Tải bản đầy đủ (.doc) (265 trang)

Nghề làm giầy da ở hai làng giẽ thượng và giẽ hạ, xã phú yên, huyện phú xuyên, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.23 MB, 265 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆ N KHO A HỌC XÃ
HỘI

NGUYỄN VĂN NGỰ

NGHỀ LÀM GIẦY DA
Ở HAI LÀNG
GIẼ THƯỢNG VÀ GIẼ HẠ, XÃ PHÚ YÊN,
HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

Mã số : 9310302
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI XUÂN ĐÍNH

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Những luận điểm mà luận án kế thừa của các tác giả đi trước
đều được ghi rõ xuất xứ.
Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2019
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Văn Ngự



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Luận án tiến sĩ Nhân học với đề tài “Nghề làm
giầy da ở hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ, xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội”, tôi nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể, cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới:
- Học viện Khoa học xã hội, Khoa Dân tộc học - Nhân học thuộc Học viện
đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương trình học tập, nghiên cứu, bảo vệ luận
án.
- Huyện ủy Phú Xuyên, Đảng ủy, HĐND, UBND xã Minh Tân - nơi tôi
đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được theo học, hoàn thành
chương trình nghiên cứu sinh khóa 2014 - 2018.
- Lãnh đạo Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và cán bộ các bộ phận giúp việc xã
Phú Yên, nhân dân hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ đã tạo điều kiện thuận lợi để
tôi tiếp cận, khai thác các nguồn tư liệu cho luận án trong các đợt điền dã từ 20142018.
- Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ, động viên, tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận án.
- Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy Bùi Xuân Đính,
đã tận tình chỉ bảo tôi trong việc định hướng đề tài, tiếp cận các phương pháp,
các kinh nghiệm nghiên cứu, thu thập, xử lý tư liệu, thực hiện các ý tưởng khoa
học, để tôi hoàn thành tốt luận án này.
Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2018
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Văn Ngự


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
của luận án

5

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

8

7. Kết cấu của luận án

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,

9

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

9

1.2. Cơ sở lý thuyết của luận án

21

1.3. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu

31

Tiểu kết Chương 1

43

Chương 2. NGHỀ LÀM GIẦY DA

45

Ở HAI LÀNG GIẼ THƯỢNG, GIẼ HẠ TRƯỚC NĂM 1992

2.1. Nghề làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ trong bối cảnh


45

sản xuất giầy da của Việt Nam
2.2. Nghề làm giày da truyền thống ở hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ

49

Tiểu kết Chương 1

65

Chương 3.

67

NGHỀ LÀM GIÀY DA Ở HAI LÀNG GIẼ TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY


2

3.1. Sự hồi phục nghề làm giày da và sự phát triển của nghề

67

3.2. Đại lý nguyên vật liệu, phụ kiện và sự chuyển biến trong tổ chức

82

sản xuất nghề làm giày da

3.3. Sự hình thành tầng lớp chủ cơ sở sản xuất - kinh doanh

94

Tiểu kết Chương 3

108

Chương 4.

TÁC ĐỘNG CỦA NGHỀ LÀM GIÀY DA VỚI CÁC KHÍA CẠNH
VĂN HÓA, XÃ HỘI, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI NGHỀ HIỆN NAY

110

4.1. Tác động của nghề làm giầy da đối với đời sống kinh tế - xã hội

110

4.2. Tác động của nghề tới giáo dục, văn hóa

115

4.3. Những vấn đề đặt ra về cơ hội phát triển của làng nghề giày da
Giẽ Thượng, Giẽ Hạ hiện nay

130

4.4. Một số đề xuất, khuyến nghị từ nghiên cứu nghề làm giày da ở
hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ


143

Tiểu kết Chương 4

145

KẾT LUẬN

148

CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

163

Phụ lục 1. Danh sách các cộng tác viên cung cấp tư liệu và được
phỏng vấn

163

Phụ lục 2. Hệ thống các di tích thờ cúng của hai làng Giẽ Thượng,

Giẽ Hạ

158

Phụ lục 3. Điều lệ Hội Da - Giầy Phú Yên (theo y bản chính)

174

Phụ lục 3. Một số hình ảnh làng nghề Giẽ Thượng, Giẽ Hạ

184


3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HỘP PHỎNG VẤN

STT
1

Tên bảng, sơ đồ, hộp phỏng vấn
Bảng 3.1. Các loại hộ sản xuất,

Trang
71

kinh doanh của các thôn (năm 2017)
2

Bảng 3.2. So sánh sự giống nhau và khác nhau về nghề truyền

thống và nghề hiện nay của hai làng Giẽ

106

3

Bảng 3.3. So sánh sự giống nhau và khác nhau của làng nghề
Giẽ Thượng, Giẽ Hạ với một số làng nghề tiêu biểu vùng châu
thổ Bắc Bộ

107

4

Bảng 4.1: Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội xã Phú Yên
(2010 - 2017)

112

5

Sơ đồ 1. Mô hình tổ chức sản xuất giày da ở Giẽ Thượng, Giẽ

80

Hạ (Giai đoạn 1996 - 2016)
6

Sơ đồ 2. Mô hình tổ chức sản xuất giày da ở Giẽ Thượng, Giẽ
Hạ hiện nay


90

7

Hộp 3. 1. Về quan hệ không tốt trong làm ăn với người trong họ

85

8

Hộp 3. 2:.Về sự hình thành cơ sở sản xuất mới nhờ sự giúp đỡ
của chủ cơ sở sản xuất ở làng Giẽ

88

9

Hộp 4.1. Lúng túng trong việc mở rộng quy mô xưởng sản xuất

133

10

Hộp 4.2. Khó khăn về tư duy sản xuất

133

11


Hộp 4.3. Về việc không muốn xây dựng thương hiệu giầy da

139

12

Hộp 4. 4. Khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu

140

13

Hộp 4.5. Về nguyên nhân muốn chuyển sang kinh doanh
nguyên vật liệu, phụ kiện nghề giày da

142

14

Hộp 4.6. Về sự lưỡng lự trong mở rộng nghề hiện nay

144


4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trên vùng châu thổ Bắc Bộ, từ xưa đã hình thành nhiều nghề thủ công.

Bên cạnh những nghề ra đời từ rất sớm, gắn với quá trình cha ông ta mở
làng, lập nước, như đan lát, dệt, làm gốm…; lại có nghề xuất hiện rất muộn
do điều kiện của cuộc sống. Một trong những nghề đó là làm giày da, xuất
hiện vào giữa thế kỷ XVI. Tập quán sinh hoạt cũng như mức sống thấp kém
của người nông dân trước đây làm cho sản phẩm của nghề giày da không có
chỗ đứng ở nông thôn, mà chủ yếu phục vụ người Pháp và tầng lớp trên
của người Việt sinh sống ở các đô thị. Do vậy, số người làm nghề không
nhiều và phải mưu sinh ở các thành phố. Tình hình này tiếp diễn đến tháng
10 - 1954.
Từ hòa bình lập lại, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước Việt
Nam giúp cho nghề làm giày da có những phát triển nhất định. Tại nhiều địa
phương đã xuất hiện các hợp tác xã thủ công nghiệp hoặc các tổ sản xuất
giày da, chủ yếu làm gia công cho các nhà máy, xí nghiệp; sản phẩm chủ yếu
để phân phối cho cán bộ và quân đội. Đại bộ phận cư dân nông thôn do điều
kiện kinh tế khó khăn và do chế độ phân phối, bao cấp không sử dụng sản
phẩm này.
Nghề làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ (xã Phú Yên,
huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội) bắt đầu hình thành từ năm 1918,
do một số người làng học được nghề ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó
cùng con cháu làm nghề ở nhiều nơi, lập được các cửa hàng cửa hiệu lớn,
rồi đưa người của hai làng ra làm nghề ở các đô thị suốt những năm thời
Pháp thuộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống Pháp và


5

sau hòa bình lập lại, nghề làm giày da của người hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ
không có điều kiện phát triển, do chiến tranh, đời sống khó khăn. Một số
thợ



6

tiếp tục bám trụ ở các đô thị để mưu sinh, một số trở về quê sinh sống.
Sản phẩm giày da chủ yếu phục vụ một bộ phận những người có thu nhập
trong xã hội; công chức, nhà buôn, người có điều kiện kinh tế ở đô thị, vì thế
nghề làm giầy da không phát triển.
Đến năm 1965, Hợp tác xã Giày da Phú Yên được thành lập, gồm các
thợ giày cũ và mới là người trong, ngoài xã; chủ yếu làm gia công cho Tổng
Công ty giày da xuất khẩu Hà Nội. Đến năm 1985, do khủng hoảng kinh tế,
hợp tác xã phải giải thể. Hầu hết những người thợ giầy hai làng Giẽ Thượng,
Giẽ Hạ phải bỏ nghề, trong sự xót xa, tiếc nuối.
Từ năm 1990, những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới đã
tác động đến nghề làm giày da. Đời sống nhân dân được cải thiện. Số
người sử dụng giày da tăng lên mạnh mẽ, kể cả ở nông thôn. Đó là điều
kiện để nghề làm giày da phát triển về nông thôn, làm hình thành các làng
chuyên làm giày da. Tại nhiều địa phương, từ một làng nghề phát triển
thành xã nghề. Một trong những làng nghề - xã nghề làm giày da phải kể
đến là làng nghề Giẽ Thượng và Giẽ Hạ. Những người thợ giầy hai làng tập
hợp lại, khôi phục, mở mang nghề giầy truyền thống của quê hương. Nhiều
lớp thanh niên đi các nơi học nghề, tiếp thu kinh nghiệm, tiếp nối, phát
huy truyền thống tài hoa của cha ông, phát triển nghề làm giày thành nghề
tạo ra kinh tế mũi nhọn của địa phương. Đến năm 2017, hai làng có 03 công
ty, gần 400 cơ sở hộ gia đình sản xuất, kinh doanh nghề da - giày, thường
xuyên thu hút khoảng 2.000 lao động (khoảng 80% lao động trong xã) và
trên 1.000 lao động từ các nơi khác về học nghề, làm nghề. Nghề sản xuất
giày da truyền thống của hai giữ vai tròlớn trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thu nhập của cả xã Phú Yên. Năm 2017, giá trị thu nhập từ ngành
nghề của xã ước đạt trên 90 tỷ đồng, chiếm 60% cơ cấu kinh tế của xã.

Nghề làm giày da giúp hai làng cũng như cả xã Phú Yên từ một vùng đất
chiêm trũng nghèo, trở nên trù phú và hiện được xác


7

định là ngành kinh tế chủ lực của địa phương trong tương lai. Đặc biệt từ
năm 2006, từ hai làng Giẽ, nghề làm giày da được mở rộng sang địa bàn các
xã lân cận và khu vực, tạo ra các xã nghề và vùng nghề.
Nghiên cứu nghề làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ về mặt
khoa học làm rõ sự hình thành và phát triển của một loại hình nghề lâu nay
chưa được quan tâm, góp phần vào việc nghiên cứu nghề thủ công và
làng nghề nói chung; nhất là làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển
từ làng nghề đến xã nghề - vùng nghề. Về mặt thực tiễn, tìm hiểu nghề làm
giầy da ở hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ, xã Phú Yên tạo cơ sở khoa học
để ngành công nghiệp và các ngành có liên quan huyện Phú Xuyên, cấp ủy
và chính quyền xã Phú Yên đề ra các giải pháp để nghề tiếp tục được mở
rộng, các làng nghề phát triển theo hướng bền vững.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nghề làm giầy da ở hai làng Giẽ
Thượng và Giẽ Hạ xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội” 1làm
luận án tiến sĩ Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2. 1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ các khía cạnh cơ bản của nghề làm giày da ở hai làng Giẽ
Thượng và Giẽ Hạ (các yếu tố tác động đến nghề, quy trình làm nghề và tổ
chức làm nghề, sản phẩm nghề, vị trí của nghề trong đời sống, các khía
cạnh nổi bật về xã hội và văn hóa liên quan đến nghề làm giày da hiện nay)
dưới góc độ Nhân học.

1


Quyết định đề tài luận án của Học viện Khoa học xã hội ghi là “Nghề làm giầy da ở hai
làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội”. Tuy
nhiên, để phù hợp với cách viết chính tả, trong luận án, nghiên cứu sinh dùng từ “giày
da”. Cách dùng này không làm thay đổi mục đích và nội dung được trình bày của luận án.


8

- Chỉ ra thực trạng phát triển, những vấn đề đang đặt ra đối với nghề
và làng nghề làm giày da, tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp
góp phần phát triển bền vững cho làng nghề.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập các nguồn tài liệu thứ cấp (các tài liệu lưu trữ về hai làng
Giẽ Thượng, Giẽ Hạ, các công trình nghiên cứu về các khía cạnh của nội
dung luận án), tổng quan các nguồn tài liệu để có cái nhìn ban đầu về
nghề, làng nghề và hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ.
- Tiến hành điền dã tại thực địa để thu thập các nguồn tài liệu liên
quan đến các khía cạnh của nội dung luận án.
- Tổng hợp tư liệu và phân tích, giải mã các hiện tượng, nhằm làm rõ
các nội dung đề ra của luận án, trong đó, tập trung làm nổi bật các khía
cạnh của nghề giày da trước đây và sự biến chuyển trong điều kiện hiện nay,
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những khía cạnh nổi bật nhất
của nghề làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ trong giai đoạn hiện
nay từ tư liệu khảo sát thực tế. Nội dung về “Những khía cạnh bật nhất của
nghề làm giày da” và khái niệm “Giai đoạn hiện nay” sẽ được làm rõ ở phần
sau.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu của luận án là hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ
thuộc xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án chủ yếu là từ năm 1992
đến nay, khi nghề giày da được phục hồi, tập trung vào khoảng thời gian 10
năm gần đây (2007 - 2017), khi nghề giày da có bước phát triển mạnh mẽ.


9

4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Phép biện chứng có nội dung chủ đạo là coi yếu tố kinh tế luôn có quan hệ
chặt chẽ với các yếu tố khác và ngược lại. Trong trường hợp đang bàn, nghề
làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng, Giẽ Hạ là một hoạt động kinh tế, nên có
mối quan hệ với các yếu tố môi trường, dân cư, xã hội, chính sách, và các
khía cạnh kinh tế khác. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử
đòi hỏi đặt các khía cạnh nghiên cứu trong những điều kiện lịch sử nhất
định.
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về kinh tế nông thôn, về nghề thủ công và làng nghề, đặc biệt coi
nghề thủ công là một di sản văn hóa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp thu thập, phân tích kế thừa các tài
liệu nghiên cứu đi trước, để thấy rõ các khía cạnh về nghề và làng nghề đã
được nghiên cứu, các khía cạnh còn bỏ ngỏ, từ đó, đặt ra các vấn đề cần
nghiên cứu cho luận án.
Để có được nguồn tư liệu cho luận án, nghiên cứu sinh sử dụng
phương pháp điền dã Dân tộc học. Mỗi lần điền dã tại địa bàn, ngoài các

thao tác quan sát, quan sát - tham dự, nghiên cứu sinh chú trọng sử dụng
các thao tác cơ bản dưới đây:
- Phỏng vấn: nghiên cứu sinh thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn (phỏng
vấn có định trước và phỏng vấn ngẫu nhiên) với 57 người, đối tượng
phỏng vấn là các bậc cao niên am hiểu, các chủ cơ sở sản xuất (chủ gia


đình gia

10


11

công, các chủ sản xuất giầy, chủ công ty, doanh nghiệp), các công nhân làm
thuê, các cán bộ lãnh đạo của xã, thôn…, để thu thập các thông tin, tư liệu
về nghề và làng nghề hiện nay.
- Điều tra hồi cố: thao tác áp dụng với các bậc cao niên am hiểu để
thu thập các thông tin về các khía cạnh của làng truyền thống, về nghề cổ
truyền (sự du nhập nghề và tổ chức làm nghề). Trong điều tra hồi cố,
nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp tìm hiểu lịch sử kinh tế gia đình để
thấy được con đường đi lên từ làm nghề của một số cơ sở sản xuất tiêu biểu
của hai làng.
- Trao đổi nhóm: nghiên cứu sinh tiến hành một số cuộc trao đổi
nhóm với các đối tượng là các bậc cao niên của các làng, ban quản lý các
thôn làng, một số chủ cơ sở sản xuất để thu thập tư liệu, các ý kiến tập thể
về nghề và làng nghề hiện nay.
Sau khi có tương đối đầy đủ thông tin tư liệu đã được thẩm
định, nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích và diễn giải: là phương pháp thường

dùng trong các công trình nghiên cứu Dân tộc học, để lý giải các hiện
tượng mà nguồn tư liệu phản ánh.
- Phương pháp thống kê: là việc lập các bảng thống kê các sự kiện, hiện
tượng, phục vụ cho việc phân tích, diễn giải và so sánh.
- Phương pháp so sánh: nhằm làm rõ sự khác biệt giữa nghề làm
giầy da truyền thống với nghề làm giày da hiện nay; so sánh một số điểm
tương đồng và khác biệt giữa nghề làm giày da ở hai làng Giẽ Thượng, Giẽ
Hạ với các làng nghề có tiếng trên vùng châu thổ Bắc Bộ hiện nay, như
Triều Khúc (huyện Thanh Trì, Hà Nội), Phương La (huyện Hưng Hà, Thái
Bình), Đại Tự (huyện Hoài Đức, Hà Nội) để thấy được tính đa dạng của việc
làm nghề của cư dân các làng trên vùng châu thổ Bắc Bộ.


12

- Phương pháp hệ thống (hay phương pháp tổng thể), đặt hiện
tượng được nghiên cứu với các yếu tố khác. Trong trường hợp đang bàn,
phương pháp hệ thống đặt làng nghề Giẽ Thượng, Giẽ Hạ trong mối quan
hệ với yếu tố vùng (vùng chiêm trũng, tiểu vùng văn hóa Xứ Nam), đặt nghề
làm giày da trong một quan hệ với các yếu tố điều kiện tự nhiên, con
người, cơ cấu tổ chức làng xã, các yếu tố chính sách, xã hội, văn hóa …
Trong quá trình điều tra tư liệu và viết luận án, nghiên cứu sinh sử
dụng phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để có thêm các ý tưởng
khoa học cho nội dung luận án.
4.3. Nguồn tư liệu của luận án
Nguồn tư liệu chính của luận án là tư liệu điền dã, được thu thập từ
các cuộc khảo sát tại hai làng Giẽ Thượng và Giẽ Hạ, gồm tư liệu phỏng vấn,
thảo luận nhóm và tư liệu thành văn (các báo cáo của cấp ủy, chính
quyền địa phương, Hội Da giày Phú Yên).
Luận án kế thừa các tư liệu, các kết quả nghiên cứu về làng Việt, về

nghề thủ công và làng nghề của các công trình đã công bố từ trước đến nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về nghề làm giày da ở hai
làng cụ thể dưới góc độ Nhân học, góp phần làm sáng tỏ một trong những
đặc điểm văn hóa nổi bật của người Việt về tiếp thu, vận dụng, phát triển
nghề trong vùng châu thổ sông Hồng.
- Luận án tạo cơ sở khoa học cho các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý đề ra các chính sách, các giải pháp giúp địa phương phát huy các
tiềm năng, thế mạnh, những đức tính và truyền thống tốt đẹp của của
nhân dân trong xã để phát triển kinh tế và văn hóa bền vững.


13

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án cung cấp thêm tư liệu về một loại hình nghề và làng nghề lâu
nay chưa được quan tâm nghiên cứu; góp phần vào nghiên cứu nghề thủ
công và làng nghề nói chung, nghề làm giày da nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án chỉ ra những yếu tố thuận lợi, khó khăn, thách thức hay
những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của nghề và làng nghề hiện nay,
tạo cơ sở khoa học góp phần giúp cấp ủy, chính quyền địa phương có thêm
những giải pháp phát triển nghề làm giày da.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận án
được chia làm bốn chương:
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ GIỚI THIỆU
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU


Chương 2: NGHỀ LÀM GIÀY DA Ở HAI LÀNG GIẼ THƯỢNG, GIẼ HẠ TRƯỚC NĂM 1992
Chương 3: NGHỀ LÀM GIÀY DA Ở HAI LÀNG GIẼ THƯỢNG, GIẼ HẠ TỪ NĂM 1992 ĐẾN
NAY

Chương 4: TÁC ĐỘNG CỦA NGHỀ LÀM GIÀY DA VỚI CÁC KHÍA CẠNH VĂN HÓA, XÃ
HỘI, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.


14

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghề thủ công người Việt
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghề thủ công và làng
nghề của người Việt ở Bắc Bộ, bao gồm các cuốn sách, các đề tài khoa học,
các luận văn, luận án tiến sĩ... dưới các góc độ: Kinh tế học, Sử học, Văn hóa
học, Nhân học… Các công trình đã phản ánh sinh động nhiều khía cạnh của
nghề và làng nghề trong các bối cảnh xã hội khác nhau. Dưới đây, luận án
điểm các công trình tiêu biểu nhất dưới góc độ Dân tộc học/ Nhân học.
1.1.1.1. Những công trình giới thiệu và khảo tả về các nghề thủ công
Đây là chủ đề nổi bật của các công trình nghiên cứu. Tiêu biểu trong số
các tác phẩm này là Quê gốm Bát Tràng, Làng Vó và nghề đúc đồng truyền
thống của Đỗ Thị Hảo [25, 26], Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV - XIX do Phan
Huy Lê chủ biên [48], Ba tập Nghề cổ truyền của Sở Khoa học công nghệ và
Môi trường, Bảo tàng Hải Hưng [31, 32, 33], Làng thủ công mỹ nghệ miền
Bắc, Gốm sành nâu ở Phù Lãng của Trương Minh Hằng [27, 28], Làng tranh
Đông Hồ của Nguyễn Thái Lai [46]… Sau khi điểm qua nguồn gốc của nghề,

các nghiên cứu tập trung trình bày các đặc điểm chính yếu nhất của nghề
thủ công truyền thống, gồm nguồn nguyên liệu, bộ công cụ làm nghề, quy
trình kỹ thuật gắn với tổ chức sản xuất, phân công lao động, quan hệ xã hội
trong làm nghề, các loại hình và đặc trưng sản phẩm; hệ thống dịch vụ tiêu
thụ sản phẩm; thu nhập của người làm nghề; các tín ngưỡng, kiêng kỵ liên
quan đến nghề.


15

Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (gồm 6 tập) do
Trương Minh Hằng chủ biên [29], Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, tập
hợp các bài viết, chương sách giới thiệu về nghề, làng nghề của Việt Nam,
trong đó tập 1 có 5 chương tập trung vào lý luận chung về nghề, làng
nghề truyền thống; các vùng nghề, địa danh, địa chí làng nghề; tổ nghề;
nghệ nhân dân gian; thực trạng làng nghề; việc bảo tồn nghề, làng nghề;
những biến đổi của nghề, làng nghề trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Các tập còn lại giới thiệu các nghề, làng nghề và cụm nghề, gồm
tập 2 (nghề chế tác kim khí), tập 3 (nghề mộc chạm), tập 4, tập 5, tập 6 giới
thiệu nghề gốm, đan lát, thêu, dệt, làm giấy, làm tranh... Bộ Tổng tập đã giới
thiệu tương đối toàn diện các nghiên cứu trong và ngoài nước về nghề, làng
nghề truyền thống của nước ta. Tổng tập cũng đề cập đến những vấn đề lý
luận chung; sự hình thành, phát triển nghề, làng nghề; tổ nghề; quy trình kỹ
thuật; cách tổ chức sản xuất; những biến đổi của nghề, làng nghề trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về nghề thủ công trong bối
cảnh làng xã
Đây là hướng nghiên cứu của nhiều tác phẩm.
Trước hết phải kể đến tác phẩm Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ của
Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, tiếp cận nghề dưới góc độ Địa lý nhân

văn qua nghiên cứu thực địa. Trên cơ sở khái quát tình hình sản xuất thủ
công nghiệp, qua thống kê 108 nghề thủ công phân theo nhóm nghề
được gọi là ‘‘nền công nghiệp làng xã’’, tác giả đã chỉ rõ hoạt động của ngành
kinh tế này (cùng các ngành nông nghiệp, thương nghiệp) trong không gian
sinh tồn của người Việt là làng, đồng thời phản ánh sự vận động, biến đổi của
các làng nghề trước Cách mạng Tháng Tám 1945 [23].


16

Các nghề thủ công ở Hà Đông là một chuyên khảo mỏng của Hoàng
Trọng Phu - Tổng đốc Hà Đông, giới thiệu các nghề thủ công (tên nghề, làng
có nghề, nguồn gốc nghề, các thông tin sơ bộ về hiện trạng nghề) của các
làng ở tỉnh Hà Đông, tỉnh được coi là “vương quốc của các nghề thủ công trên
vùng châu thổ Bắc Bộ thời Pháp thuộc” [59].
Tác phẩm Nền kinh tế công xã Việt Nam của Vũ Quốc Thúc, tập trung
nghiên cứu hoạt động kinh tế, trong đó có nghề thủ công gắn liền với văn
hóa trong xu thế không ngừng vận động và biến đổi của các làng, xã; chỉ ra
mối quan hệ, sự tác động, ảnh hưởng của kinh tế với văn hóa xã hội của làng
Việt cổ truyền, từ đó tái hiện sinh động bản chất nền kinh tế công xã [74].
Hai bộ sách Nông thôn Việt Nam trong lịch sử [86, 87] và Nông dân và
nông thôn Việt Nam thời cận đại do Viện Sử học biên soạn [88, 89] có nhiều
bài viết đánh giá tổng quan sự phân bố các nghề, làng nghề của nước ta
trong lịch sử, làm rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng nghề thủ công đối với
đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của người nông dân Việt Nam thời phong
kiến và thời thực dân nửa phong kiến, song chưa khảo tả đầy đủ, chi tiết, sâu
sắc, đa chiều các khía cạnh về nghề và làng nghề.
Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội và văn hóa của Phan Đại
Doãn là công trình nghiên cứu tổng thể về làng Việt dưới góc độ Sử học.
Cuốn sách tập trung phân tích những vấn đề cơ bản của làng xã Việt Nam từ

truyền thống đến hiện đại; kết cấu kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó nổi bật
là thủ công nghiệp kết hợp chặt chẽ với nông nghiệp, là yếu tố quan trọng
của kinh tế hộ gia đình, gắn liền với sở hữu ruộng đất giúp làng Việt ổn định,
phát triển theo kinh tế thị trường [11].
Hành trình về làng Việt cổ (tập I, tập II) của Bùi Xuân Đính giới thiệu
một số làng quê tiêu biểu của Xứ Đoài và Xứ Nam. Chiếm dung lượng lớn


17

trong các bài viết là những nội dung giới thiệu, phân tích, làm rõ bức tranh
nghề thủ công của các làng trên các phương diện: kinh tế, văn hóa, xã hội,
lịch sử, mạng lưới dịch vụ... Mỗi làng nghề cụ thể đều có những nét văn hóa
nghề và làm nghề riêng, tạo nên tính đa dạng, phong phú [16, 18]. Có
nhiều nét tương đồng với công trình này là các cuốn sách Văn hóa
truyền thống làng Đồng Kỵ do Lê Hồng Lý chủ biên, nghiên cứu làng Đồng Kỵ
(thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [52]; Ninh Hiệp - truyền thống và phát triển
của nhóm tác giả do Tô Duy Hợp chủ biên, nghiên cứu về làng - xã Ninh
Hiệp - một làng nghề, làng buôn bán nổi tiếng ở huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội [37].
Có nhiều tác phẩm khảo tả, đánh giá sâu khía cạnh văn hóa làng
nghề, trong đó nổi bật là cuốn Bát Tràng - làng nghề làng văn do Bùi Xuân
Đính chủ biên. Tác phẩm nghiên cứu công phu, đánh giá sâu sắc, toàn diện
về một làng nghề ngoại thành Hà Nội, làm rõ nét đặc trưng, khác biệt của
làng Bát Tràng làm nghề gốm gắn với nghề buôn bán, dịch vụ. Đây là
làng nghề chuyên sản xuất gốm, không gắn với sản xuất nông nghiệp; các
hoạt động của làng nghề, những tác động của nghề đến các lĩnh vực đời sống
xã hội của làng Bát Tràng. Cuốn sách cũng đánh giá, làm rõ truyền thống,
biến đổi, ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, áp dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ vào sản xuất, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu, để phát triển làng nghề bền vững [19].
Bên cạnh đó, nhiều đề tài luận án, luận văn thuộc các chuyên
ngành: Dân tộc học; Nhân học; Văn hóa học; Văn hóa dân gian đã nghiên
cứu về nghề, làng nghề, tiêu biểu là các luận án tiến sĩ: Nghề dệt cổ
truyền ở đồng bằng Bắc Bộ của Lâm Bá Nam [55]; Làng gốm Phù Lãng của
Trương Minh Hằng [27]; Làng nghề Cúc Bồ trong cảnh quan văn hoá xứ
Đông của Phạm Văn Hiệp [30]; Làng nghề sơn quang Cát Đằng (truyền
thống và biến đổi) của Nguyễn Lan Hương [41]; Làng nghề thủ công Triều


Khúc (xã Tân Triều,

18


19

huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội), truyền thống và biến đổi của Đỗ Ngọc
Yến [95], Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình) của Bùi Thị Dung [12] hay các luận văn thạc sĩ: Làng Nhị Khê với nghề
tiện truyền thống của Vũ Thanh Hà [24], Làng chạm bạc Đồng Sâm ở Thái
Bình của Đỗ Thị Tuyết Nhung [56] v.v.. Các luận án, luận văn đã tập trung
điều tra, khảo sát, phân tích tác động của điều kiện địa lý cảnh quan,
môi trường văn hóa xã hội với nghề, đặc trưng nghề và làng nghề ở nhiều
chiều cạnh như: mô hình, cấu trúc làng xóm, nơi thờ cúng tâm linh của làng
(đình, chùa, đền miếu, thờ tổ nghề...), các phong tục tập quán, lễ hội, thiết
chế văn hóa... Bên cạnh đó còn nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí
khoa học, đề cập đến việc bảo tồn, phát triển các nghề, làng nghề trong giai
đoạn hiện nay. Đáng lưu ý là luận án Làng nghề cơ khí - mộc dân dụng
Đại Tự (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội) của Nguyễn

Đình Phúc, đề cập đến sự du nhập của nghề mới (làm két bạc) ở một làng
ngoại thành Hà Nội trong điều kiện công nghiệp hóa: điều kiện để du
nhập nghề, quy trình sản xuất và sản phẩm nghề, tác động của nghề đối với
đời sống của dân làng [60].


20

1.1.1.3. Nghiên cứu nghề thủ công trong bối cảnh kinh tế - xã hội đương
đạ
i
Từ hòa bình lập lại đến nay, nông thôn Việt Nam và làng nghề trải qua
nhiều thăng trầm, biến động, đặc biệt là tác động mạnh mẽ của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bám sát thực tiễn sinh động đó, nhiều công
trình đã tập trung nghiên cứu về nghề, làng nghề; tìm hiểu, làm rõ những
đặc điểm truyền thống, những tác động của kinh tế thị trường đến mọi
mặt của làng nghề, từ đó có những định hướng, đề xuất giải pháp phát triển
làng nghề bền vững. Có thể chia những công trình nổi bật nghiên cứu theo xu
hướng này sau:
- Về các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, có thể kể đến tác phẩm


Ritual, feast and politics in North Vietnam between ideology and tradition của
Endres, Kirsten, nghiên cứu về làng nghề đúc đồng Đại Bái (huyện Lương
Tài, tỉnh Bắc Ninh) vào các năm 1996, 1998, song nội dung chủ yếu quan tâm
đến quá trình phục hồi các nghi lễ, lễ hội và đời sống văn hóa ở làng nghề này
từ sau Đổi mới đến thời điểm khảo sát [104].
Luận án tiến sĩ Iron Works:Excavating alternative Futures in a
Northern Vietnamese Craf Village (Luyện sắt: tương lai lựa chọn ở một làng
nghề miền Bắc Việt Nam) của DiGregorio, Michael, Đại học California miêu

tả quá trình tái phát triển của làng nghề Đa Hội, từ một làng rèn truyền
thống, sau Đổi mới trở thành một nơi sản xuất, cung cấp thép lớn cho
thị trường trong nước và quốc tế. Hệ thống sản xuất ở Đa Hội bao gồm các
hộ gia đình và các doanh nghiệp gia đình gắn kết với nhau qua sự phân công
sản xuất và các mối quan hệ chồng chéo về giới, dòng họ và nơi cư trú.
Nghiên cứu cho thấy sự quan trọng của bản sắc địa phương trong phát
triển làng nghề. Câu chuyện của Đa Hội cho thấy phân khúc công nghiệp ở
Việt Nam thường bị phá vỡ, các nhà sản xuất ở làng nghề đã áp dụng các
công nghệ linh hoạt và thành công trong việc gia nhập nền công nghiệp sản
xuất lớn trong cuộc cạnh tranh với thị trường vốn còn bất ổn và chưa hoàn
chỉnh về mặt thể chế. Giống như nghề thủ công ở các nước phát triển khác,
làng nghề Đa Hội hình thành nên các mạng lưới hỗ trợ nhau hơn là các
nhóm hợp tác; các công ty tư nhân tự do giao dịch ở bên ngoài nhóm của
mình, trong khi ở bên trong nhóm lại chia sẻ với nhau khả năng sản xuất,
dịch vụ vận chuyển và lợi nhuận bán lẻ. Các nhóm sản xuất quy mô lớn
được điều hành bởi các thành viên trưởng thành trong gia đình, ở đó
người khởi xướng nghề vẫn còn hoạt động năng động. Các nhóm nhỏ hơn
được hình thành bởi các anh chị em khác trong gia đình, thậm chí là bạn bè.
Khả năng linh hoạt và gần gũi với thị trường là điều làm nên sự khác biệt của
Đa Hội: trong khi nhiều với tổng công ty cổ phần và


công ty của nhà nước trong ngành thép thua lỗ thì Đa Hội vẫn bán được
sản phẩm có lãi và ngày càng tăng thị phần. Tương lai của Đa Hội sẽ là sự tiếp
tục mô hình sản xuất bao gồm các xưởng quy mô nhỏ gắn trong các mạng
lưới kinh doanh và xã hội của gia đình và làng xã [107].
- Về các công trình nghiên cứu ở trong nước, cuốn Làng nghề, phố
nghề, Thăng Long - Hà Nội của Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo [91] là
công trình đánh giá vị trí của Thăng Long - Hà Nội với phát triển nghề thủ
công. Các tác giả đưa ra định nghĩa về làng nghề thủ công, phố nghề gắn với

lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Chương 3 của sách tập trung nói về nghề, làng
nghề, phố nghề của đô thị này, quan điểm phát triển làng nghề. Cuốn
sách cũng chỉ rõ những khó khăn, thách thức của nghề, làng nghề trong
bối cảnh kinh tế thị trường, trong đó khó khăn, thách thức lớn nhất là sự
cạnh tranh gay gắt trong cùng một làng nghề cũng như giữa các làng nghề
với nhau, nhất là trong tiêu thụ sản phẩm, đòi hỏi cần có cơ chế, chính sách,
giải pháp phù hợp trên tầm vĩ mô cũng như vi mô để các nghề, làng nghề
phát triển bền vững.
Cuốn Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá do Mai Thế Hởn chủ biên [36]; Làng nghề truyền thống
trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Trần Minh Yến [94]…
tập trung làm rõ các yếu tố tác động đến làng nghề, đặc biệt là hoạt động
thích ứng, phát triển của làng nghề, đề xuất giải pháp bảo tồn làng nghề
trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa.
Cuốn Làng nghề, phố nghề Hà Nội trong bối cảnh toàn cầu hóa của tác
giả Lê Hồng Lý [53]; Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường
phát triển của nhóm tác giả Vũ Quốc Tuấn [69] đưa ra cái nhìn khái quát về
làng nghề, phố nghề trong lịch sử, đánh giá thực trạng của làng nghề phố
nghề hiện nay, chỉ ra hướng phát triển và các giải pháp để phát triển làng


×