tin thuần túy. Báo chí còn phải đem lại những dung cảm nhân văn để
thông tin trong quá trình tiếp nhận không trở nên khô cứng. Thông qua tác phẩm báo
chí công chúng có thể chăn chở theo cảm xúc của tác giả về những sự kiện thời sự
đang diễn ra hằng ngày.
Do tính chất thông tấn đặc thù mà báo chí không thể biểu hiện tính nhân văn bằng
cảm xúc được tác giả bộc lộ trực tiếp, hay những câu chuyện giàu hình ảnh như văn
học. Nhưng thông qua cách tiếp cận hiện thực bằng ngòi bút khách quan, đôi chút lạnh
lùng, tỉnh táo, nhà báo vẫn kín đáo thể hiện tấm lòng của mình với số phận con người
thông qua góc độ tiếp cận sự kiện, vấn đề, mảng hiện thực phản ánh và ngôn ngữ thể
hiện.

8


Mặt khác do những đặc trưng về nội dung và hình thức thể hiện của từng thể loại
tác phẩm báo chí mà tính nhân văn cũng được thể hiện với các mức độ khác nhau:
Tin, với đặc trưng là thông báo về cái mới nảy sinh trong cuộc sống, hay điểm qua
một vài lát cắt tiêu biểu của của hiện thực nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin thời sự,
nhanh nhạy, tin thường ngắn gọn, kiệm lời, đơn giản, dễ hiểu mà vẫn phải đảm bảo giá
trị thông tin nhiều nhất có thể. Bởi vậy, đây là thể loại báo chí nặng tính thông tấn và ít
biểu hiện tính nhân văn. Tin hết sức tránh bộc lộ những cảm xúc của tác giả, thay vào
đó là ngôn ngữ thông tấn giàu sức nặng thông tin xoay quanh sự kiện được đề cập.
Các thể loại như phỏng vấn, phản ánh, tường thuật phản ánh cuộc sống một cách
khách quan nên tính nhân văn cũng không được thể hiện trực tiếp. Công chúng có thể
ngầm hiểu tính nhân văn đã được tác giả dồn nén và bộ lộ gián tiếp thông quan điểm
nhìn, góc độ tiếp cận, thực hiện. Dù không trực tiếp bộc lộ cảm xúc yêu ghét do đặc
trưng thể loại quy định, nhưng người viết khi sáng tạo ra tác phẩm báo chí đều xuất
phát từ cái tâm, tấm lòng với cuộc sống, vì lợi ích của con người mà hoạt động nghề

nghiệp không mệt mỏi.
Trong các thể loại thông tấn báo chí (tin, tường thuật, ghi nhanh, phản ánh, phỏng
vấn, điều tra, phóng sự), phóng sự là đề tài giàu tính nhân văn hơn cả. Sự giao thoa
giữa chất văn học và báo chí đã tạo nhiều thế mạnh cho phóng sự khi phản ánh những
vấn đề mang tính nhân văn trong cuộc sống. Vì vậy, phóng sự thích hợp hơn cả với
những đề tài giàu tính nhân văn.
Với các thể loại phân tích-chính luận như: Bình luận, chính luận, xã luận, tác giả
có thể bộc lộ trực tiếp chính kiến, quan điểm của mình trước sự kiện, vấn đề phản ánh
nên tính nhân văn được thể hiện trực tiếp. Tuy nhiên, do tính chất phân tích tư duy
logic và đặt trưng của thể loại nhằm định hướng dư luận nên tính nhân văn chỉ được
người viết thể hiện trong một khuôn khổ nhất định nhằm làm rõ vấn đề đang luận bàn.
Với các thể kỹ chính luận - nghệ thuật như: ký, tiểu phẩm…mang nhiều đặc điểm
về nội dung và hình thức gần với văn học, tính nhân văn được tác giả bộc lộ trực tiếp
bằng thái độ, cảm xúc, yêu ghét, bằng những câu chuyện kể đậm chất văn chương.
Dù được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp, mức độ nhiều hay ít, nhìn chung chức
năng của báo chí là để thông tin, định hướng dư luận, góp phần vào sự phát triển của
xã hội. Bản thân ý nghĩa này cũng đủ làm cho tác phẩm báo chí mang đậm tính nhân
văn. Bởi không gì nhân văn hơn việc phụng sự cho con người, vì sự phát triển chung
của cộng đồng.
Một tác phẩm giàu tính nhân văn phải là một chính thể thống nhất cả về nội dung
và hình thức thể hiện. Như vậy, nói đến tính nhân văn trong tác phẩm phóng sự phải
được hiểu trên cả hai phương diện cấu thành: nội dung và hình thức. Hai yếu tố này có

9


mối quan hệ biện chứng gắn bó không tách rời.Thiếu một trong hai yếu tố này không
cấu thành nên tác phẩm báo chí. Tính nhân văn sẽ chỉ thể hiện phiến diện.
Về nội dung, tính nhân văn được thể hiện ở đồng bộ các yếu tố như: phạm vi đề
tài, tư tưởng chủ đề, sự kiện, sự việc, vấn đề phản ánh, chi tiết để lựa chọn để thể hiện.

Về hình thức cái tôi của tác giả đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra giọng
điệu giàu tính nhân văn cho tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ giàu cảm xúc, bút pháp
thể hiện linh hoạt, kết cấu tác phẩm chặt chẽ biểu hiện rõ ý đồ của người viết cũng như
những yếu tố giúp tô đậm tính nhân văn trong tác phẩm báo chí.
Như vậy tính nhân văn sẽ góp phần làm nên vẻ đẹp của tác phẩm báo chí trong
lòng công chúng. Điều độc giả quan tâm không chỉ là lượng thông tin, phạm vi thực
hiện phóng sự đề cập mà còn là nghĩa tình của người viết gửi gắm trong tác phẩm.
Người viết có thể tạo được hiệu ứng lây lan về cảm xúc, tạo sự đồng cảm, chia sẻ của
độc giả đối với vấn đề mình phản ánh.
Hệ thống giá trị nhân văn, nhân loại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của loài người. Nhờ hệ giá trị này, mỗi con người, mỗi cộng đồng có
thể xích lại gần nhau, gắn kết với nhau và giúp đỡ nhau. Trong chiễn tranh chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta, không ít những cá nhân,cộng đồng người khắp các châu lục
chưa một lần đến Việt Nam - thậm chí chưa biết gì đáng kể về người Việt, nhưng khi
nghe tin ở đấy có "máu chảy đầu rơi" vì bom đạn của đế quốc Mỹ, họ đã sẵn sàng đấu
tranh, ủng hộ cả tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta.
Mỗi lần nghe tin động đất ở nơi nào đó gây ra cảnh chết chóc cho đồng loại, lòng
chúng ta lại se lại. Mỗi khi tiếp nhận thông tin về thân phận một con người bất hạnh,
gặp nỗi tai ương, những người có lương tâm lại động lòng trắc ẩn…Những thái độ chia
sẻ đó đều bắt nguồn từ nhận thức thẫm đẫm tính nhân văn, nhân loại. Hệ thống giá trị
này như sức mạnh vô hình, có khả năng liên kết mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng lại với
nhau, cũng là nhằm bảo vệ hệ giá trị ấy, đấu trang và bảo vệ nó, tôn trọng và nhân bản
nó.
Nếu như tất cả các nguyên tắc hoạt động của báo chí đã được xem xét phát triển từ
nguyên tắc tính đảng, trong chừng mực nào đó, dưới dạng khái niệm hàm chứa trong
đó từ lúc phôi thai, thì "sự tổng hợp thứ hai" của các nguyên tắc, sự thể hiện phối hợp
có hiệu quả của chúng là nguyên tắc tính nhân văn (tiếng Latinh - humanus là "nhân
bản").
Hơn nữa nguyên tắc tính nhân văn, nếu như những yêu cầu của nó "chồng lên"
những hình thức tác động thực tiễn của các nguyên tố khác, mang tính kiểm soát. Nó

cho phép đánh giá được chuẩn xác các cơ sở và tính chất của công việc thực hiện
những nguyên tắc khác. Ngay cả nguyên tắc xuất phát điểm là tính đảng trong nội
dung và trong những sự thể hiện của mình trong thực tiễn có thể và cần phải được

10


kiểm nghiệm về "tính nhân văn". Nhiều tuyên bố ầm ĩ và những đòi hỏi "chân lý, cái
thiện và công bằng" mà những nhà báo cần phải bác bỏ cả về mặt lý luận, lẫn trong
hoạt động thực tiễn, nếu như không chịu được sự phán xét nghiêm ngặt từ quan điểm
tính nhân văn chân chính. Vì thế điều quan trọng đối với mỗi nhà báo là cần phải thấm
nhuần tư tưởng nhân văn và cần phải hiểu được nội dung đích thực của nó. Tất cả mọi
hoạt động của nhà báo cần phải tuân thủ theo quyền lợi của con người và của nhân
loại.
Tính nhân văn yêu cầu báo chí nhiệt tình phản ánh và tham gia vào cuộc đấu tranh
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con người về kinh tế và xã hội, văn hóa tinh
thần đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ của con người. Bảo vệ những
giá trị nhân bản. Báo chí tham gia tích cực vào việc xây dựng chế độ xã hội, tất cả vì
con người, cho con người. Đồng thời, tôn trọng xây dựng và bảo vệ mỗi cá nhân vì sự
phát triển tự do toàn diện của mỗi người.Tính nhân văn đòi hỏi nhà báo am hiểu con
người như một giá trị hoàn thiện và cao quý nhất. Bản chất nhân văn của báo chí cách
mạng thể hiện ngay trong nguyên tắc tính Đảng. Báo chí đấu tranh cho những giá trị
nhân văn chống lại những hành vi làm tổn hại quyền con người, quyền dân chủ, quyền
được sống trong độc lập tự do. Tính nhân văn -nhân đạo là tiêu chuẩn bắt buộc của đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo. Báo chí phải tham gia vào việc tuyên truyền chống lại
bạo lực kích động gây chia rẽ thù hằn dân tộc và tôn giáo. Đồng thời tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu như ôi nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nghèo đói.
Ở dưới dạng chung nhất, tính nhân văn trong tất cả mọi nhận định và đánh giá đòi
hỏi phải xuất phái từ việc tuân thủ những quyền lợi không thể tước đoạt và quyền tự
do của cá nhân, từ những quyền lợi của sự phát triển con người như một cá nhân độc

nhất trong viễn cảnh phát triển tiến bộ của toàn nhân loại.
Cách tiếp cận nhân văn, mà cơ sở của nó là quan niệm về con người như là thước
đo của mọi sự vật, đòi hỏi tạo ra những điều kiện sống phù hợp với bản chất con
người. Nhưng khi lý giải, cách tiếp cận nói chung đã được thừa nhân đó, xuất phát từ
những giá trị chung toàn nhân loại, xuất hiện vô số những biến dạng của quan điểm
nhân văn. Ở đây có cả nhân văn tôn giáo, kêu gọi tình yêu thương đối với những người
thân, từ bỏ những tội lỗi và tìm kiếm sự hoan lạc vĩnh hằng vì những điều thiện ở một
thế giới khác, sự nhẫn nhịn chịu đựng, sự không hoàn thiện của điều đó, và quan điểm
nhân văn chủng tộc, xuất phát từ sự bất bình đẳng của con người về những tính chất
gen tự nhiên và sự công nhân ưu thế của một chủng tộc đã được lựa chọn hay của mọi
dân tộc (sự thống trị của người "arien","apathai", của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc…)
và chủ nghĩa nhân văn "công nghệ" coi việc giải quyết những vấn đề của con người là
nằm trong tiễn bộ kỹ thuật, chứ không phải trong những biễn đổi xã hội, và chủ nghĩa
nhân đạo bác ái, mà cơ sở của nó là tư tưởng của sự thiết yếu phải mang tính người,

11


biết chia sẻ với những người khó, tàn tật, ốm đau…Ở mỗi biến thái của chủ nghĩa nhân
đạo (ngoài chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thể hiện là hệ tư tưởng phản nhân văn) còn
có những nét và những tính chất bổ sung thực tiễn cho chủ nghĩa nhân văn (sự giúp đỡ
thực tế cho con người, sự trợ giúp về mặt chất lượng hay tinh thần đối với con người
trong thế giới còn chưa hoàn thiện).
Niềm mong ước nhân văn ngàn đời của con người đã tạo ra những điều kiện của
đời sống kinh tế, chính trị xã hội và tinh thần mà trong đó chỉ có những người yếu, đau
yếu và già cả mới phải cần đến sự viện trợ nhân đạo "bề ngoài". Quan điểm nhân văn
đích thực buộc nhà báo phải có những lỗ lực thường xuyên và toàn diện để tạo ra
những điều kiệm của đời sống xã hội phù hợp với bản chất của con người. Chủ nghĩa
nhân văn như thế, đòi hỏi phải thường xuyên tham gia vào các cuộc biến đổi toàn diện
của đời sống xã hội, chính là chủ nghĩa nhân văn hành động. Vì vậy mà cho dù đề tài

nào mà tác phẩm của nhà báo tạo ra đề cập tới cơ cấu chính trị hay những điều kiện
kinh tế của đời sống xã hội, mối quan hệ của các tập đoàn xã hội, văn hóa hay nghệ
thuật, thể thao hay sinh hoạt ở mọi nơi không chỉ có "chân trời mở rộng", mà còn có cả
sự đòi hỏi những cách tiếp cận nhân văn bắt buộc. Tuy nhiên, việc phân tích "tính nhân
văn" cũng cần phải có sự nghiên cứu những thông số kỹ thuật của máy móc mới , chất
lượng của hàng tiêu dùng, quy hoạch dân cư và nhà cửa, thậm chí cả phong trào mốt,
quảng cáo, có nghĩa là tất cả những gì gắn với đời sống con người, với sự "tồn tại" tự
nhiên, xã hội và kỹ thuật của nó. Tính kinh tế và tính công nghệ của máy móc mới là
tuyệt vời nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề: con người, nhân công sẽ làm việc
phục vụ nhu thế nào với những máy móc này, nó có đáp ứng được những yêu cầu (môi
trường, mỹ quan…) hay không? Nói các khác, nhà báo cần phải phân tích "tính nhân
văn" và thẩm định tính nhân văn đối với tất cả những gì nhà báo bắt gặp trong hoạt
động chuyên môn.
Như vậy, tất cả hoạt động của nhà báo cần thấm nhuần tư tưởng nhân văn một
cách nhất quán, tích cực, hướng tới tương lai và đòi hỏi chú ý đến con người của hiện
tại. Và điều rất quan trọng là cần phải kết hợp được mối quan tâm đến nhân loại với
mối quan tâm đến từng con người riêng biệt. Khi đó đối với mỗi cá nhân cụ thể không
thể áp dụng chỉ những chuẩn mực chung mà cần phải xuất phát từ đặt tính cá nhân của
nó. Chỉ trong trường hợp đó sự ủng hộ và phê phán, tính chất của sự trợ giúp và quan
tâm sẽ phù hợp với tính chất của con người như là một cá nhân, và bởi vậy sẽ là công
bằng ở mức độ cao nhất.
Điều kiện thiết yếu của quan điểm nhân văn đích thực, đó còn là khả năng nhìn
nhận con người riêng biệt trong phạm vi của cộng đồng, nơi mà cuộc sống của con
người diễn ra là tập thể lao động, gia đình, giới giao tiếp...Kể cả nếu như sự tự do của
mỗi người là điều kiện cho tất cả mọi người thì tính chất của cộng đồng nơi mà cuộc

12


sống của cá nhân con người diễn ra có ảnh hưởng nghiêm trọng đến những đặc điểm,

tính chất, các quan hệ, đồng thời với sự trợ giúp, kiềm chế hay là đồi bại sự hình thành
của những phẩm chất con người đích thực trong nó. Thế nên trong cách tiếp cận báo
chí nhân văn xuất hiện vấn đề tinh thần tập thể đích thực và giả tạo, cách thức ủng hộ
cái thiện và chống lại những tiêu cực trong mỗi cá nhân con người.
Tất cả những gì mà nhà báo bắt gặp trong cuộc sống, đều là "thước đo con người",
và biết cách nhìn nhận các hiện tượng của cuộc sống dưới ánh sáng của các lý tưởng
nhân văn - trong đó ý nghĩa hiện thời và cả trong viễn cảnh lịch sử là nét đặt thù của
hoạt động báo chí.
Tính nhân văn giúp nhà báo chuyển tải những xúc của mình một cách dung dị nhất
trong các trang viết. Tính thần hướng thiện tạo ra hiệu quả tác động tích cực đối với
đời sống xã hội. Với vai trò xung kích trong cuộc đấu tranh vì một xã hội chân - thiện mĩ, vì sự phát triển tốt đẹp của con người, báo chí công phá vào thành lũy của cái xấu,
những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, tìm hiểu, phát hiện những nhân tố mới trong
mọi lĩnh vực. Hiện thực bề bộn của cuộc sống với đầy đủ sắc diện được báo chí phản
ánh bằng tinh thần nhân văn sâu sắc.
Cùng với khả năng khám phá sự thật chứ đựng nhiều mâu thuẫn, báo chí đã đi sâu
vào những khía cạnh hiện thực và thể hiện chúng dưới góc độ con người. Niềm tin yêu
của công chúng dành cho tác phẩm báo chí là thái độ đồng tình ủng hộ với tiếng nói
công tâm chính nghĩa mà người viết đã thể hiện trong tác phẩm. Công chúng không
chỉ được tiếp xúc với hiện thực chứa đựng nhiều mâu thuẫn, những hoàn cảnh có vấn
đề mà còn được đến với thái độ, tính cảm, tấm lòng nhân ái của nhà báo chất chứa
trong từng trang viết.
Với sự vẫn động tiến tới nền văn minh mới trong thế kỷ XXI, nơi mà những tư
tưởng nhân văn (trong các tình huống khác nhau) trở thành điểm tựa đối với các tư duy
báo chí. Quan niệm về hệ thống các nguyên tắc báo chí buộc phải "thay đổi hẳn": quan
điểm xã hội của nhà báo sẽ trực tiếp "trở thành" nguyên tắc nhân văn, còn nguyên tắc
tính đảng sẽ là "sự tổng hợp thứ hai" của hệ thống các nguyên tắc, là sự thể hiện thực
tiễn của chúng.
2. Cấp độ tính nhân văn của báo chí
Tính nhân văn của báo chí vừa là vấn đề có tính trìu tượng, nhưng lại rất cụ thể và
hiện hữu trong mỗi tác phẩm hay sản phẩm báo chí. Tựu trung lại, có thể nêu các cấp

độ khác nhau của tính nhân văn như sau.
2.1. Đề tài
Mảng đề tài mà báo chí quan tâm, chú trọng hướng tới ưu tiên cho những sự kiện
và vấn đề thời sự - mối quan tâm trong sản xuất và đời sống hằng ngày của cộng đồng,
mà nên giải quyết được những vấn đề ấy sẽ giúp ích cho sự phát triển bền vững, nâng

13


cao chất lượng cuộc sống; không nên chú tâm quá mức vào những góc tù nước đọng
để góp phần làm mờ, làm đen tấm gương phản chiếu cuộc sống hôm nay. Nói khác đi,
hướng ưu tiên đề tài của thông tin báo chí là nhìn ta chân trời, góc biển để nới rộng
tầm mắt, nối dài tầm tay của công chúng mình, không nên ngoài nhìn chăm chăm về
góc tù nước đọng bằng việc đáp ứng nhu cầu thị hiếu của nhóm nhỏ tò mò thông qua
các sự kiện giật gân câu khách - mà việc giật gân này dần dần hạ thấp vai trò vị thế xã
hội của vào chí và làm suy giảm niềm tin công chúng. Công chúng chỉ cần nhin lướt
qua giao diện của báo mạng điện tử, nhìn qua những bài tin tức bài vở của các trang
báo hay nghe qua các đầu đề tác phẩm trong chương trình phát thanh, truyền hình cũng
có thể biết được hướng đề tài ưu tiên của tòa soạn.
Nói đến đề tài là nói đến phạm vi đời sống hiện thực được phản ánh vào tác phẩm.
Đề tài mang tính nhân văn phải lấy con người làm trung tâm. tác giả phải hướng ngòi
bút của mình vào việc phát hiện những vẻ đẹp, những giá trị cao quý của con người,
đấu tranh bảo vệ lợi ích của con người trước mọi biểu hiện bất công, sai trái. Để làm
được điều đó người viết cần có cái nhìn thẳng thắn vào hiện thực, không lé tránh những
vấn đề gai góc của cuộc sống.
Ngoài ra một tác phẩm có tính nhân văn còn đòi hỏi người viết phải bộc lộ tư
tưởng đề tài với thái độ cảm xúc ấm áp, nghĩa tình. Tư tưởng đề tài được hiểu là sự
thống nhất của mọi thành tố nội dung biểu hiện qua các chi tiết cụ thể, qua mối quan hệ
giữa các chi tiết, các sự kiện; thành tố rất có vai trò quyết định nội dung của tác phẩm
báo chí. Nó là ý đồ, lập trường, thái độ gắn với quan điểm chính trị , xã hội của nguời

viết gửi gắm trong tác phẩm và không tồn tại bên ngoài sự kiện, hiện tượng khách
quan. Trong tác phẩm báo chí, tư tưởng đề tài là nội dung quan trọng để thể hiện tính
nhân văn của tác phẩm. Tư tưởng nhân văn của người viết có thể chi phối hàng loạt các
yếu tố nội dung và hình thức thể hiện của phóng sự. Phải sống sâu sắc với cuộc đời,
phải dung cảm tậm sâu tâm hồn với những cảnh đời, những kiếp người thì nhà báo mới
có thể biểu hiện một góc nhìn đậm chất nhân văn trong quan điểm sáng tạo của mình.
Xuyên suốt mạch nguồn tư tưởng đề tài được người viết thể hiện, tính nhân văn đã
thấm vào tư tưởng bộ phận hay những ý nghĩa phát sinh của tác phẩm trong sự hài hòa
thống nhất cao độ.
Đề tài được tác giả lựa chọn phản ánh vào trong tác phẩm là yếu tố quan trọng nhất
trong các yếu tố nội dung thể hiện của tính nhân văn. Đề được coi là "chất liệu cơ bản
nhất" để sáng tạo nên các tác phẩm báo chí, là tiêu chí đầu tiên, quan trọng nhất để
đánh giá chất lượng thông tin. Thông qua việc lựa chọn đề nào để làm đối tượng phản
ánh đã phần nào thể hiện tính nhân văn của người viết. Môt ngòi bút có tấm lòng nhân
ái, yêu thương con người sẽ tìm đến với những đề tài giàu tính nhân văn để thể hiện
thái độ, cảm xúc của mình.

14


2.2. Góc nhìn
Trong các khâu của quá trình lao động nhà báo, việc lựa chọn góc nhìn, thái độ
tiếp cận sự việc của nhà báo là hết sức quan trọng. Đó là một trong những biểu hiện cụ
thể nhất, rõ rệt nhất của đạo đức nhà báo cũng như tính nhân văn trong báo chí. Phải
chăng, những bài báo giật gân câu khách với những chi tiết phản cảm rùng rợn; những
bài báo chà đạp lên quyền sống của con người cũng bắt đầu từ chính góc nhìn thiếu
nhân văn của tác giả.
Trước biển cả thông tin hiện nay, việc lựa chọn góc nhìn, thái độ tiếp cận sự việc
của nhà báo là hết sức quan trọng. Nó là tiêu chí để phân biệt đẳng cấp của nhà báo
này với nhà báo khác; cũng là một cách để thể hiện tư cách, đạo đức nhà báo. Chúng ta

đều biết, để tôn vinh những người cầm bút chân chính, một bậc lão thành đã đúc kết
trong 6 chữ "Mắt sáng, lòng trong, bút sắc". Rất hay và giàu sức khái quát. Trong lĩnh
vực đặc thù này, "có sáng lòng mới mong sáng mắt" - chính tấm lòng trong sáng của
nhà báo trước con người, cuộc đời sẽ là cơ sở nền tảng giúp họ có cách nhìn nhận sự
việc một cách thấu thị và thực sự nhân văn.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng có một nhận xét rất đáng chú ý: "Có tình
cảm đúng mới mong nhìn đúng, hiểu đúng trong các vấn đề khoa học xã hội". Thậm
chí, theo quan điểm của ông "một người dầu có nhiều tri thức xã hội, nếu tình cảm bị
sai lạc thì vẫn ngu dốt hơn cả những người không học". Một khi cầm bút chỉ để nhăm
nhăm có được những bài viết thu hút sự chú ý của độc giả bởi những tình tiết câu
khách rẻ tiền, chà đạp lên nhân phẩm của con người thì dù có thông minh sắc sảo bao
nhiêu, cách nhìn sự việc của vẫn khó tránh được định kiến, thiên lệch.
Khi tiếp cận sự kiện và vấn đề thông tin, nhà báo lựa chọn góc nhìn nào để làm ánh
lên những giá trị nhân bản. Sự kiện ba thanh niên ở Hà Tây (cũ) bị án tù oan ức mười
năm, được một người phụ nữ dày công tìm cách lôi ra ánh sáng của công lý, được báo
chí phân tích dưới góc nhìn văn hóa và nhân văn, như vậy vừa soi rọi vào mảng đen
của quyền lực, vừa chỉ ra luồn ánh sáng, khơi dậy niềm tin cho công chúng và chân lý
cuộc đời, mặc dù vụ án này còn nhiều gian truân và uẩn khúc mà hiện không gì tháo
gỡ.
Trong thông tin vụ án, nếu người viết chỉ mô tả tội ác đơn thuần mà không lý giải
nguyên nhân gây án, không rút ra những bài học ứng xử, bài học đạo đức cho công
chúng thì tác phẩm báo chí đó không thể nào nó thể tác động tích cực tới công chúng.
Là người cầm bút chân chính, chắc cũng không ai muốn vụ án xảy ra để mình có tin,
bài. Bởi vậy, ngoài ý nghĩa đáp ứng thông tin đơn thuần, việc viết tin, bài về vụ án còn
có ý nghĩa cảnh tỉnh công chúng, giúp họ rút ra những bài học xử thế để tránh lặp lại
những vụ việc tương tự trong cuộc sống. Trong một số trường hợp cũng có những
thông tin tự thân nó đã là một bài học cảnh tỉnh, song đa phần vẫn cần sự phân tích,

15



đánh giá một cách thấu đáo của người viết. Điều này giải thích tại sao lại có hiện
tượng: Cùng phản ánh về một vụ việc, có bài báo khiến độc giả thương cảm, muốn
chia sẻ nhiều với gia đình nạn nhân, trong khí có bài khiến độc giả đọc xong chỉ thấy
rùng mình ghê sợ…
2.3 Chi tiết
Chi tiết báo chí là thuộc tính khách quan cơ sở của sự kiện, là một trong những
yếu tố thuộc về nội dung và cấu thành nên tác phẩm báo chí. Chi thức chứa vai trò
chuyền tải phần sống động, phong phú đa dạng nhất của hiện thực, là cơ sở vật chất
quan trọng cấu thành nên tác phẩm báo chí. Có thể thấy, chi tiết là "vật liệu làm nên
tác phẩm báo chí".
Khi bàn về chi tiết, nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Tấn trong cuốn "Từ lý luận
đến thực tiễn báo chí" đưa ra khái niệm: "Chi tiết là những bộ phận nhỏ nhất của sự
kiện. Chi tiết có thể là một hành vi, một lời nói, một cử chỉ con người, một sự vật hay
một trạng thái cụ thể của hoàn cảnh diễn ra sự kiện".
Trong nhiều trường hợp, một chi tiết nhỏ cũng có sức tác động ghê gớm vào lý chí
và cảm xúc của con người. Hàm lượng văn hóa và giá trị nhân văn của tác phẩm báo
chí có thể ẩn chứa sức mạnh rồi dào và năng lượng văn hóa đằng sau những chi tiết do
nhà báo cung cấp. Thông qua những chi tiết cụ thể, sinh động và đang cựa quậy ấy sẽ
ánh lên nhân cách nghề nghiệp của nhà báo.
Tính nhân văn còn phải thể hiện ở đơn vị nhỏ nhất là chi tiết. Nói đến chi tiết nhân
văn trong một bài báo là nói đến nội dung tư tưởng, quan điểm đạo đức thẩm mỹ của
nhà báo thể hiện trong chi tiết đó. Chi tiết nhân văn phải là chi tiết trực diện và mạnh
mẽ đề cập đến vấn đề giá trị và thân phận của con người trong thái độ đồng tình, đồng
cảm, chia sẻ của người cầm bút. Hơn nữa một chi tiết giàu tính nhân văn về mặt nội
dung còn phải được thể hiện bằng một hình thức mang tính nghệ thuật đặc sắc. Có như
vậy mới tạo được sự tương xứng, hài hòa giữa nội dung và hình thức, tạo nên những
chi tiết "đắt" thâm thía giá trị nhân văn, đi vào tâm trí người đọc - những người thẩm
định cao nhất sức sống của chi tiết đó.
Làm sao để có được một chi tiết "đắc địa", thấm đãm tính nhân văn luôn là một câu

hỏi đặt ra cho người cầm bút. Bởi để có được những chi tiết làm dung cảm độc giả, nhà
báo phải có kiến thức sâu rộng, kỹ năng tác nghiệp thành thục và trên hết là nỗ lực
không mệt mỏi, tấm lòng nhân hậu và sự tâm huyết với nghề.
Ví dụ như :trong phóng sự Phải sống, số 200, ngày 27/5/2005, báo Lao Động,
Nguyễn Quang Vinh đã đặc tả chi tiết về ngoại hình, gây nỗi ám ảnh cho độc giả:
"Họ là ba anh em tật nguyền và cả ba đều bị chất độc màu da cam cướp đi đôi
chân lành lặn, chỉ còn ba thân người động cựa suốt ngày di chuyển bằng đôi tay trên
hai miếng gỗ tựa như ba củ khoai lang đang lăn lóc trên cát. Mấy chục năm qua họ

16


vẫn sống, đã sống, sống đúng nghĩa cao cả nhất. Nhưng trước khi làm được như vậy,
ba anh em họ đã từng nhiều lần quấn lấy nhau như ba con giun đất bên bờ sông Kiến
Giang toan tính một cái chết để thoát cảnh tàn tật, nghèo túng, cô độc và bế tắc".
Viết về những nạn nhân chất độc màu da cam, Nguyễn Quang Vinh đã đặc tả chi
tiết ngoại hình nhân vật gây nỗi ám ảnh trong tâm trí bạn đọc. So sánh thân người với
những "củ khoai lăn lóc trên cát", như "ba con giun đất trên bờ sông Kiến Giang", tác
giả đã miêu tả sự đau đớn quằn quại, đáng thương về thể xác và tinh thần của ba anh
em tật nguyền - nạn nhân của chiến tranh. Tính nhân văn trong việc khắc họa chi tiết
ngoại hình nhân vật của tác giả thể hiện ở ý sử dụng những hình ảnh giản dị nhất tránh
tối đa việc sử dụng những câu chữ có thể chạm tới nỗi đau của nhân vật.
Tính nhân văn của báo chí thể hiện ở các thức chọn chi tiết thông tin về sự kiện và
vấn đề trong tác phẩm. Nhà báo tập trung lựa chọn chi tiết để khoét sâu nỗi đau bất
hạnh của con người và tra tấn công chúng mình bởi những tin giật gân câu khách, hay
là ngay trong thông tin sự kiện cề những vụ án mạng dã man, vẫn có thể tìm lựa những
thông tin không làm đau thêm nỗi đau của người trong cuộc, không làm cho công
chúng và cộng đồng bị lụy và cuộc sống đen tối thêm.
2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu
Ngôn từ và giọng điệu của tác phẩm cũng là công cụ quan trọng trực tiếp biểu hiện

tính nhân văn của thông tin báo chí, đồng thời đó cũng là chỉ báo thang đo đẳng cấp
văn hóa và tính chuyên nghiệp của nhà báo. Cũng là giọng điệu chỉ trích, phê phán,
nhưng dùng từ chỉ trích, phê phán thế nào cho "lọt tai, lọt mắt" để công chúng có thể
chấp nhận và bài viết thể hiện sự thiện chí và cái tâm trong sáng của người viết, tránh
dùng từ ngữ chỉ chiết. thóa mạ hoặc gây sốc. Ông cha ta có câu "lời nói không mất
tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". "Vừa lòng nhau" ở đây mà nói không
phải là chiều lòng nhau, bỡ nợ hay nịnh nọt nhau, mà là tính chất và cấp độ của từ ngữ
sử dụng cần tương thích với bản chất của sự kiện giao tiếp, tính chất, mục đích và bối
cảnh thông tin. Gần đây trên một số tác phẩm báo chí xuất hiện ngày càng dày đặc
những từ nóng, "hot" như "kinh hoàng", "kinh khủng", "khủng khiếp", "rùng
mình",...chủ yếu do người viết tạo ra, sáo rỗng, chứ bản chất sự kiện không tới mức
như thế; mà dù bản chất sự kiện có đúng là như thế, cũng có thể nên dùng nhữ từ
"mền" hơn, thật hơn, gần gũi hơn.
Giữa việc lựa chọn chi tiết và cách dùng từ ngữ giọng điệu liên quan mật thiết với
nhau. Ngôn ngữ báo chí, chủ yếu là ngôn ngữ sự kiện, người viết nên để cho sự kiện
và chi tiết giao tiếp trực tiếp với công chúng; để cho sự kiện và chi tiết nói lên bản chất
sự kiện, vấn đề thông tin và ý đồ, ý định của nhà báo; nhà báo không cần và không nên
dùng từ ngữ khoa trương, sáo rỗng, bốc lên làm cho thông tin sự kiện trong bài viết
nhẹ tênh, nhạt nhẽo, thậm chí sự kiện thông tin bị sai lệch, bóp méo. Nếu cứ luôn cố

17


tình làm sai rồi xin lỗi hoặc thử hỏi, lần nào cũng là "lần đầu tiên là đáng tiếc", liệu
niềm tin của công chúng đối với đài truyền hình quốc gia, đối với báo chí có suy giảm,
trong khi nhiều đài truyền hình khác đang trở thành đối thủ nặng ký?
2.5. Về mặt hình thức
Tác phẩm mang tính nhân văn còn thể hiện ở cách tác giả triển khai vấn đề thấu
tình đạt lý, tạo mối dung cảm sâu sắc cho bạn đọc dựa trên việc giải quyết thỏa đáng
các yếu tố: ngôn ngữ, giọng điệu của tác giả.

Một tác phẩm mang tính nhân văn khi người viết biết khai thác tối đa năng lực
biểu hiện của ngôn ngữ, cân nhắc nội dung, ý nghĩa của từng loại từ đến việc tạo câu,
ngắt đoạng sao cho sáng nghĩa nhất, biểu hiện cao nhất tính nhân văn của tác phẩm báo
chí.
Ngôn ngữ trong một bài báo bao gồm ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật và ngôn
ngữ sự kiện. Nhờ các thành phần ngôn ngữ này mà một sự kiện được soi sáng từ nhiều
phía, tăng thêm tính khách quan xác thực, đa dạng nhiều chiều. Người viết trở thành
một người nhạc trưởng, điều khiển từng ngôn chữ đển ngôn từ giàu giá trị biểu đạt,
giàu cảm xúc để dung động sâu sắc đọc giả. Sử dụng thành công những phương diện đa
sắc thái vừa biểu đạt, vừa biểu cảm, vừa giàu tính văn học, vừa đậm chất báo chí đòi
hỏi người viết phải luôn biết tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm, vốn sống, từ đó giúp công
chúng hiểu và cảm thụ một cách sâu sắc tinh thần của bài viết.
Ngôn ngữ mang tính thông tin là chủ yếu. Tính khách quan, chính xác luôn được đặt
lên hàng đầu. Bên cạnh đó tính cô đọng, hàm xúc, phổ cập đại chúng được coi là những
phẩm chất bắt buộc, đóng vai trò như trụ cột, xương sống. Tuy nhiên phần ngôn ngữ
này lại nặng tính thông tấn mà không biểu hiện nhiều tính nhân văn, giá trị biểu cảm
của bài viết. Đề khắc phục, người làm báo cần có sự khéo néo, mền dẻo, linh hoạt
trong việc sử dụng ngôn ngữ bằng việc khéo léo đan cài ngôn ngữ sự kiện với ngôn
ngữ cái tôi của tác giả và ngôn ngữ nhân vật.
Giọng điệu của tác giả được biến tấu theo từng diễn biến của sự kiện. Đó có thể là
giọng điệu hài hước, châm biếm sâu cay, ngợi ca hay phê phán. Dù thể hiện ở bậc cảm
xúc nào, nhà báo phải lấy tâm điểm con người là hệ quy chiếu. Nghĩa là dù viết về cai
xấu hay cái tốt, ngợi ca hay phê phán, nhà báo phải luôn tâm niệm những điều mình
viết ra phải phục vụ quyền lợi con người.
Ví dụ, với giọng điệu chua sót, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng trong phóng sự Cá nấu
chín vẫn còn mùi thuốc sâu đăng tải trên số 12, ngày 12/1/2006 đã phơi bày hiện trạng
kho thuốc trừ sâu tại xã Yên Tập, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ là thủ phạm gây ra căn
bênh ung thư quái ác cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu người: "Mỗi lần nói đến
điệp khúc "chết vì K", anh Tấn lại chì chiết cứ như chính tôi là thủ phạm gây nên thảm
họa ở xóm anh. Cái xóm tử thầm đại gia đình chịu nhiều vành khăn tang vì ung thư


18


của anh ở ven quốc lộ, nhà anh đã phải di dời vào tít quả đồi này mà đời anh vẫn
không thoát được nanh vuốt của nó.".
2.6. Thời điểm đăng tải
Thời điểm đăng tải bài viết-xã hội hóa sự kiện và vấn đề thông tin đúng lúc và
đúng liều lượng, có chừng mực để có thể tạo ra hiệu ứng xã hội tốt nhất, phù hợp với
tâm lý và tâm trạng xã hội.
3.Nhà báo, công chúng báo chí và tính nhân văn của báo chí
Vấn đề cần chú ý là trong khi nhà báo viết về sự kiện và con người cụ thể với tư
cách là đối tượng phản ánh, với thái độ và quan điểm tiếp nhận của mình - dù chỉ trích,
phê phán hay ngợi ca, nhưng đồng thời thông qua tác phẩm báo chí được tiếp nhận,
công chúng và dư luận xã hội nhìn vào nhà báo và phán xét anh ta về mọi phương
diện. Nhà báo có thể phê phán và chỉ trích một vấn đề, một con người, nhưng công
chúng và dư luận xã hội cũng hoàn toàn có quyền - một cách tự nhiên, sẽ nhìn vào nhà
báo hoặc toàn soạn báo chí để thẩm định, phán xét nhân cách nhà báo và lập trường xã
hội của tòa soạn báo để thẩm định, phán xét nhân cách nhà báo và lập trường xã hội
của tòa soạn. Thiết nghĩ, nêu ra vấn đề này để chúng ta cùng suy nghĩ, hướng tới hạn
chế thông tin theo kiểu "dậu đổ bình leo", "đục nước béo cò". Bởi vì trong quá trình
xây dựng, nâng cao tính chuyên nghiệp và cách mạng của báo chí Việt Nam, một trong
những vấn đề quan trọng là xây dựng và củng cố lập trường chính trị - xã hội, bản lĩnh
nghề nghiệp và tính nhân văn của báo chí, để có thể gia tăng niềm tin của công chúng
xã hội vào báo chí. Mà báo chí của chúng ta là cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng,
nhà nước và là diễn đàn của nhân dân vì sự phồn thịnh và phát triển bền vững của đất
nước.

19



Công chúng báo chí có thể hiểu là quần thể dân cư hay nhóm đối tượng mà báo
chí gây ảnh hưởng hoặc hướng vào để gây ảnh hưởng . Như vậy công chúng báo chí
được xem xét trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí , với cơ quan báo chí và với
nhà báo.
Có thể nhận thấu rằng, nhờ năng lực nghề nghiệp của nhà báo và sự hỗ trợ của kỹ
thuật và công nghệ truyền thông số, thông tin sự kiện, phản ánh tình hình thời sự của
báo chí nước ta hiện nay rất nhanh nhạy. Nhưng trong thực tế hiện nay, có những biểu
hiện làm báo vội vàng đưa tin về tất cả những gì nhà báo biết, mắt thấy tai nghe mà đôi
khi chưa cân nhắc cẩn thận đến hiệu quả tác động của tin, bài báo. Trong nghệ thuật
làm báo không chỉ có nghe, nhìn mà còn quan trọng hơn phải suy nghĩ sâu lắng, cân
nhắc, xem xét vấn đề một cách kỹ lưỡng về ý nghĩa tác động của sự kiện thông tin mà
nhà báo cung cấp cho công chúng. Nhà báo cần có óc phân tích tốt, cần phải phân tích
bản chất sự kiện và vấn đề cũng như năng lực tác động của nó trong các mối quan hệ
đặt ra. Bởi nếu thông tin nhanh mà thiếu chọn lọc, cân nhắc mà nhất là thiếu phân tích
thì khả năng đem lại niềm tin cho công chúng sẽ bị suy giảm. Mà mỗi khi công chúng
mất niềm tin vào thông tin báo chí, thì sức mạnh xã hội của báo chí sẽ suy giảm, thậm
chí không còn. Báo chí đánh mất niềm tin nơi công chúng là đánh mất tất cả. Trong
cuộc cạnh tranh giữa các loại hình báo chí hiện nay, báo in sẽ mất dần lợi thế về tính
nhanh nhạy của thông tin, "nhường" ưu thế này cho báo mạng điện tử và báo hình, báo
nói. Nhưng thế mạnh cố hữu của báo in sẽ không bao giờ mất đi vì nó gắn với văn hóa
đọc, gắn với thuộc tính "văn bia" đã xe duyên với công chúng qua hàng mấy thế kỷ,
khi nó biết chọn lọc và phân tích thông tin nhiều chiều, theo chiều sâu chí tuệ và cảm
xúc nhân văn sâu lắng trong mỗi con người trong sự phù hợp với công chúng - nhóm
đối tượng về sự kiện và vấn đề thông tin.

20


III. Liên hệ

1.Tính nhân văn trong báo chí hiện nay
1.1. Tình hình chung
Cùng với sự đóng góp của báo chí vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước,
công chúng xã hội cũng đã nhìn nhận càng ngày càng nghiêm túc hơn trước
những gì báo chí đã và đang thông tin cho công chúng, suy ngẫm lại những điều
căn cốt trong cuộc sống và sự phát triển của cộng đồng, từ đó công chúng lựa
chọn thể loại báo chí nào nên đọc và xem có thể gửi gắm được niềm tin, cao hơn
là có thể tin cậy được, có nghĩa là có thể tin và cậy nhờ khi mà cuộc sống hằng
ngày thường diễn ra với đầy rẫy và ngổng ngang những điều xấu và tốt, hay và
dở, tàn bạo và nhân văn, chân thành và dối trá, lừa lọc, bản lĩnh và sự dối trá, lừa
lọc, bản lĩnh và sự hèn nhát…Do đó, tính nhân văn của báo chí và niềm tin của
công chúng đối với báo chí hiện nay là một trong những vấn đề đã và đang được
quan tâm đúng mức.
Hầu hết trên những tờ báo mạng hiện tay đã chú tâm tới khai thác khía cạnh các đề
tài nhằm thể hiện nguyên tắc tính nhân đạo của mình. Do đề tài tính nhân đạo rất rộng
nên hầu hết trên các báo đều có các khía cạnh nhân đạo đó...ví dụ các bài báo về tình
trạng phụ nữ bị bạo lực, trẻ em bị ngược đãi, đối xử, tình trạng môi trường xuống cấp,
thiên tai, lũ lụt…hay những ý kiến đánh giá nguyên nhân, giải pháp…Tuy nhiên trong
thời buổi kinh tế thị trường nhiều báo chú trọng tới việc giải trí hơn là chú trọng khai
thác đề tài nhân đạo.
Đối với bất kỳ ngành nghề nào, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng phải được đặt
lên hàng đầu, bởi đây chính là thước đo giá trị của việc hành nghề chân chính. Nhìn lại
quá trình phát triển, có thể khẳng định, nền báo chí cách mạng Việt Nam luôn thể hiện
tư tưởng nhân văn, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú của cuộc sống, từ đó
đấu tranh loại bỏ những nhân tố xấu trong xã hội, nhân rộng những tấm gương người
tốt việc tốt, giữ gìn những nét đẹp văn hóa của dân tộc, hướng con người đến giá trị
chân - thiện - mỹ…Tuy nhiên, những năm gần đây do xu hướng phát triển ồ ạt của các
mạng xã hội, báo điện tử…đã và đang xuất hiện cách làm báo rất đáng lo ngại gây
hoang mang trong dư luận.
Trước quan ngại của nhiều nhà báo xung quanh vấn đề một số tờ báo mạng hiện

nay khai thác đời tư cá nhân hoặc đưa những thông tin sai lệch để giật gân, câu khách
mà không lường đến hậu quả, nhà báo Nguyễn Xuân Vinh cho rằng: “Đội ngũ nhà báo
trong quá trình tác nghiệp ngoài việc tôn trọng sự thật phải chú ý đến yếu tố nhân văn
trong cách thể hiện. Ngòi bút của người viết phải có tính nhân văn. Khi viết báo phải
suy nghĩ đến hiệu quả, đến cái “hậu” về sau, nhà báo không nên vì lợi ích nhất thời mà
bỏ quên tính nhân văn cao cả của báo chí”.

21


1.2. Tình hình cụ thể
1.2.1. Việc đã làm được, làm tốt
Bằng những trang viết nhân văn, tác giả đã hướng sự chú ý của độc giả vào những
hoàn cảnh, thân phận gặp nhiều éo le, ngang trái, từ đó khơi dậy trong lòng công chúng
tình cảm nhân ái, yêu thương, đùm bọc, chở che. Quan trọng hơn sự đồng cảm, đồng
điệu của công chúng với xúc cảm của người viết không chỉ bộc lộ trong quá trình tiếp
nhân tác phẩm mà còn biến thành ành động thực tế, nhiều bài báo sau khi đăng tải đã
tạo ra hiệu ứng xã hội vô cùng mạnh mẽ.
Ví dụ, vụ án của bé Lê Thị Nhật Linh bị xâm hại và ám sát ngày 24/3/2017 tại
Nhật Bản, tên sát nhân không chịu khai bất cứ thông tin gì và không chịu hợp tác với
cơ quan điều tra cho dù đã có chứng cứ phạm tội hoàn toàn thuyết phục. Bố mẹ của
Nhật Linh ngày qua ngày vẫn đi xin chữ ký tại gas tàu nhằm kêu gọi nhà chức trách
Nhật Bản xét xử và tử hình nghi phạm sát hại con gái "Gia đình chúng tôi đã phải trải
qua những ngày tháng đau đớn mất mát lớn nhất mà không từ ngữ nào có thể diễn tả
nổi, vì vậy chúng tôi không muốn có thêm một ông bố bà mẹ nào trên đời chịu đựng
nỗi đau mất con bởi nạn ấu dâm và sát hại trẻ em nữa. Tôi không muốn có thêm đứa
trẻ nào trên đời phải chết tức tưởi oan ức như con tôi nữa". Không chỉ báo chí Nhật
Bản mà báo chí Việt Nam đã đưa tin, kêu gọi và tạo được hiệu ứng cộng đồng để
chung tay ký tên giúp bố mẹ Nhật Linh tìm lại được công bằng cho con gái của mình.
Hàng chục nghìn chữ kỹ đã được gửi lên tòa án để xét xử bị cáo theo sự nghiêm minh

của pháp luật.
Nhà báo là một danh xưng rất đáng trân trọng và là sự trao truyền thiêng liêng quý
giá. Tự hào có một nền báo chí cách mạng chính trực, nhân văn, được xây đắp bằng
những người làm báo trung thực, đầy trách nhiệm. Một nền báo chí nhân văn tích cực,
lành mạnh mà toàn thể đội ngũ nhà báo đã và đang cố gắng hết sức xây đắp sẽ có sức
mạnh to lớn để bảo vệ giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, bảo vệ quyền lợi của đất nước,
dân tộc chúng ta, bảo vệ quyền lợi của từng người dân, mà trong đó có quyền cá nhân
và đời sống cá nhân được pháp luật bảo hộ.
Như vụ án lập quỹ trái phép ở Nông trường Sông Hậu mà chị Trần Ngọc Sương (Ba
Sương) là bị cáo, là kẻ phạm tội (lãnh án 8 năm tù và bồi thường 4,3 tỷ đồng) theo
tuyên án của tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Báo chí lập tức lên tiếng, báo chí không bàn
luận việc tòa tuyên án như vậy là đúng hay chưa đúng, bởi đó là trách nhiệm và thẩm
quyền của tòa án, của luật pháp. Tòa xử theo luật, theo chứng cứ, theo hồ sơ, ai sai thì
xử tù, ai bị xử oan thì được minh oan. Tất cả đã có sự minh định của pháp luật. Báo
chí thực hiện chức năng thông tin, thông tin dư luận, cho rằng vụ án này có cái gì đó
chưa ổn về tính nhân văn, vụ án chưa được dư luận xã hội đồng tình. Trước hết, về dư
luận xã hội, trong con mắt của người dân, người anh hùng lao động của thời kỳ đổi

22


mới này là người “biết thương dân”, biết đổi thay cái nghèo, biến cái khó, cái nghèo
của một vùng đất sình lầy nghèo đói thành vùng đất trù phú. Chị Ba Sương không tư
túi; ai nghèo, ai khó, bất cứ họ là ai, chị đều có mặt với một thái độ chân thành, giàu
lòng nhân ái. Vụ án “lập quỹ trái phép ở nông trường sông Hậu” rồi sẽ được xem xét
lại, ít nhất cũng là giám đốc thẩm như kiến nghị của chị. Vụ án sẽ được xem xét ở cấp
tòa án cao hơn, bởi dư luận và hiệu ứng xã hội của vụ án này được rất nhiều người
quan tâm. Báo chí đã thể hiện tính nhân văn kịp thời trong một vụ việc rất cần lên
tiếng.
Tháng 11/2009, báo chí công bố nhiều bài viết, những phóng sự ảnh về các băng

nhóm lợi dụng lòng tốt của nhiều người, chăn dắt hàng chục, thậm chí hàng trăm cụ
già 70 - 80 tuổi bệnh tật, lưng gù đi ăn xin, bán vé số kiếm tiền để cung phụng bọn mất
tính người, đã làm dấy lên làn sóng phẫn nộ của dư luận. Tại sao trong một xã hội tốt
đẹp, đất nước đổi mới, cái nghèo, cái khó, cái không công bằng đang bị xua tan, mà lại
có một sự thật đau lòng như thế. Báo chí đã cảnh báo, đã rất nhân văn khi có những
phóng viên dũng cảm bỏ ra bao công sức - kể cả sự nguy hiểm để điều tra, phanh phui
một sự thật đau lòng, dóng lên một tiếng chuông để xã hội vào cuộc, để xã hội ta, đất
nước ta không còn những tồn tại hết sức nhẫn tâm đối với những cụ già không nơi
nương tựa.
Phù hợp với những tiêu chuẩn nhân đạo chung của toàn thể loài người, đồng thời
cũng là những tiêu chuẩn bẳt buộc của đạo đức nghề nghiệp, báo chí chân chính chẳng
nhũng không tuyên truyền bạo lực, kích dâm, gây chia rẽ, thù hằn tôn giáo và dân tộc
mà còn tích cực tham gia đấu tranh chống lại những tộỉ ác đó, đấu tranh bảo vệ hòa
binh, bảo vệ môi trường, phát động các phong trào quần chúng rộng rãi để cảnh giác
và đẩy lùi các hiểm họa đe dọa con người và sức khoẻ con người như đại dịch
HIV/AIDS và hiểm họa hạt nhân. Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của báo chí, từ
lâu nhiều nhà báo đã lo lắng, lên tiếng cảnh tỉnh nhân loại về nhũng hiểm họa đó. Báo
chỉ đang bước vào một cuộc chiến đấu mới, bảo vệ nền văn minh của loài người, xứng
đáng là tiếng nói của lương tâm nhân loại.
1.2.2. Việc chưa làm được, làm chưa tốt
Cùng với những thành tựu và ưu điểm, hoạt động báo chí vẫn còn những khuyết
điểm, cũng như còn có một số biểu hiện như: giật gân câu khách, chạy theo thị hiếu
không lành mạnh của số ít công chúng; chạy theo lợi nhuận thuần túy; không ít biểu
hiện độ chính xác thông tin thấp do "thông tin hấp tấp", thông tin sai lệch bản chất sự
kiện, thậm chí vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích công dân và lợi ích tổ chức, doanh
nghiệp; có bé xé ra to, thậm chí vo tròn bóp méo vì lợi ích cục bộ hoặc có biểu hiện
"đâm bị thóc chọc bị gạo"; có bé xé ra to, có biểu hiện xa rời tôn chỉ mục đích; hiện
tượng "bán cái" cho các đầu nậu vẫn còn và có chiều hướng gia tăng; chất lượng văn

23



×