Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
- Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của các bậc học khác, bậc học
mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to lớn, thực sự có trách nhiệm trong
việc giáo dục thế hệ trẻ mai sau. Thấy rõ tầm quan trọng đó, những năm gần đây
Bộ Giáo Dục luôn chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục và coi chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã
hội. Để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non cần rất nhiều yếu tố
khác nhau, nhưng một trong những yếu tố quan trọng là đổi mới tổ chức hoạt động
giáo dục xây dựng môi trường “Lấy trẻ làm trung tâm".
- Để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, cần thay đổi hoạt động của trẻ.
Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là đổi mới nâng cao hình thức tổ chức các hoạt
động lấy trẻ làm trung tâm.
- Trong môi trường lấy trẻ làm trung tâm đội ngũ giáo viên không chỉ truyền
đạt kiến thức cho trẻ một cách thụ động mà các giáo viên phải tạo mọi điều kiện, để
trẻ lĩnh hội chủ động, sáng tạo, tích cực hoạt động, tự chiếm lĩnh kiến thức và kinh
nghiệm. Để đạt được điều này giáo viên cần nắm được môi trường hoạt động của
từng trẻ trong lớp, trên cơ sở đó lựa chọn được nội dung, phương pháp phù hợp với
từng nhóm, từng cá nhân trẻ. Trong quá trình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần tạo
sự hứng thú cho trẻ về nhu cầu, kỹ năng, thế mạnh của mỗi trẻ. Để giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm được thực hiện một cách tốt nhất và có hiệu quả thì việc xây dựng
môi trường giáo dục trong các trường mầm non rất cần thiết, việc lập kế hoạch xây
dựng giáo dục, tổ chức các hoạt động vui chơi, hợp tác với cha mẹ học sinh trong
việc chăm sóc giáo dục trẻ là việc làm cần thiết.
- Trong nhà trường cần tạo cảnh quan môi trường lành mạnh, an toàn đối với
trẻ, hợp với độ tuổi, đồ dùng phải hấp dẫn, mới lạ có tính thu hút trẻ, trẻ được tự
lựa chọn hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm một cách tích cực, qua đó kiến thức và
kỹ năng ở trẻ dần được hình thành. Đặc biệt, từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo triển
khai Chương trình Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thì vấn đề xây dựng môi trường
giáo dục cho trẻ mầm non được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Bởi môi trường
giáo dục được ví như người giáo viên thứ hai tổ chức và hướng dẫn trẻ chơi, trẻ
hoạt động để nhận thức và phát triển.
- Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ biến của người Việt Nam, là phương tiện quan
trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao lưu với những người xung
quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi dưỡng tâm hồn. Hoàn thành xong
chương trình mẫu giáo trẻ đứng trước một nền văn hóa đồ sộ của dân tộc và nhân
loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội những kinh nghiệm của cha ông để lại, đồng
thời có sứ mạng xây dựng nền văn hóa đó trong tương lai. Cho nên việc phát triển
tiếng Việt cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo là một nhiệm vụ cực kì quan trọng, mà ở
1
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
tuổi mẫu giáo lớn nhiệm vụ đó phải được hoàn thành. Đặc biệt đối với trẻ là con em
đồng bào dân tộc thiểu số thì nhiệm vụ này là hết sức cần thiết. Bởi vì các cháu dân
tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp
nhận tiếng Việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô.
- Vì vậy việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề cần
được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc
học tiếng Việt ở các bậc học cao hơn là cơ hội để sớm hình thành ở trẻ những năng
lực hoạt động ngôn ngữ thái độ, phát triển trí tuệ và kĩ năng làm quen với các môn
học khác. Qua đó giáo dục tình cảm và phát triển tư duy mở rộng vốn hiểu biết của
trẻ góp phần vào việc phát triển nhân cách toàn diện, chuẩn bị cho trẻ một hành
trang “tiếng Việt” vững chắc để trẻ bước vào lớp 1.
* Đối tượng nghiên cứu.
- Một số biện pháp chỉ đạo giúp giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường
Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số theo hướng xây dựng môi trường lấy trẻ làm
trung tâm.
* Phạm vi nghiên cứu: Chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường
Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
ở vùng đồng bào DTTS trường MN Hoa Sen.
Đối tượng khảo sát học sinh trường mầm non Hoa Sen.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019.
Để dạy trẻ mầm non đạt hiệu quả cao trong việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì giáo viên phải
tăng cường sử dụng các phương pháp xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học
là rất cần thiết, chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài này “ Một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiều biện pháp hay trong quá trình tổ
chức tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số.
Giúp giáo viên xây dựng các kế hoạch giáo dục linh hoạt, sáng tạo để nâng cao
chất lượng chăm sóc và giáo dục. Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát
triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và hình ảnh nội dung, đồng thời phát huy được
tính tích cực sáng tạo của trẻ. Rèn kỹ năng đọc, kể diễn cảm, nói lưu loát Tiếng Việt
cho trẻ đồng bào dân tộc ở các lớp đạt hiệu quả cao.
Giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp giáo dục trẻ
theo chương trình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đưa vào bài dạy và lựa chọn
phương pháp giảng dạy, sáng tạo phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
2
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Bồi dưỡng giáo viên thường xuyên đổi mới những phương pháp dạy học, bổ sung
các phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài dạy.
Giúp trẻ hiểu biết về tầm quan trọng của việc nghe và hiểu được lời hướng
dẫn các hoạt động của giáo viên, thông qua việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Xây dựng
môi trường trong và ngoài lớp học, kích thích tính tìm tòi, ham hiểu biết, phát triển
về trí tuệ và ngôn ngữ cho trẻ. Thông qua đó nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo
ở trẻ.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Thực hiện Nghị quyết số 1008/QĐ- TTG về việc phê duyệt đề án lồng ghép tăng
cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc tiểu số giai đoạn
2016- 2020, định hướng 2025 với mục tiêu tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ
Mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ
bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục Mầm non, tạo
điều kiện để học tập lĩnh hội tri thức các cấp học tiếp theo góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số góp phần vào sự tiến bộ,
phát triển đất nước.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết với việc phát triển
của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy phát âm nói riêng. Vì thế
cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt. (Trích phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ em nhà xuất bản Đai học Huế)
Ngôn ngữ là phuơng tiện giao tiếp, là hiện thực trực tiếp của tư duy. Sử
dụng ngôn ngữ tốt không thể không tính đến yếu tố mạch lạc. Ngôn ngữ mạch
lạc là ngôn ngữ có nội dung rõ ràng, cụ thể, có trình tự, logic, có thể được sử
dụng hỗ trợ bằng các quan hệ từ, câu chuyển ý... được người nghe lĩnh hội và
hiểu đúng. Ngôn ngữ mạch lạc cũng thể hiện năng lực tư duy và hiểu vấn đề
của trẻ. (Trích môđun 3 tài liệu bồi dưỡng thường xuyên)
Trẻ càng lớn thì vốn từ càng tăng nhanh, theo các nghiên cứu thì năm lên 4
tuổi vốn từ của trẻ là 1200 từ, 5 tuổi là 2000 từ và khi được 6 tuổi vốn từ của trẻ lên
đến 3000 từ. Sự linh hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ không chỉ phụ
thuộc vào tuổi, mà nó phụ thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ,
nó bao gồm cả môi trường lớp học, môi trường gia đình và môi trường văn hóa xã
hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống.
Vì vậy, là một cán bộ quản lí phụ trách chuyên môn tôi chỉ đạo giáo viên cho
trẻ sử dụng được thành thạo tiếng Việt trong đời sống hằng ngày. Tiếng Việt là
phương tiện quan trọng nhất để trẻ lĩnh hội nền văn hóa dân tộc để giao lưu với
những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu tri thức khoa học, kinh nghiệm làm
3
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
phong phú tâm hồn trẻ. Cho nên việc phát triển tiếng Việt cho trẻ em ở lứa tuổi
mầm non một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, mà ở độ tuổi mẫu giáo nhiệm vụ đó
phải được hoàn thành.
Đất nước Việt Nam ta có rất nhiều dân tộc anh em nhưng tiếng Việt là ngôn
ngữ chính để giao tiếp trao đổi với nhau thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong thực tế hiện
nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường trẻ chỉ
sống trong gia đình, ở các thôn buôn nhỏ, trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ
chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết
tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngôn ngữ được dùng chính thức trong trường
học và các cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như
chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay
việc dạy và học tiếng Việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt
ở trường chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng Việt
rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà
chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng
Việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu
số. Ở lớp trẻ mới dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ
vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô
và trò không hiểu nhau dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt
được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu
số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng Việt có thể
học tập và sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn.
+ Chỉ đạo giáo viên tổ chức các hoạt động để trẻ khám phá, trả lời các câu hỏi
và giải quyết các vấn đề đặt ra như: Hoạt động tham quan môi trường, quan sát,
thảo luận, trò chuyện, phỏng vấn, tìm hiểu qua sách, tranh ảnh, khám phá trực tiếp
thông qua thực hành, lao động ...
+ Tạo cơ hội cung cấp, củng cố kinh nghiệm, làm tăng sự tò mò, hứng thú.
Qua thực hiện đề tài này nhằm giúp giáo viên trong tiết dạy tạo nhiều cơ hội học
tập và lĩnh hội được nhiều kiến thức mới nhằm phát huy tính sáng tạo, tính tò mò ở
trẻ thông qua chương trình dạy lấy trẻ làm trung tâm.
+ Cùng giáo viên giúp trẻ trải nghiệm, khám phá, tìm tòi, kích thích sự ham
học hỏi của trẻ, qua việc cho trẻ trải nghiệm trẻ thích tìm hiểu khám phá môi
trường xung quanh.
+ Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực đối với giáo viên trong quá trình
hình thành nhân cách phát triển tư duy ngôn ngữ cho trẻ.
II.
Thực trạng vấn đề:
Vào đầu học kỳ I năm học 2017-2018, tôi đã chỉ đạo cho khối trưởng lên kế
hoạch khảo sát ở các lớp, bản thân đã thống kê về hoạt động tăng cường Tiếng Việt
ở các lớp để nắm bắt khả năng nói Tiếng Việt của từng cá nhân trẻ cụ thể:
4
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
TỔNG SỐ TRẺ
ĐƯỢC KHẢO SÁT
200 trẻ
Trẻ phát âm chuẩn
Trẻ phát âm chưa chuẩn
tiếng Việt
tiếng Việt
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
50/200
25 %
150/200
75%
Dạy tăng cường Tiếng Việt cho trẻ trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm là công việc đòi hỏi giáo viên phải tổ chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt
động phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên. Để trẻ trở thành một chủ thể hoạt động
tích cực, sáng tạo trong các giờ học.
Bản chất nhanh nhẹn, ham học hỏi, tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh là
những nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ khiến trẻ nhanh chóng tìm ra các đặc điểm nổi
bật của sự vật, hiện tượng, nhờ đó cô giáo và trẻ càng có thêm hứng thú để mỗi giờ
học là mỗi giờ chơi vui vẻ và ý nghĩa.
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, hội cha mẹ
học sinh và đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo của bộ phận chuyên môn Phòng giáo
dục và đào tạo, nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục về công tác xây
dựng cơ sở vật chất trường học. Hiện nay trường đã hoàn thành 2 mô hình xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và tăng cường Tiếng Việt cho trẻ
đồng bào dân tộc thiểu số..
Là một P. Hiệu trưởng quản lý chuyên môn, tôi luôn tìm tòi vận dụng các biện
pháp, hình thức, đổi mới phương pháp giảng dạy; tiếp thu những chuyên đề đã
được tập huấn vận dụng vào đơn vị mình. Thường xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt
chuyên đề, hội thi đồ dùng, đồ chơi để rút kinh nghiệm áp dụng cho giáo viên
trường mình.
* Khó khăn:
Giáo viên chưa tạo được môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để cho trẻ
có thể thỏa thích trải nghiệm, vui chơi...
Động viên giáo viên chưa kịp thời, đồ dùng dụng cụ phục vụ cho các hoạt
động chưa phong phú. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động còn đơn điệu, màu
sắc không phù hợp nên không cuốn hút trẻ trong các hoạt động.
Một số giáo viên sử dụng đồ dùng chưa có khoa học, chưa phát huy được tính
tích cực ở trẻ. Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc
giáo dục trẻ còn hạn chế.
5
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Đối với việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc đòi hỏi phải có
tranh ảnh thật sinh động hoặc vật thật để cho trẻ khám phá, trải nghiệm điều này rất
khó khăn bởi hầu hết các lớp về thời gian rất hạn chế như thời gian cô đứng lớp từ
sáng đến tối, vậy việc làm đồ dùng cũng như tìm kiếm hình ảnh cho trẻ khám phá,
trải nghiệm rất khó khăn.
Qua theo dõi việc tổ chức các hoạt động, dự giờ, thao giảng bản thân tôi nhận
thấy rằng giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới, chưa có sự linh hoạt, sáng tạo còn rập
khuôn máy móc, cứng nhắc. Do đó chưa phát huy được vai trò tích cực của trẻ
trong quá trình tổ chức các hoạt động, một số giáo viên còn yếu về kĩ năng tổ chức
các hoạt động lúng túng khi xử lý tình huống. Giáo viên trong quá trình lên lớp nói
nhiều, ôm đồm chưa phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ, sử dụng giáo cụ
trực quan chưa phù hợp, chưa khoa học nên chưa thực sự cuốn hút trẻ trong các tiết
dạy cũng như tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ dẫn đến tiết dạy chưa đạt hiệu
quả cao.
Từ đó bản thân tôi nhận thấy cần phải có định hướng giúp giáo viên thay đổi
các biện pháp giảng dạy trước đây như đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao các
phương pháp, hình thức cho trẻ hoạt động, chú trọng nhiều đến việc tổ chức các
tiết dạy dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Qua những việc làm đó đã có
những bước đầu góp phần cho sự thành công trong công tác dạy trẻ tiếp thu kiến
thức.
Quán triệt quan điểm giáo dục hiện đại “ Lấy trẻ làm trung tâm” nên bản thân
tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những biện pháp, phương tiện dạy học phù hợp nhằm
giúp giáo viên có cách dạy linh hoạt, lôi cuốn trẻ và hình thành cho trẻ kĩ năng giao
tiếp, trải nghiệm thực tiễn cuộc sống.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Giúp giáo viên nắm vững phương pháp, chủ động linh hoạt, sáng tạo trong quá
trình tổ chức các hoạt động.
Sử dụng đồ dùng một cách khoa học hơn. Khai thác môi trường xung quanh
ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo dục trẻ đạt hiệu quả hơn..
Có khả năng xử lý tình huống sư phạm tốt, thu hút, lôi cuốn trẻ vào các hoạt
động.
Vận dụng những giải pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ các hoạt động
sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ tiếp thu
kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái.
Giúp trẻ tham gia vào các hoạt động tích cực hơn. Trẻ hiểu được nội dung kiến
thức, khám phá được thế giới xung quanh, định hướng cơ bản trong môi trường
xung quanh, giúp trẻ chính xác hóa những biểu tượng đã có về xã hội, từng bước
cung cấp cho trẻ những khái niệm mới và kinh nghiệm sống.
6
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Vận dụng những phương pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ các hoạt
động sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ tiếp
thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái. “Chơi mà học, học mà chơi”.
- Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Giải pháp 1: Các hình thức tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên:
-Từ đầu năm học tôi bám vào kế hoạch của phòng giáo dục để lên kế hoạch cụ
thể cho từng tháng... Thực hiện được việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, giúp giáo
viên có thêm kiến thức, kỹ năng mới trong thực hiện giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Đồng thời qua đó cũng giúp Ban giám hiệu chúng tôi có những định hướng đúng để
xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn trong suốt cả năm học thiết thực và hiệu
quả hơn.
Tổ chức bồi dưỡng dưới nhiều hình thức chỉ đạo giáo viên tự nghiên cứu kỹ
các nội dung chương trình, sách hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài liệu có
liên quan đến giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Tổ chức cho giáo viên thảo luận nêu
được những vướng mắc trong quá trình nghiên cứu tài liệu và thực hiện chương
trình. Bồi dưỡng chuyên môn theo kế hoạch định kì đầu năm, hàng tháng là một
việc làm không thể thiếu của cán bộ quản lý. Việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là
mục tiêu hàng đầu để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Để phát huy vai trò là lực lượng quyết định chất lượng chăm sóc và giáo dục
trẻ của trường, đội ngũ giáo viên phải thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo, để
nâng cao trình độ chuyên môn - nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, tôi đã áp dụng
một số nội dung sau:
- Chỉ đạo thực hiện các chuyên đề: Chuyên đề được hiểu là vấn đề chuyên
môn được đi sâu chỉ đạo trong một thời gian nhất định, nhằm tạo ra sự chuyển biến
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Được sự chỉ đạo của phòng giáo dục Huyện, trường mầm non Hoa Sen thực
hiện các chuyên đề tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số, làm
quen chữ cái, làm quen văn học, chuyên đề lễ giáo, hoạt động góc, xây dựng môi
trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm...Tôi đã xây dựng kế hoạch chuyên đề trên cơ
sở tình hình và khả năng thực tế của trường và những yêu cầu chỉ đạo của ngành,
kế hoạch chuyên đề xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp và các
bước tiến hành. Việc xây dựng và bồi dưỡng giáo viên thực hiện chuyên đề, tôi
chọn giáo viên có năng lực, năng khiếu phù hợp với từng chuyên đề để giáo viên
dạy tiết mẫu, cử giáo viên đi tập huấn chuyên đề ở ngành và dự giờ một số tiết dạy
mẫu ở trường bạn. Xây dựng giáo án cho giáo viên phụ trách dạy mẫu, tham mưu
với hiệu trưởng mua tài liệu, đồ dùng phục vụ cho chuyên đề. Tất cả các giáo viên
dự giờ các tiết dạy mẫu đóng góp ý kiến đã rút ra nhiều kinh nghiệm và xác định
được những vấn đề mới, thống nhất thực hiện trong toàn trường. Tôi thường xuyên
theo dõi kiểm tra việc thực hiện chuyên đề, tổ chức thi giáo viên dạy giỏi cấp
7
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
trường.... Qua các buổi hội thi, dự giờ tôi nhận thấy giáo viên đã nắm vững nội
dung, phương pháp và hình thức dạy các môn học đã chuyên đề, điều này chứng tỏ
việc thực hiện các chuyên đề trong năm đạt kết quả cao.
- Công tác dự giờ, thao giảng, kiểm tra: Bản thân tôi lên kế hoach, kiểm tra,
dự giờ thăm lớp hàng tháng rõ ràng để nắm chắc được tình hình thực hiện chương
trình của giáo viên, kịp thời có biện pháp chỉ đạo sát thực và hiệu quả.Tổ chức thao
giảng, sau đó tất cả các giáo viên góp ý rút kinh nghiệm, giúp giáo viên nắm vững
nội dung, phương pháp, hình thức các bước lên lớp và sự sáng tạo trong quá trình
dạy học.
- Đối với công tác kiểm tra: Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra
bằng nhiều hình thức, kiểm tra chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất.
Tôi kiểm tra công tác chủ nhiệm việc thực hiện quy chế chuyên môn và kiểm tra
chất lượng trên trẻ: Nề nếp, các thói quen vệ sinh văn minh, kiến thức,... đặt câu hỏi
để trẻ trả lời qua đó tôi đánh giá việc giảng dạy của giáo viên. Qua kiểm tra, đã uốn
nắn một số sai lệch, đồng thời khuyến khích những mặt mạnh của giáo viên trong
công tác giáo dục. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện
kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có chất lượng giáo dục tốt
hơn. Đầu năm và cuối học kì I, tổ chức kiểm tra chất lượng trẻ kết hợp kiểm tra
bảng đánh giá trẻ cuối học kỳ I của giáo viên để xếp loại trẻ, tôi trao đổi với giáo
viên từng nhóm lớp để giáo viên nắm được trình độ nhận thức trẻ đang có để giáo
viên có những biện pháp dạy trẻ cho phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển tốt về năm
lĩnh vực.
- Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm”
qua các môn học:
Việc xây dựng môi trường học tập và vui chơi đối với trẻ là vô cùng quan
trọng nó không thể thiếu được. Chính vì hiểu được điều đó với cương vị là P. Hiệu
Trưởng phụ trách chuyên môn nhà trường ngay từ cuối năm học trước bước vào
tháng sáu trước khi tuyển sinh cho năm học mới tôi họp chuyên môn cho ý kiến
xây dựng cơ sở vật chất tạo cảnh quan môi trường cho năm học kế tiếp... từ đó tôi
đã có kế hoạch xây dựng môi trường có tác dụng mạnh mẽ đối với trẻ, tạo cho trẻ
hứng thú trong giờ học tập trẻ thích thú, khám phá được thế giới xung quanh.
Đây là nguyên tắc dạy học quan trọng để hình thành biểu tượng, hình ảnh ban
đầu cho trẻ mầm non. Học bằng chơi chơi mà học, tăng cường tiếng Việt không chỉ
dừng lại ở hoạt động cho trẻ làm quen với các hoạt động mà còn được tắm trong
môi trường tiếng Việt, cho trẻ vận dụng những kiến thức kĩ năng đã có giúp trẻ nhớ
lâu hơn về các hình ảnh, với tiêu chí mỗi ngày trẻ đến trường là một ngày vui
chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên, vận động phụ huynh tạo môi trường cho trẻ từ ngoài
vào, bắt đầu đến trường đã thấy vui và hứng thú bằng các hình ảnh có tiếng Việt
ngay từ cổng trường.
8
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Tôi chỉ đạo hai mảng rõ ràng môi trường bên trong và môi trường bên ngoài
lớp học. Cả hai môi trường này đều rất quan trọng đến việc dạy và học của cô và
trẻ. Trẻ tham gia vào các hoạt động một cách hứng thú tùy thuộc vào môi trường
mà trẻ đang ở đó, phù hợp với thực tế giáo viên đang dạy.
* Môi trường trong lớp học:
Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng các lớp điểm về các lĩnh vực khác nhau
như lớp điểm về xây dựng môi trường học tập, lớp điểm về chuyên đề phát triển
vận động, lớp điểm về các tiết dạy mẫu. Phân công cho giáo viên đứng các điểm
trường ở các thôn, buôn sao cho phù hợp với tình hình thức tế của đơn vị. Giáo
viên phải có năng lực chuyên môn giỏi, có uy tín với cha mẹ học sinh. Chọn lớp
điểm để dự giờ đúc rút kinh nghiệm, trước khi chỉ đạo đại trà.
Thông qua hình thức xây dựng lớp điểm, xây dựng tiết học tăng cường Tiếng
Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm, tạo môi trường học tập cho trẻ. Trẻ tự biết cách trang trí sắp xếp đồ dùng đồ
chơi các góc, giáo viên biết thiết kế hoạt động theo hướng giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm...
Giáo viên tạo ra được các góc chơi phong phú để đáp ứng nhu cầu vật chất vui
chơi của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ “chơi mà học, học mà chơi”. Thực hiện quan
điểm xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Giáo viên gợi mở cho trẻ
nói lên ý tưởng và tham gia hoạt động một cách tích cực . Thông qua các góc chơi
các bé sẽ được trải nghiệm những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày như :
người bán hàng, thợ xây, …
Tạo môi trường giáo dục phù hợp với chủ đề, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá,
tìm ra cái mới, thể hiện sự hiểu biết của trẻ trong cuộc sống hàng ngày, bầu không
khí, quan hệ xã hội, giao tiếp giữa trẻ với người lớn giáo viên, cha mẹ học sinh,
giữa trẻ với nhau và giữa người lớn với nhau.
Để phát âm tốt tiếng Việt trước tiên giáo viên cho trẻ phát âm đúng các chữ cái
thường xuyên qua các góc học tập, ở những góc chơi được trang trí hấp dẫn như
góc ong tìm chữ và ghép từ tiếng Việt để phát âm tốt và nhớ lâu hơn
Môi trường trong lớp học không thể thiếu những góc chơi của trẻ, do đó để lớp
học thêm lôi cuốn trẻ, tôi đã chỉ đạo giáo viên cần tạo nên một môi trường trong
lớp học với những màu sắc sinh động và ngộ nghĩnh. Môi trường có không gian,
cách sắp xếp phù hợp, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ;
Khi thiết kế các góc hoạt động trong lớp cần chú ý bố trí các góc hoạt động hợp lí.
Góc hoạt động cần yên tĩnh bố trí xa góc hoạt động ồn ào. Các góc hoạt động có
“ranh giới” rõ ràng, có lối đi cho trẻ di chuyển thuận tiện khi liên kết giữa các góc
chơi. Sắp xếp các góc để giáo viên có thể dễ dàng quan sát, giám sát được toàn bộ
hoạt động của trẻ. Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu được thay đổi và bổ sung phù
hợp với mục tiêu chủ đề, hoạt động và hứng thú của trẻ. Có nguyên vật liệu mang
9
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
tính mở (lá cây, hột hạt…), sản phẩm hoàn thiện, sản phẩm chưa hoàn thiện…Có
sản phẩm mua sẵn, sản phẩm cô và trẻ tự làm, sản phẩm của địa phương đặc trưng
văn hóa vùng miền.
* Môi trường bên ngoài lớp học:
Thực tế ở trường tôi việc xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, cơ sở vật
chất chưa được hoàn thiện, đồ dùng đồ chơi chưa phong phú. Sân chơi mới được
tạo, cảnh quan môi trường còn nghèo nàn, chưa có đồ dùng phong phú. Sân thực
hành còn chật hẹp. Vì vậy tôi đã tiến hành cho xây dựng môi trường trồng cây
xanh, tạo vườn hoa cây cảnh, làm đồ dùng tự tạo bằng nguyên vật liệu đã qua sử
dụng như lốp xe, thùng nhựa, vỏ chai các loại, một số lát gỗ ...Để tạo cảnh quan
môi trường sử dụng trong giờ học.
Xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non không chỉ ở trong
nhóm, lớp mà phải được tiến hành ngoài khuôn viên trường học.
Môi trường vườn hoa cây cảnh các hệ thống đã được trang bị trong sân trường
thực hiện theo từng chủ đề giáo viên phải biết tận dụng, khai thác, bổ sung các thiết
bị, đồ dùng để tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ.
Sắp xếp, bố trí tạo khoảng không gian phù hợp cho các khu vực hoạt động
ngoài trời dựa vào diện tích sân chơi dựa trên tổng diện tích của trường, giáo viên
có thể quy định khoảng không gian hoạt động trong mỗi chủ đề cho trẻ ở các độ
tuổi.
Tận dụng các loại cây xanh tạo bóng mát phổ biến có thực ở địa phương để trẻ
dể nhận biết, màu sắc đa dạng và gần gũi với cuốc sống thực của trẻ từ đó giúp trẻ
phát triển khả năng nói Tiếng Việt một cách lưu loát hơn.
Đồ chơi trong sân trường đa dạng: đu quay, cầu trượt, bập bênh, xích đu…phù
hợp với độ tuổi, vị trí. Ví dụ: trẻ nhà trẻ nên có đồ chơi riêng: cầu trượt đa năng,
bập bênh, thú nhún, xe đạp …đồ chơi được sắp xếp hợp lý, đảm bảo an toàn khi trẻ
chơi.
Giải pháp 2: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động
Trong tất cả các giờ học tôi đều chỉ đạo cho giáo viên phải có hình ảnh đập
vào mắt trẻ trò chuyện và đặt câu hỏi giáo viên luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời
cô bằng tiếng Việt.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ bằng phương pháp lấy trẻ làm trung tâm, gợi
mở, khơi gợi để trẻ tự suy nghỉ và trẻ lời.
Hoạt động làm quen với toán:
Chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1, kiến thức sơ đẳng nhất là trẻ phải biết đếm,
thêm bớt, chia nhóm, tạo nhóm trong phạm vi 10, trẻ nhận biết các hình, các khối,
biết thực hiện các thao tác đo...Để trẻ làm được điều đó trước hết người giáo viên
10
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài điều này rất cần
thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú, lôi cuốn hơn khi được nhìn ngắm những đồ
dùng đẹp, mới lạ và đặc biệt là được hoạt động với những đồ dùng đó.
Ví dụ: Ở chủ đề phương tiện giao thông, làm quen chữ số 10, đưa hình ảnh 10
con gà, cho trẻ đọc chuẩn nhất trả lời và phát âm trước và các bạn dân tộc thiểu số
phát âm chưa chuẩn phát âm lại số 10.
Hoạt động làm quen văn học:
Ở trẻ mầm non sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt
động học tập bên cạnh đó vốn tiếng Việt của trẻ còn hạn chế nên việc tăng cường
Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một khó khăn không nhỏ. Tôi luôn hướng dẫn
giáo viên học hỏi tập luyện lời nói, câu văn trước khi lên lớp.
Đối với hoạt động dạy thơ cô luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng
đọc thơ diễn cảm, cử chỉ điệu bộ, tiến hành cho trẻ đọc thơ bằng nhiều hình thức
(cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân, đọc nối đuôi…) cô chú ý sữa
sai cho trẻ và đồng thời khuyến khích, tuyên dương khi trẻ đọc đúng.
Ví dụ: Bài thơ có tên là gì? Cả lớp phát âm, tổ, cá nhân nhắc lại từ.
Với hoạt động làm quen văn học môn kể chuyện cô giảng nội dung câu
chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện. Để cháu
nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng nhiều hình thức như
qua tranh minh họa, mô hình hoặc rối… khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng
nói, hành động của từng nhân vật một cách rõ ràng, phù hợp với tính cách của từng
nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân
vật hung dữ, cho trẻ hóa thân thành các nhân vật qua trò chơi đóng kịch.
Ví dụ: Trẻ nhập vai các con vật trong câu chuyện chú Dê Đen đóng kịch rèn
cách phát âm tiếng Việt với các từ: “ dê kia mày đi đâu”, “tôi đi tìm lá non để ăn”...
Với những hình thức như trên vốn từ tiếng Việt của trẻ đã tăng lên một cách
rõ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy cô giáo tiếp tục tìm tòi các biện
pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ tiếng Việt.
Hoạt động khám phá khoa học
Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những nghệ thuật
để lên lớp, sử dụng các phương pháp quan sát và đàm thoại qua các hình ảnh, mô
hình mới lạ hấp dẫn khắt sâu hơn hình ảnh và ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ phát triển
nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy chúng ta cần phát huy hết tác dụng của
môn học này để dạy trẻ. Có thể biến tiết học thành một cuộc thi tài, một chuyến
tham quan hay một cuộc dạo chơi thú vị.
Môn khám phá khoa học giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực
nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ.
11
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật:
Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ trả
lời “Asâo” (tiếng Việt có nghĩa là con chó) Trước tình huống đó với các cháu: “cô
và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói
tiếng tiếng Việt các con có đồng ý không?” và tiết học của chúng tôi đã trở thành
một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên
đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng Việt mỗi khi cô đưa tranh ra.
Giáo viên phải hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời
cho các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sửa sai và
hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn
chế được lỗi mất dấu khi phát âm.
- Với hình thức “Thi tài” hay “Đố vui có thưởng”… giữa cô và trẻ thì trẻ đã
có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô
Ví dụ: Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Con
chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời: Thưa
cô con chó là động vật sống trong nhà…Trẻ trẻ lời Con chó, chọn tranh và các trẻ ở
dưới nhắc lại kiểm tra xem bạn phát âm đúng chưa
Trong chủ đề: Thực vật, Đề tài: Trò chuyện về một số loại quả. Cô cho trẻ
tham quan khu vườn trái cây, lồng ghép, tăng cường bằng các câu hỏi “ đây là cây
gì? Trẻ trả lời và cô khắt sâu bằng các tình hống như chưa nghe để trẻ nói lại nhiều
lần cô khen trẻ tặng quà cho trẻ, trẻ chưa trả lời được thì mời bạn khác trả lời giúp,
và cho trẻ nhắc lại, nếu trẻ vẫn không trả lời được thì cô có thể gợi ý và cho trẻ
nhắc lại từ cần tăng cường như : Quả đu đủ, quả mậm....
Hoạt động âm nhạc:
Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó mà
trong giờ hoạt động âm nhạc cô giáo đã dạy cho các cháu hát những bài hát theo
chủ đề cũng như những bài hát trong chương trình mầm non. Tổ chức các hoạt
động lễ hội sôi nỗi hấp dẫn như: Lễ hội đêm trăng rằm, Mừng ngày nhà giáo Việt
Nam, Ngày của mẹ, Tài năng nhí....... tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới
thiệu về bản thân, sở thích… và biểu diễn cho các bạn xem, cứ lần lượt như vậy và
tất cả các cháu đều được tham gia. Bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và
tiếp đến các cháu đã dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội
dung của bài hát, hỏi trẻ về tên bài hát, nội dung bài hát điều này giúp các cháu có
khả năng nghe và hiểu tiếng Việt tốt.
Hoạt động làm quen chữ cái:
Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái,
bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ
sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói.
12
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Cô giáo tạo tình huống nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô
giới thiệu chữ cái, phân tích cấu tạo của chữ và cho trẻ phát âm chữ cái đó. Cô cho
trẻ quan sát và nắm được đặc điểm của chữ cái và để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu
tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, cô giáo thiết kế các trò chơi phù hợp với nội
dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái, không những vậy mà
còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn.
Ví dụ: Trò chơi : Ô cửa bí mật, ghép các nét thành con đường có chữ cái theo
yêu cầu, Chiếc nón kỳ diệu, gạch chân chữ cái theo yêu cầu, bánh xe chữ cái… cho
trẻ phát âm chữ cái đó nếu trẻ phát âm chính xác cô tuyên dương và cho cả lớp
cùng phát âm theo, nếu trẻ phát âm chưa chính xác cô có thể giúp trẻ bằng cách cô
phát âm và cho trẻ phát âm lại.
Trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt còn hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp
thu chậm, vì vậy trong quá trình chuẩn bị ngôn ngữ tiếng Việt, kiến thức, kĩ năng
trẻ giáo viên cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái
trong mọi hoạt động, không áp đặt trẻ, cho trẻ được tự do thảo luận hay nói những
suy nghĩ của trẻ.
- Đặt ra những câu hỏi dễ và gần gũi đối với trẻ.
Hệ thống câu hỏi giúp trẻ phát huy được tính tích cực sáng tạo, giúp trẻ nắm
được kiến thức một cách lôgic, câu hỏi đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Hướng dẫn giáo viên mỗi ngày dành 5 đến 10 phút trước và sau giờ đón trẻ để
tăng cường Tiếng Việt bằng nhiều hình thức như phát âm các từ đơn giản, gần gũi
với cuộc sống hàng ngày của trẻ. Khi thấy trẻ đạt yêu cầu nâng cao dần, cho cháu
phát âm tốt kèm cháu phát âm chưa chuẩn để vốn Tiếng Việt của trẻ phát triển tốt
hơn.
Bằng hệ thống câu hỏi: Và bài tập nhằm kích thích trẻ phát triển vốn Tiếng
Việt của trẻ một cách hưng phấn dẫn dắt trẻ tự tìm ra câu trả lời, tự đưa ra kết luận
khái quát bằng câu hỏi giáo viên cần đặt ra cho trẻ vào các tình huống có vấn đề
buộc trẻ phải suy nghĩ .
Ví dụ: Cho trẻ so sánh hai nhóm đồ vật để trẻ tự nhận xét về 2 nhóm đồ vật
cô sử dụng một số câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ. Cô hỏi 2 nhóm như thế nào với
nhau? (Trẻ có thể trả lời 2 nhóm không bằng nhau, gợi ý cho trẻ khác trẻ lời nhóm
nhiều hơn nhóm thì ít hơn) tại sao con biết 2 nhóm không bằng nhau? (Trẻ trả lời vì
nhóm có 8 đối tượng, nhóm có 7 đối tượng, nhóm nhiều hơn 1, nhóm ít hơn 1…)
Trẻ tự suy nghĩ và tìm ra câu trẻ lời, và cô là người động viên khuyến khích trẻ để
trẻ được trình bày ý kiến của mình.
Hệ thống câu hỏi bài tập cô đặt ra câu hỏi dựa trên tri giác và trí nhớ tái tạo
của trẻ nhằm ghi nhận những kiến thức của đối tượng yêu cầu trẻ miêu tả những
kiến thức mà trẻ vừa quan sát hay nhắc lại nhiệm vụ của cô giáo .
13
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
Ví dụ: Chủ đề bản thân lên kế hoạch dạy tăng cường tiếng Việt từ “ăn cơm”
“Canh cải” “ thịt xào”….ở giờ ăn trưa: tạo tình huống hỏi trẻ con đang ăn gì trẻ trả
lời “ăn cơm” “Canh cải” “ thịt xào”
Ở lớp với số lượng trẻ dân tộc thiểu số chiếm đa số. Tôi hướng dẫn giáo viên
tăng cường tiếng Việt cho trẻ vào buổi chiều 15 phút với hình thức học bằng chơi
chơi mà học qua các trò chơi như: Ô cửa bí mật, chiếc túi kỳ lại, chiếc nón kỳ
diệu... Giờ hoạt động chiềugiáo viên chuẩn bị sẵn các đồ dùng đồ chơi tự tạo, Các
trò chơi hấp dẫn cho trẻ, nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động “Tăng cường tiếng Việt”
hứng thú hơn, trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với
nhau để phát âm chuẩn tiếng Việt.
Ví dụ: Hai đội thi ghép các chữ cái thành từ tiếng Việt theo yêu cầu của cô….
Khi sử dụng câu hỏi giáo viên cần chú ý đặt câu hỏi phải ngắn gọn cụ thể đủ
ý, nội dung câu hỏi phải vừa sức trẻ, các khái niệm trong câu hỏi phải quen thuộc
với trẻ nên đặt nhiều dạng câu hỏi cho một vấn đề các câu hỏi phải có hệ thống ,
phải kích thích sự suy nghĩ của trẻ, phải đặt câu hỏi mang tính đa dạng để mở rộng
vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ hiểu và sử dụng nhiều cách đặt câu hỏi để cho trẻ ứng
dụng vào các tìn huống khác nhau của cuộc sống
- Phối hợp với cộng đồng và cha mẹ của trẻ
Lập kế hoạch tuyên truyền, phối hợp với cộng đồng và cha mẹ trẻ trong công
tác giáo dục trẻ cách chăm sóc, giáo dục trẻ đến với cha mẹ trẻ từ đó giúp giáo viên
có định hướng rõ ràng trong việc nuôi dạy trẻ hàng ngày, tạo được mối liên hệ phối
hợp giữa nhà trường, giáo viên và cộng đồng từ đó việc chăm sóc giáo dục trẻ và
công tác duy trì sỹ số được diễn ra thuận lợi hơn.
Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo không nhiều, nhưng nếu
chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn tiếng Việt
cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có thể gặp phụ
huynh, trao đổi và phân tích cho phụ huynh của các cháu hiểu được những thuận
lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt, phối hợp với phụ huynh
cùng làm đồ dùng tự tạo để tăng cường tiếng Việt
Để thực hiện cũng như giải quyết vấn đề trên, trước hết chúng ta cần phải làm
tốt công tác tuyên truyền và huy động trẻ đến trường.
Tuyên truyền với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho các cháu
đến lớp mầm non đúng độ tuổi.
Là một P. Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn cần động viên giáo viên tạo sự
gần gũi giữa giáo viên với trẻ, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của từng trẻ, thường
xuyên gặp nói chuyện và trao đổi với phụ huynh của trẻ, tuyên truyền đến cha mẹ
trẻ tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường đúng độ tuổi. Trẻ đến trường sẽ
được tham gia vào các hoạt động của chương trình giáo dục mầm non như: múa,
14
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
hát, làm quen với các bài thơ, các chữ số, chữ cái, được nghe kể chuyện, tập vẽ, tập
tô và nhiều hoạt động khác…qua các hoạt động đó sẽ giúp hình thành ở các cháu
các kĩ năng cần thiết, đồng thời qua đó giúp hình thành kỹ năng Tiếng Việt của các
cháu một cách tốt nhất, và nhờ đó cũng giúp cho các cháu mạnh dạn hơn, tự tin
hơn, giao tiếp tốt hơn, các cháu không còn bỡ ngỡ khi bước vào lớp 1.
IV. Tính mới của giải pháp:
Từ kết quả của cách làm cũ của những năm trước, qua áp dụng các giải pháp
mới, những giải pháp đề tài mới chỉ được áp dụng tại các, phân hiệu, các lớp ở
trường mầm non Hoa Sen, chưa có điều kiện khảo nghiệm, áp dụng rộng rãi ở
nhiều đơn vị khác. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả cao nhất trong việc giúp trẻ
mẫu giáo thực hiện tốt việc giáo dục lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho trẻ, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc giáo dục cho trẻ mầm non.
Cần phải triển khai đồng bộ, thường xuyên tất cả các giải pháp nêu trên.
Qua một thời gian tôi sử dụng các biện pháp trên để hướng dẫn cho giáo viên áp
dụng cho các cháu ở trường, tôi thấy có sự chuyển biến một cách rõ rệt và kết quả có
sự chênh lệch giữa tỉ lệ trước khi thực hiện đề tài và sau khi thực hiện đề tài như sau:
Kết quả thu được sau khi khảo nghiệm 200 trẻ như sau:
TỔNG SỐ TRẺ
ĐƯỢC KHẢO SÁT
Đầu năm học:
2017-2018
Đến tháng 3 năm học:
2018-2019
Trẻ phát âm chuẩn
Trẻ phát âm chưa chuẩn
tiếng Việt
tiếng Việt
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
50/200
25 %
150/200
75%
185/200
92,5%
15/200
7,5%
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
a. Đối với giáo viên
Có nhiều kinh nghiệm trong việc dạy trẻ tăng cường Tiếng Việt và cuối năm
đạt kết quả tốt. Nâng cao tay nghề.
Giáo viên đã tạo được môi trường học tập và vui chơi cho trẻ trong và ngoài
lớp có khoa học. Bổ sung được nhiều đồ dùng, đồ chơi cho các hoạt động học và
chơi đặc biệt là tăng cường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu
số. Giáo viên biết cách phối hợp với cộng đồng và cha mẹ trẻ trong công tác huy
động mọi nguồn lực sẵn có ở địa phương.
15
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
b. Đối với trẻ
Trẻ ttự tin thể hiện mình một cách thoải mái thông qua các hoạt động nhóm,
tập thể ...Trẻ hứng thú say mê, tích cực tham gia vào các hoạt động cùng cô để nắm
được một số kiến thức về môi trường xung quanh, đồng thời giúp trẻ phát triển về
mọi mặt.
Trẻ biết nhận biết phân biệt được đặc điểm của một số con vật như tiếng kêu,
thức ăn, đẻ con, đẻ trứng, hai chân, bốn chân … và biết được một số hiện tượng
trong thiên nhiên như mưa, nắng, nóng … biết thêm được các hoạt động trong đời
sống xung quanh và mạnh dạn trả lời các câu hỏi của cô đầy đủ, rõ ràng, trọn câu,
phát âm chuẩn chính xác bằng Tiếng Việt.
Về cha mẹ học sinh.
Đa số cha mẹ học sinh đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc đưa con em mình
đến trường mầm non, nên 100% các bậc phụ huynh đồng tình ủng hộ rất tích cực cả
tinh thần, lẫn vật chất tạo điều kiện cho trường Màm non Hoa Sen hoàn thành tốt
trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ đặc biết là tăng cường Tiếng Việt cho trẻ.
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu trên tôi rút ra kết luận sau:
Việc dạy nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là những nội dung lớn của chương
trình giáo dục cho trẻ Mầm non. Nhằm phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách
cho trẻ, đặc biệt trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị kỹ năng sống cho cho trẻ vào lớp 1 phổ
thông.
Muốn làm được việc làm này đòi hỏi các giáo viên Mầm non cần nắm vững
những nội dung phương pháp, hình thức tổ chức mới. Tiếp thu những chuyên đề và
nắm vững kiến thức chương trình để vận dụng vào tiết học.
Ngoài việc cung cấp cho trẻ những kiến thức, kỹ năng mới còn phải thường
xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập bằng nhiều hình thức phù hợp nhằm ôn luyện, củng
cố và nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh.
Vì vậy việc nghiên cứu tìm tòi những biện pháp dạy học để có hiệu quả hỗ
trợ phương pháp trong việc giúp giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng
Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là cần
thiết đối với giáo viên mầm non.
Để tạo được hứng thú cho trẻ và nâng cao chất lượng dạy và học của hoạt
động tăng cường Tiếng Việt trước hết đòi hỏi người giáo viên phải nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ trong độ tuổi này. Nắm được chuyên đề đã được tiếp thu
vận dụng vào chương trình giảng dạy, bên cạnh đó giáo viên cần phải học tập qua
16
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
các lớp bồi dưỡng vận dụng vào thực tế từ đó đúc rút được nhiều kinh nghiệm và
khắc phục những hạn chế về hình thức tổ chức.
Tạo môi trường mới lạ trong và ngoài lớp để áp dụng vào công tác giảng dạy.
Tích cực sáng tạo làm nhiều đồ dùng, đồ chơi sinh động hấp dẫn từng những
nguyên vật liệu phế thải. Rèn luyện cho trẻ tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin
nhằm kích thích tính tò mò ham hiểu biết của trẻ.
2.Kiến nghị
Đối với UBND huyện : Cần quan tâm hơn nữa đến cơ sở vật chất trường học,
hỗ trợ kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất như : Phòng học, phòng vệ sinh, tường
rào sân chơi đảm bảo cho công tác dạy và học
Đối với UBND xã: Hỗ trợ về nguồn nước sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Đủ nước uống cho trẻ trong mùa khô.
Đối với Phòng giáo dục và đào tạo : Thường xuyên tổ chức các buổi sinh
hoạt chuyên môn, chuyên đề để cán bộ quản lý và một số giáo viên đúc rút kinh
nghiệm về chương trình dạy học lấy trẻ làm trung tâm để áp dụng vào các môn học.
Chuyên đề những sáng kiến kinh nghiệm đạt giải các cấp để truyền tải
những kinh nghiệm đó vào thực tế trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ tại đơn vị
mình.
Hỗ trợ kinh phí xây dựng tường rào, sân chơi, công trình vệ sinh, nước sạch
ở các điểm lẻ còn thiếu về nhu cầu.
Trên đây là một số
Việt cho trẻ dân tộc thiểu
không chỉ dừng lại ở kết
trường mầm non Hoa Sen
kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng
số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tôi
quả mà cố gắng học hỏi ở trường bạn để áp dụng vào
một cách tốt hơn.
Tuy nhiên bản kinh nghiệm này còn nhiều hạn chế, kính mong sự góp ý giúp
đỡ của đồng nghiệp và Hội đồng sáng kiến các cấp.
Xin chân thành cảm ơn./.
Ea Bông, ngày 15 tháng 3 năm 2019
Người viết
Nguyễn Thị Lệ Nga
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
...................................................................................................................................
17
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo dục với cộng đồng - Nhà trường và xã hội – 1998 Tài liệu Bồi dưỡng
cán bộ quản lý - Công chức nhà nước ngành Giáo dục đào tạo. Của Phó Tiến sĩ:
Đặng Xuân Hải 2.
2.Xã hội hóa công tác giáo dục - nhận thức và hành động -1999 Viện Khoa
học giáo dục xuất bản Các Tác giả: Bùi Gia Thịnh-Võ Tấn Quang-Nguyễn Thanh
Bình
18
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
3.Xã hội hoá công tác giáo dục: Nhà xuất bản giáo dục: Bộ giáo dục và Đào
tạo - Ban khoa giáo trung ương - Công đoàn giáo dục Việt Nam - Viện khoa học
giáo dục. Của Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Minh Hạc.
4.Những bài giảng về quản lý trường học.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên: Module 4 đặc điểm phát triển nhận thức,
những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về nhận thức, module 9 Xây
dựng môi trường giáo dục cho trẻ 3-6 tuổi.
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
SỐ
TRANG
I
Phần mở đầu
1
1
Lý do chọn đề tài
1
19
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường
giáo dục “Lấy trẻ làm trung tâm” tại trường Mầm non Hoa Sen
2
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2
3
Đối tượng nghiên cứu
3
4
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3
5
Phương pháp nghiên cứu
3
II
Phần nội dung
4
1
Cơ sở lý luận
4
2
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
6
3
Nội dung và hình thức của giải pháp
9
Phần kết luận, kiến nghị
26
1
Kết luận
26
2
Kiến nghị
27
III
Tài liệu tham khảo
29
Mục lục
30
20
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lệ Nga