Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận Trung cấp chính trị nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.24 KB, 30 trang )

-1PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nhanh và bền vững nhất đối
với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đó là sự chú trọng hàng đầu của Chính phủ về
công tác đổi mới hệ thống giáo dục & đào tạo(GD-ĐT), tạo tiền đề quan trọng
cho sự phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Việt Nam từ một nước
có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chuyển đổi sang cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với tốc độ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đang diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên
toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển GD-ĐT, coi "Giáo
dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân". Mục tiêu phát triển giáo dục đã nêu rõ: "Đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp, chương trình giáo dục các bậc học và trình độ đào tạo, phát triển
đội ngũ nhà giáo nhằm đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa tăng chất lượng,
hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới quản lý giáo dục, tạo cơ sở
pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục". Sự nghiệp giáo dục và đào tạo
ở Việt Nam nói chung và việc giảng dạy ở bậc Trung học phổ thông nói riêng là
vấn đề được xã hội hết sức quan tâm. Khi bàn đến vai trò của những người thầy
trong sự nghiệp giáo dục, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: "Thầy giáo là nhân
vật trọng tâm trong nhà trường, là người quyết định và tạo nên những con
người mới xã hội chủ nghĩa. Vậy thầy giáo phải không ngừng vươn lên, rèn
luyện tu dưỡng về mọi mặt để thực sự xứng đáng là người thầy giáo xã hội chủ
nghĩa". Đồng thời Thủ tướng còn chỉ ra rằng: "Vấn đề lớn nhất trong giáo dục
của ta hiện nay là tạo điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ giáo viên dần dần trở
thành một đội quân đủ năng lực, đủ tư cách để làm tròn sứ mạng của mình".
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục ở cấp Trung học phổ thông và
chất lượng Giáo dục và Đào tạo nói chung ở nước ta đã có sự khởi sắc, đã đạt được
những thành tựu nhất định. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của
học sinh, sinh viên và giáo viên được nâng cao, đào tạo được đông đảo đội ngũ nhà
giáo đã có những cống hiến quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, song hệ thống Giáo dục và


Đào tạo nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển của
đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế, trong thời gian
qua không ít giáo viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Một số giáo viên chưa thường xuyên học tập để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy mới theo phương tiện hiện
đại ở một số giáo viên còn hạn chế. Việc nghiên cứu tài liệu tham khảo, học hỏi
đồng nghiệp của một số ít giáo viên còn ngại - còn chậm, chưa thực sự tận tâm
với nghề nghiệp nên kết quả giảng dạy chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay.


-2Xuất phát từ thực trạng trên, em chọn đề tài "Nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên ở trường THPT X, huyện Y, tỉnh T" làm tiểu luận tốt nghiệp
khoá học Trung cấp Lý luận chính trị - hành chính của mình, với hy vọng góp
một phần nhỏ bé để thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng
11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn
diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Xác định được các giải pháp cơ bản, khả thi để nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên ở trường THPT X, huyện Y, tỉnh T
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ giáo viên;
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường THPT X trong
những năm gần đây, làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại;
- Đề xuất các giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên ở trường THPT X, huyện Y, tỉnh T.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa

học của chủ nghĩa Mác - Lê Nin là phương pháp duy vật biện chứng và phương
pháp duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành khác như điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích, so sánh.
4. Giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu chất lượng đội ngũ giáo viên;
- Không gian: Tại Trường THPT X, huyện Y, tỉnh T;
- Thời gian: Đánh giá thực trạng chất lượng đội giáo viên ở trường THPT
X, huyện Y, tỉnh T từ năm 2011 đến nay; xác định giải pháp nâng cao chất lượng
đội giáo viên đến năm 2020.


-3PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
1.1. Quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đội ngũ nhà giáo
1.1.1. Quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin về đội ngũ nhà giáo
Bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào, Giáo dục và Đào tạo luôn đóng một vai trò
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc
và cả nhân loại. Từ xa xưa các học giả, các nhà lãnh đạo, quản lý ở trong nước và
trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung quanh vấn đề này. Theo C.Mác: Giáo
dục - đào tạo "Tạo ra cho nền kinh tế của một dân tộc những nhà khoa học, chuyên
gia, kỹ sư trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ đó những tri thức ấy mới có thể sáng tạo
ra những kỹ thuật tiên tiến, những công nghệ mới. Nếu chúng ta không có đội ngũ ấy
thì sự nghiệp xây dựng CNXH chỉ là lời nói huênh hoang, rỗng tuếch". Còn
Ph.Ăngghen thì khẳng định: "Một dân tộc muốn đứng lên trên đỉnh cao của nền văn
minh nhân loại, dân tộc ấy phải có trí thức". Như vậy cả C.Mác và Ăngghen đều coi
những nhà giáo dục là chìa khoá, là động lực đối với sự phát triển của xã hội, đặc
biệt là đối với quá trình xây dựng CNXH của một quốc gia, một dân tộc.

Kế thừa quan điểm của C.Mác - Ăngghen và trên cơ sở thực trạng Giáo dục
và Đào tạo ở Nga trong những ngày đầu Cách mạng tháng 10 thành công, Lênin đã
sớm khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc đưa nước Nga thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên CNXH. Theo Lênin: "Muốn tạo lập chủ nghĩa xã
hội phải có một trình độ văn hoá nhất định", "Việc nâng cao năng suất lao động...
trước hết phải nâng cao trình độ học vấn và văn hoá của quần chúng nhân dân" và
"Nếu không có một mạng lưới giáo dục quốc dân ít nhiều phát triển thì tuyệt nhiên
không thể giải quyết mọi vấn đề trên quy mô toàn dân". Trong quá trình lãnh đạo
công cuộc xây dựng CNXH, Lênin luôn coi sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo là
nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất lao động, để
chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Bàn về người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, Lê Nin
nhiều lần nhấn mạnh tất cả nhiệm vụ nặng nề của nhà trường Xô Viết chỉ có thể
thực hiện tốt nếu có sự tham gia của đội ngũ giáo viên. Người đánh giá cao vị trí xã
hội, vai trò của người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ cũng như trong
cuộc cách mạng văn hoá, khoa học, kỹ thuật: " Giáo viên có nhiệm vụ truyền bá
giáo dục to lớn, trước hết phải trở thành đội quân chủ yếu của sự nghiệp giáo dục


-4xă hội chủ nghĩa, phải giải phóng cuộc sống, tri thức khỏi phụ thuộc giai cấp tư
sản, khỏi sự đô hộ của giai cấp bóc lột...". Từ đó Lê Nin khẳng định chế độ XHCN
phải thay đổi vị trí xã hội của người giáo viên, phải có trách nhiệm tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho người thầy giáo thực hiện nhiệm vụ của họ...
Có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giáo dục đã đề
cập một cách sâu sắc, toàn diện cả về lý luận và chiến lược xây dựng, phát triển
một nền giáo dục quốc dân không chỉ đối với các nước đi lên CNXH mà với tất
cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới.
1.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đội ngũ nhà giáo
Kế thừa truyền thống văn hoá lịch sử của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của
nhân loại mà điển hình là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
quan tâm và đề cao vai trò của nhà giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người

là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp giáo dục
đào tạo là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhưng người trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Theo Hồ Chủ tịch, vấn đề then chốt quyết định
chất lượng giáo dục chính là đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo
dục. Bởi vì các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề là đào tạo cán bộ cho nước nhà; là
"người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa", thầy giáo có trách nhiệm truyền bá
cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa
của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực
sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Hồ Chủ tịch nhấn mạnh:
"Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không
có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn
hóa". Thầy giáo là người định hướng, dẫn dắt thế hệ trẻ từng bước nắm bắt chân lý
thời đại, cho nên mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu nếu không có thầy giáo
hướng dẫn thì không phát huy hết tác dụng đối với thế hệ trẻ. Tư tưởng của Hồ Chủ
Tịch về giáo dục luôn thể hiện yêu cầu giáo dục toàn diện, đào tạo con người vừa có
tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học kỹ thuật lại vừa có đức; trong đó,
Người coi đức là cái gốc của người cách mạng. Người coi đạo đức như gốc của cây,
như nguồn của sông: "Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Để
đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục phát triển, đào tạo nên những lớp người vừa hồng,
vừa chuyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định
chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo người làm công
tác giáo dục thực sự yêu nghề, yêu người, hết lòng chăm sóc giáo dục học sinh,
không ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, xứng đáng
là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.


-5Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (tháng 3-1965), Người chỉ rõ:
"Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người dạy học là: Chăm lo dạy dỗ con em của

nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người
cán bộ tốt của nước nhà". Người cho rằng sự nghiệp "Trồng người" là rất lâu dài,
khó khăn và rất quan trọng. Do đó, trong một dịp đến thăm lớp bồi dưỡng chính trị
cho giáo viên toàn Miền Bắc (tháng 9-1958), Người căn dặn "Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Trong bức thư cuối
cùng gửi cho ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 1968 -1969, Bác đã dạy
"Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn
hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề
ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật".
Từ những phân tích trên có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà giáo không những đã khẳng định vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc mà còn là cơ sở để Đảng ta vạch ra đường lối chiến lược phát triển giáo dục - đào
tạo trong thời kỳ đổi mới nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ giáo viên
1.2.1. Giáo viên
* Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt, giáo viên là "Những người làm nghề dạy học".
Theo từ điển điện tử vi.wiktionary.org: Giáo viên là người giảng dạy cho
học trò, giáo dục, lên kế hoạch, tiến hành các tiết dạy học, thực hành và phát
triển các khóa học nằm trong chương trình giảng dạy của nhà trường . Giáo viên
cũng là người kiểm tra, ra đề, chấm điểm thi cho học sinh để đánh gia chất
lượng từng học trò.1
Điều 70 Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đưa ra
định nghĩa pháp lý đầy đủ về giáo viên: "Nhà giáo là những người làm nhiệm vụ
giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác".
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, những người làm nhiệm vụ giảng dạy,

giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là thầy giáo, ở bậc đại học
được gọi là giảng viên, những giáo viên ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục phổ thông trong đó có giáo dục phổ thông được gọi là
giáo viên. Như vậy, thầy giáo, giảng viên chính là giáo viên.
1 />

-6* Nhiệm vụ và khả năng của giáo viên
Giáo viên có phải chuẩn bị đầy đủ các bài giảng dạy hàng ngày và các
chương trình giảng dạy lâu ngày theo cơ quan quản lý của trường. Để giúp cho
học sinh nắm tốt kiến thức hơn, giáo viên sử dụng nhiều phương pháp như bài
giảng, thảo luận nhóm, các hoạt động thực tiễn, thí nghiệm, thực hành, bài tập,
trả bài khi bắt đầu vào tiết học, dự án, hoạt động ngoại khóa và tìm hiểu hoàn
cảnh của từng em để tìm ra khuyết điểm mà giúp các em học tốt. Giáo viên phải
biết sử dụng tốt công nghệ thông tin để dạy học bằng máy chiếu, máy tính hỗ trợ
cho việc học tốt hơn (nếu có điều kiện từng trường ). Giáo viên đặt ra các bài
kiểm tra, bài thi, đáp án, bài tập, chấm điểm đối chiếu với kết quả trước. Cần
biết đánh giá và báo cáo tình hình học tập, hạnh kiểm của từng em học sinh về
cho phụ huynh xem mà có cách giải quyết. Mỗi năm học, giáo viên thiết lập
được các quy tắc, các thói quen, làm các việc tốt trong trường lớp. Khi cô giáo
lớp khác vắng mặt, giáo viên có trách nhiệm giúp đỡ các giáo viên khác. Giám
sát học sinh trong lúc ăn cơm trưa và đi nghỉ (nếu học sinh học bán trú). Giám
sát các em học sinh khi làm kiểm tra đặc biệt là kiểm tra học kỳ theo định kỳ của
nhà trường. Thực hiện các công việc hành chính khác. Tham dự các buổi họp,
các hội nghị giáo dục và các hoạt động hướng nghề cho học sinh và phối hợp
các chương trình thực tập với nhà trường để giúp các em định hướng nghề (chỉ
dành cho học sinh các ba). Tham gia các phong trào của nhà trường và xã hội.
Trợ giúp trong việc tổ chức các sự kiện xã hội, thể thao, cắm trại và các hoạt
động nội khóa khác. Nếu có điều kiện , giáo viên cũng có thể tham gia chương
trình dạy học từ xa cho học sinh trên TV, radio , trả lời thư và các phương tiện
thông tin khác. Giữ liên lạc và liên hệ với các giáo viên khác khi gặp trường hợp

khó khăn thì nhờ giáo viên khác dạy giúp. Đóng góp, thay đổi, sáng tạo ra kế
hoạch giảng dạy, chương trình học tập và nhà trường, phản ánh nhu cầu học sinh
và sáng kiến của các cơ quan chức năng. Tham khảo thêm kiến thức từ các giáo
viên khác. Nếu có đủ thời gian thì giáo viên có thể dạy bồi dưỡng cho những
học sinh yếu kém để nâng cao lên
* Yêu cầu đối với người giáo viên
- Nhiệt tình với các môn mình đã lựa chọn mà giảng dạy cho học sinh;
- Cần có nhiều tri thức, kinh nghiệm;
- Có khả năng truyền tải tri thức cho học sinh;
- Thích làm việc với học sinh;


-7- Kiên nhẫn và bình tĩnh khi làm việc với những học sinh có năng lực khác
nhau và những học sinh dân tộc đến từ các nơi khác nhau;
- Chấp nhận quyền lợi và nhu cầu của tất cả các cá nhân;
- Sẵn sàng làm việc ngoài giờ lên lớp;
- Tình cảm nhẹ nhàng, chân thành với học sinh;
- Làm việc dưới tác động căng thẳng và gặp khó khăn;
- Có nhân phẩm và đạo đức tốt.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên
Thuật ngữ "đội ngũ" được hiểu chung nhất là tập hợp một số đông người
cùng đặc điểm, chức năng hoặc nghề nghiệp... được tổ chức thành một lực lượng
xã hội.
Như vậy, đội ngũ giáo viên là tập hợp những người làm nghề dạy học hay
những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục
khác, được tổ chức thành lực lượng và hoạt động theo mục đích của ngành giáo
dục đào tạo đề ra.
1.2.3. Chất lượng đội ngũ giáo viên
Giáo viên là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Điều 15 Luật
Giáo dục (năm 2005) ghi rõ: "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm

bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương
tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có chính
sách đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất, tinh thần để nhà giáo thực
hiện nhiệm vụ của mình, giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo và
tôn vinh nghề dạy học".
Với nhận thức hoạt động trung tâm của nhà trường là dạy học và giáo dục.
Để phát triển toàn diện học sinh, thầy cô giáo là lực lượng trực tiếp thực hiện
chương trình giáo dục của cấp học. Chất lượng giáo dục của nhà trường phần
lớn do đội ngũ giáo viên quyết định. Do đó việc bồi dưỡng, phát triển đội ngũ
nhà giáo vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển nhà trường. Tăng cường xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện theo
hướng chuẩn hóa là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính
chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục và
chấn hưng đất nước. Chất lượng đội ngũ giáo viên trong mỗi nhà trường thể hiện
ở nhiều mặt: Đủ về số lượng, hợp lý cơ cấu, đảm bảo về trình độ đào tạo và có
phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thầy giáo, cô giáo phải là người hiểu sâu về kiến thức chuyên ngành, biết rộng
về các bộ môn khoa học liên quan và có vốn văn hóa nói chung.


-8Trong giai đoạn hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, loài người đang bước vào thời đại phát triển kinh tế tri thức mà khối lượng tri
thức đang gia tăng nhanh chóng. Tri thức trở thành yếu tố quyết định sự phát triển
kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Toàn xã hội là một xã hội học tập. Cùng với sự
thay đổi đó vị trí, vai trò và các chức năng của nhà trường nói chung và đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục nói riêng đó có sự thay đổi rất lớn. Người thầy không
chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt đơn thuần mà còn có nhiệm vụ dạy cho người học
cách học, cách nghiên cứu, cách xử lý tình huống gặp phải trong cuộc sống.
Trên cơ sở những thay đổi đó có thể chỉ ra vai trò và năng lực của nhà giáo
trong nền giáo dục hiện đại như sau:

TT

Vai trò

Năng lực

1

Là người phát
triển cộng đồng

Hiểu rõ đặc trưng kinh tế - xã hội, văn hoá của cộng đồng
tham gia cùng cộng đồng trong quá trình phát triển.

2

Là người điều
tra, nghiên cứu

Tìm hiểu các vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cộng đồng. Thu
thập thông tin và phân tích các sự việc và vấn đề giải quyết.

3

Là người thúc
đẩy học tập

Tạo các tình huống hoạt động có hiệu quả và hiệu xuất.
Đặt kế hoạch và tổ chức các hoạt động thích hợp, xây
dựng các biểu đồ, đồ dụng dạy học có hiệu quả.


4

Là người triển
khai các công
trình giảng dạy

Diễn đạt mục đích, mục tiêu và lý do các tài liệu giảng dạy.
Đánh giá nhận xét có phê phán tài liệu giảng dạy và liên hệ
với thực tiễn, biết phân tích và sửa đổi khi cần thiết.

5

Là người học

Thu thập và học tập sách, trình bày thông tin thích hợp
cho học sinh và cộng đồng sử dụng các nguồn tài liệu có
thể được. Duy trì học tập suốt đời.

6

Là người đánh
giá

Chỉ định, phân tích các kỹ năng đánh giá, xác định các
hành vi mong muốn.

Là người giới
thiệu công việc


Giúp đỡ cộng đồng nhận thức và am hiểu các công nghệ
mới. Giới thiệu chúng với học sinh và cộng đồng. Xây
dựng các tài liệu kỹ thuật công nghệ, liên hệ với các cơ sở
kỹ thuật và công nghệ điạ phương

7


-91.2.4. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ giáo viên
* Trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên
Để thực hiện được vai trò của người giáo viên trong nền giáo dục hiện đại,
người giáo viên trước hết phải là người có kiến thức chuyên môn phù hợp với
yêu cầu của vị trí công việc, cấp học. Ngoài ra, giáo viên còn là nhà giáo dục,
ngoài việc truyền đạt tri thức chuyên môn, phát triển kỹ năng cho học sinh,
người giáo viên còn phải giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh, uốn nắn
những nhận thức sai lệch, biết khơi gợi, động viên học sinh học tập, biết định
hướng tương lai, giáo dục ý thức, đạo đức, hình thành nhân các học sinh. Do
vậy, trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
đội ngũ giáo viên của nhà trưởng và qua đó, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
giáo dục, đào tạo trong nhà trường
* Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên
Trình độ đào tạo, xem xét một cách tương đối, là mức độ tri thức khoa học,
lý thuyết chuyên môn, năng lực tư duy về chuyên môn mà giáo viên thu nhận
được từ nhà trường, từ các khoá học về chuyên môn, chuyên sâu. Trình độ đào
tạo là tiền đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ của giáo viên.
Tuy nhiên, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên là năng lực tác
nghiệp của giáo viên, là khả năng làm việc chuyên môn của giáo viên, nó được
hình thành qua thời gian, qua lao động thực tiễn, thể hiện mức độ thành thạo
nghề nghiệp của giáo viên, được phản ánh qua kết quả lao động, hiệu quả công

tác chuyên môn của giáo viên.
Môi trường phát triển chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên chính là môi
trường hoạt động chuyên môn của nhà trường. Thông qua việc tổ chức lao động
chuyên môn nghiêm túc, khoa học của nhà trường, thông qua ý thức tu dưỡng
nghề nghiệp, tinh thần lao động cống hiến và tấm lòng yêu người, yêu nghề mà
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo vỉên không ngừng được bồi đắp và
phát triển.
* Phẩm chất đạo đức của đội ngũ giáo viên
Nếu như trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố hình
thành nên chất lượng cá nhân người giáo viên, thì phẩm chất đạo đức của người
giáo viên sẽ ảnh hưởng đến cách người giáo viên đó làm việc, công hiến như thế
nào, qua đó ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong thực tế, chất
lượng người giáo viên là sự hoà quyện giữa trình độ, năng lực, chuyên môn


- 10 nghiệp vụ với phẩm chất đạo đức của họ. Trong đó, trình độ, năng lực, chuyên
môn nghiệp vụ giúp cho người giáo viên hiểu được giá trị của tri thức, của khoa
học, của lao động, của thực học, hiểu được con đường giáo dục và tự giáo dục,
qua đó, người giáo viên xác định được đúng giá trị cuộc sống, giá trị của lao
động, giá trị của các chuẩn mực đạo đức trong xã hội, từ đó tự giác đi theo, tự
giác tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt.
Ngược lại, khi xác định được giá trị sống chân chính, người giáo viên mới xác định
đúng chức trách, nhiệm vụ của mình, mới tự giác, tâm huyết làm việc, cống hiến vô
tư, ứng xử đúng mực với học sinh, đồng nghiệp, qua đó góp phần quan trọng vào
xây dựng môi trường giáo dục thực sự trong học đường. Việc tách rời trình độ,
năng lực, nghiệp vụ với phẩm chất đạo đức nghề giáo là cực kỳ nguy hiểm, làm
cho hai mặt đó triệt tiêu lẫn nhau, như Hồ Chí Minh từng nói “Có tài mà không có
đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Do vậy, phẩm chất đạo đức là một nhân tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng
đến chất lượng người thầy và đội ngũ nhà giáo.

* Số lượng của đội ngũ giáo viên
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ giáo viên nhà
trường là số lượng giáo viên.
Số lượng giáo viên đảm bảo, phù hợp với quy mô học sinh, giúp cho nhà
trường bố trí thời gian dạy học, quản lý của giáo viên phù hợp, giúp người giáo
viên đảm bảo điều hoà được giữa công việc dạy học, chủ nhiệm lớp với việc
nghiên cứu, soạn giáo án để nâng cao chất lượng bài giảng.
Số lượng giáo viên không đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng giáo viên tập trung
nhiều thời gian cho giảng dạy, mà giảm thời gian soạn bài, quản lý học viên,
xem nhẹ việc kiểm tra, đánh giá việc học tập cũng như rèn luyện của học sinh.
Theo xu hướng của nền giáo dục hiện đại, với phương pháp dạy học tích
cực, yêu cầu về số lượng học sinh trong lớp học ngày càng giảm và yêu cầu về
vai trò của giáo viên ngày càng tăng, đặc biệt cho việc rèn luyện kỹ năng sống
cho học sinh, trong điều kiện về kinh tế và trình độ giáo dục của Việt Nam, việc
đảm bảo đủ số lượng giáo viên cũng như điều kiện về thu nhập và cuộc sống của
họ luôn là một khó khăn, thách thức.
* Cơ cấu của đội ngũ giáo viên
Cơ cấu đội ngũ giáo viên cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
đội ngũ giáo viên. Chỉ khi có cơ cấu giáo viên phù hợp, thì yếu tố số lượng giáo
viên mới thực sự có ý nghĩa trong việc phản ánh chất lượng đội ngũ giáo viên.


- 11 Cơ cấu đội ngũ giáo viên thể hiện trên nhiều góc độ: Cơ cấu giáo viên phù
hợp với cơ cấu môn học, cơ cấu giáo viên theo độ tuổi, cơ cấu giáo viên theo
giới tính.
Cơ cấu giáo viên theo chuyên môn cho phép việc bố trí hài hoà lao động,
việc làm, thu nhập, từ đó tạo ra sự hoạt động ổn định về chuyên môn của nhà
trường. Trong thực tế, luôn có tình trạng thiếu giáo viên tương đối, có môn học
thừa giáo viên, có môn học lại thiếu giáo viên, do việc thay đổi chương trình các
môn học. Việc thiếu giáo viên, việc giáo viên phải kiêm nhiệm giảng dạy một số

môn học không thuận chuyên môn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội
ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục, đào tạo.
Cơ cấu độ tuổi ảnh hưởng đến sự kết hợp thể mạnh của các lứa tuổi giáo
viên. Giáo viên nhiều năm công tác có thế mạnh về kinh nghiệm giảng dạy, khả
năng xử lý các tình huống sư phạm, có chiều sâu về tư duy nghề nghiệp, chuyên
môn. Giáo viên trẻ có sức bật về tư duy, giàu tính sáng tạo, sôi nổi, hăng hái về
phong trào và đại diện cho những tư duy mới mẻ, cập nhật thời đại. Đảm bảo cơ
cấu độ tuổi còn tránh được sự hẫng hụt về chuyển giao thế hệ giáo viên, đảm
bảo tính ổn định liên tục của đội ngũ.
Cơ cấu giới tính đảm bảo việc phân công các công việc chuyên môn, quản
lý có sự hỗ trợ của thế mạnh giới tính, thế mạnh sức khoẻ, điều kiện làm việc
thực tế, từ đó phát huy sức mạnh của tổng thể đội ngũ giáo viên với chất lượng
giáo dục, đào tạo trong nhà trường.


- 12 Chương 2:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
Ở TRƯỜNG THPT X HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình
Trường THPT X được thành lập theo Quyết định số 83/2002/QĐ-UBND,
ngày 02 tháng 8 năm 2002, của UBND tỉnh Thái Bình. Trường nằm trên địa
phận xã V, huyện Y, tỉnh T. Theo phân luồng đào tạo, Trường được phân công
phụ trách việc giáo dục học sinh ở trình độ THPT cho học sinh 13 xã khu vực
phía nam của huyện Y.
Sau hơn 10 năm thành lập và đi vào hoạt động, nhà trường từng bước được
hoàn thiện về cơ sở vật chất, trang thiêt bị phục vụ dạy và học. Đội ngũ giáo viên
cũng từng bước được bổ sung đảm bảo yêu cầu về quy mô học sinh của nhà trường.
Số lượng lớp thuộc các khối lớp của nhà trường trong 3 năm gần đây như sau:

Khối 10

Khối 11
Khối 12
Cộng

Năm học
2012-2013

Năm học
2013-2014

Năm học
2014-2015

7
6
6
19

7
7
6
20

7
7
7
21

Số lượng học sinh:
Năm học

2012-2013

Năm học
2013-2014

Năm học
2014-2015

306
263
243
812

269
290
256
815

254
255
275
784

Năm học
2012-2013

Năm học
2013-2014

Năm học

2014-2015

19
19
0
19

20
20
0
20

21
21
0
21

Khối 10
Khối 11
Khối 12
Cộng
Số phòng học:

Tổng số
Phòng học kiên cố
Phòng học tạm
Cộng


- 13 Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường (Số liệu tại thời điểm

năm học 2015-2016):
Tổng
số

Nữ

Dân
tộc

Trình độ đào tạo
Đạt
chuẩn

Hiệu trưởng

1

Phó hiệu trưởng

1

Giáo viên

42

29

33

Nhân viên


3

3

2

Cộng

47

32

36

Trên
chuẩn

Chưa đạt
chuẩn

Ghi
chú

1
1

- Trình độ đào tạo:

9

1
10

Cao học:

10

Đại học:

36

Cao đẳng:

01

1

- Tổ chức Đảng, đoàn thể:
+ Đảng viên :

23 đồng chí;

Trong đó nữ: 10 đồng chí

+ Công đoàn:

47 đồng chí;

Trong đó nữ: 32 đồng chí


- Tổ chuyên môn: 5 tổ

+ Tổ Toán Tin

10 giáo viên

+ Tổ Văn Sử Địa

11 giáo viên

+ Tổ Tự nhiên

13 giáo viên

+ Tổ Xã hội

9 giáo viên

+ Tổ Văn phòng

4 đồng chí

2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường THPT X trong
giai đoạn hiện nay
2.2.1. Ưu điểm về chất lượng đội ngũ giáo viên
Một là, 100% đội ngũ giáo viên nhà trường có trình độ đại học, trong đó có
10/44 giáo viên (22%) có trình độ thạc sỹ; 04 giáo viên có trình độ trung cấp lý
luận chính trị. Với trình độ đào tạo như vậy, đội ngũ giáo viên nhà trường đã
đảm bảo yêu cầu về trình độ, bằng cấp để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Các
đồng chí giáo viên đa số được đào tạo từ các trường đại học sư phạm có uy tín

như Đại học sư phạm I Hà Nội, Đại học sư phạm II Hà Nội, Đại học sự phạm


- 14 Quy Nhơn, Đại học Vinh. Các giáo viên có trình độ thạc sỹ đều giữ vai trò chủ
chốt ở các tổ bộ môn làm nòng cốt về chuyên môn. Do vậy, hoạt động chuyên
môn của các tổ khá đều tay, đảm bảo mặt bằng chung về chuyên môn giữa các tổ
bộ môn.
Hai là, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên được xếp
loại khá trong hệ thống các trường THPT trên địa bàn huyện.
Trường THPT X được thành lập khá muộn (năm 2002), Khi thành lập, nhà
trường được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh bố trí bộ khung cán bộ quản lý và tổ
trưởng các bộ môn là những cán bộ có chuyên môn vững từ một số trường
THPT trên địa bàn huyện, do vậy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
giáo viên khung khá đều tay. Tiếp theo đó, nhà trường tuyển dụng đội ngũ giáo
viên các bộ môn chủ yếu từ sinh viên mới tốt nghiệp. Ban đầu, đội ngũ giáo viên
trẻ còn hạn chế về kinh nghiệm công tác, nên chất lượng dạy học còn nhiều hạn
chế. Tuy nhiên, dưới sự dìu dắt của các thế hệ giáo viên có trình độ, kinh nghiệm
công tác, cộng với sức trẻ và nền tảng chuyên môn lý thuyết vững, sau hơn 10
năm học tập, rèn luyện, đến nay, đội ngũ giáo viên nhà trường đã khá cứng cáp
về chuyên môn, nghiệp vụ. Đội ngũ giáo viên nhà trường đã cơ bản sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực vào các bài giảng; đa số các buổi giảng bài có
ứng dụng máy chiếu vào giảng dạy. Hoạt động thao giảng, dự giảng được tổ
chức thường xuyên; hàng tuần các tổ hộ môn đều tổ chức sinh hoạt chuyên môn
để kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm và có những chỉ đạo mới về chuyên môn,
nghiệp vụ công tác. Kết quả thi giáo viên dạy giỏi các cấp trong những năm vừa
qua đã ít nhiều phản ánh được sự trưởng thành của đội ngũ giáo viên nhà trường.
Bảng: Thống kê giáo viên dạy giỏi của nhà trường từ năm 2012-2015
Năm học
2012-2013


Năm học
2013-2014

Năm học
2014-2015

Tổng số giáo viên

39

39

43

Số giáo viên dạy giỏi cấp cơ sở

5

7

8

Số giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh

3

3

11



- 15 Qua bảng trên cho thấy, tỷ lệ giáo viên nhà trường đạt danh nhiệu giáo viên
dạy giỏi tăng liên tục qua từng năm. Tỷ lệ giáo viên dạy giỏi cấp cơ sở tăng
nhanh 12,8% (năm học 2012-2013), 17,9% (năm học 2013-2014), 18,6% (năm
học 2014-2015); đặc biệt là tỷ lệ giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh tăng đột biến, từ
7,6% (năm học 2013-2014), lên 25,5% (năm học 2014-2015). Như vậy, đến năm
1
học 2014 - 2015, toàn trường đã có 4 số giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy

giỏi cấp tỉnh. Đây là con số phản ánh rất rõ chất lượng đội ngũ giáo viên của nhà
trường hiện nay.
Ba là, đội ngũ giáo viên nhà trường có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết,
yêu nghề, thương yêu học sinh
Đội ngũ giáo viên nhà trường đều tốt nghiệp từ các trường Đại học sư
phạm lớn, các thầy cô đã được giáo dục về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
nhà giáo.
Từ khi thành lập trường đến nay, các thế hệ lãnh đạo, cấp uỷ nhà trường rất
chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đạo đức, trách nhiệm
nghề nghiệp. Hàng năm, Lãnh đạo nhà trường đều có kế hoạch giáo dục tư
tưởng, đạo đức cho đội ngũ giáo viên thông qua việc quán triệt sâu sắc các văn
bản chỉ đạo của ngành về chống tiêu cực trong dạy, học, thi cử; Lãnh đạo nhà
trường duy trì tốt nề nếp kiểm tra chuyên môn và trật tự trường lớp; định kỳ tổ
chức họp phụ huynh học sinh để nghe phản ánh về tình hình giảng dạy, chủ
nhiệm lớp, về các vấn đề tiêu cực trong trường học.
Thực hiện cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh", nhà trường đã phát động và tổ chức rộng rãi, thường xuyên các hoạt
động trong giáo viên và học viên, do vậy, đã nâng cao được nhận thức, tư tưởng
của đội ngũ giáo viên về đạo đức nghề nghiệp.
Trong hơn 10 năm hoạt động, nhà trường đã không để xảy ra các vụ việc
tiêu cực làm ảnh hưởng đến hoạt động và hình ảnh chung. Hàng năm, trường

luôn được đánh giá là đơn vị trong sạch, vững mạnh, ngôi trường văn hoá.


- 16 Bốn là, Số lượng giáo viên nhà trường đảm bảo phù hợp với quy mô học sinh
Nhằm đảm bảo yêu cầu về chất lượng, nhà trường đã từng bước nâng cao
quy mô học sinh trên cơ sở được bổ sung số lượng giáo viên hàng năm. Trong
những năm gần đây, tỷ lệ giáo viên trên số học viên luôn đạt mức chuẩn quy
định của ngành. Số liệu thống kê những năm qua như sau:
Năm học
2012-2013

Năm học
2013-2014

Năm học
2014-2015

Tổng số giáo viên

39

39

43

Tỷ lệ giáo viên/lớp

2,05

1,95


2,05

Tỷ lệ học sinh/gi¸o viªn

20,8

20,9

18,2

Qua bảng số liệu thống kê cho thấy, trong 3 năm gần đây, tỷ lệ giáo
viên/lớp cơ bản ổn định, xoay quanh mức 2,0 giáo viên/lớp; nhưng tỷ lệ học sinh
trên giáo viên giảm dần, từ mức trên 20 học sinh/giáo viên xuống còn 18,2 học
sinh/giáo viên (năm học 2014-2015). Tỷ lệ giáo viên/ lớp và tỷ lệ học sinh/giáo
viên của nhà trường hiện nay đang đảm bảo mức quy định chuẩn của ngành về
số lượng giáo viên; tỷ lệ học sinh/giáo viên có xu hướng giảm dần đảm bảo xu
hướng thu nhỏ lớp học và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo xu hướng
đổi mới.
Năm là, cơ cấu đội ngũ giáo viên của nhà trường cơ bản đảm bảo yêu cầu
và theo quy định chung.
- Về cơ cấu trình độ đào tạo: Đội ngũ giáo viên nhà trường đã đảm bảo
100% giáo viên có trình độ đại học, 10/44 (22%) giáo viên có trình độ thạc sỹ,
được phân bố đều ở các tổ bộ môn.
- Cơ cấu chuyên môn (5 tổ chuyên môn):
+ Tổ Toán Tin:

10 giáo viên

+ Tổ Văn Sử Địa


11 giáo viên

+ Tổ Tự nhiên:

13 giáo viên

+ Tổ Xã hội:

9 giáo viên

+ Tổ Văn phòng :

4 đồng chí


- 17 Với số giáo viên ở các tổ chuyên môn như trên đã đảm bảo cân đối về lao
động, việc làm giữa các tổ bộ môn, phù hợp với phân bổ chương trình đào tạo
của ngành, đáp ứng được nhu cầu công việc
Do chất lượng đội ngũ giáo viên nhà trường không ngừng được nâng cao,
nên chất lượng và kết quả học tập của học sinh ngày càng tốt, được thể hiện qua
bảng tổng hợp xếp loại văn hoá và xếp loại hạnh kiêm của học sinh trong những
năm gần đây.
Bảng: Xếp loại văn hoá của học sinh trong 03 năm học (2012-2013 đến
năm học 2014-2015)
Giỏi

Khá

TB


Yếu

Năm học

Tổng
số HS

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2012-2013

812

6


0,7

331

40,8

463

57,0

12

1,5

2013-2014

815

6

0,7

382

46,9

421

51,7


6

0,7

2014-2015

784

7

0,9

454

57,9

318

40,6

5

0,6

Bảng: Xếp loại hạnh kiểm của học sinh trong 03 năm học (2012-2013 đến
năm học 2014-2015)
Tốt

Khá


TB

Yếu

Năm học

Tổng
số HS

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2012-2013

812

473


58,3

257

31,7

80

9,8

2

0,2

2013-2014

815

518

63,6

233

28,6

62

7,6


2

0,2

2014-2015

784

501

63,9

228

29,1

54

6,9

1

0,1

Qua bảng số liệu thống kê cho thấy: Chất lượng học tập của học sinh tăng
lên, thông qua tỷ lệ học sinh xếp loại học tập khá tăng lên qua từng năm: 40,8%
(2012-2013), 46,9% (2013-2014), 57,9% (2014-2015) và theo đó, tỷ lệ học sinh
đạt loại trung bình giảm dần.
2.2.2. Hạn chế của đội ngũ giáo viên nhà trường

Một là, nhìn tổng thể, đội ngũ giáo viên nhà trường vẫn còn nhiều yếu kém
về trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Mặc dù toàn trường đã có 10 thạc
sỹ (chiếm 22%), nhưng các giáo viên có trình độ thạc sỹ chưa thể hiện sự nổi bật
về chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực đội ngũ giáo viên nhà trường không đều,
năm học 2015 - 2016, toàn trường đã có 11 giáo viên giỏi cấp tỉnh (chiếm
25,5%), nhưng số giáo viên còn lại (khoảng 75%) còn khoảng cách khá xa về
trình độ chuyên môn.


- 18 Hai là, về phương pháp dạy học vẫn còn nhiều hạn chế, mặc dù đã có nhiều
tiến bộ trong việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, nhưng việc thực
hiện vẫn còn khiên cưỡng, giáo viên vẫn nặng về truyền đạt tri thức, lý thuyết mà
chưa chú trọng nhiều đến phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học viên, chưa
chú trọng thực hành, thực tiễn, chưa quan tâm phát triển kỹ năng cho học sinh.
Ba là, đạo đức đội ngũ giáo viên đang đứng trước những thách thức của cơ
chế thị trường. Giáo viên giỏi ở các môn khoa học cơ bản như toán, lý, hoá, văn,
anh vẫn tổ chức dạy thêm, học thêm nhiều, chưa chú trọng dạy trên lớp; giáo
viên một số bộ môn khác như: sử, địa, sinh… chưa thật sự tâm huyết với nghề,
chưa chú trọng đổi mới phương pháp, cách thức dạy học. Tình trạng chạy theo
thành tích vẫn chưa được khắc phục triệt để.
Bốn là, đội ngũ giáo viên nhà trường đa số còn trẻ, còn nhiều hạn chế về
chuyên môn, kinh nghiệm, trải nghiệm cuộc sống. Tỷ lệ giáo viên nữ cao (31
giáo viên) chiếm 70%. Giáo viên nữ, giáo viên trẻ đang trong giai đoạn sinh và
chăm sóc con nhỏ nên khả năng, điều kiện thời gian tập trung làm chuyên môn gặp
nhiều hạn chế.
2.2.3. Những nguyên nhân hạn chế
- Do bản thân người giáo viên chưa thấy hết được vai trò trách nhiệm của
mình trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
- Do quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập, kém
hiệu quả. Mặt khác đa số học sinh phổ thông hiện nay ít có nguyện vọng vào học

tại các trường sư phạm; đầu vào các trường sư phạm hiện nay thấp biểu hiện chỉ
bằng hoặc qua mức điểm sàn là có thể vào học ngành sư phạm.
- Do cơ chế chính sách đãi ngộ đối với giáo viên còn thấp, mặc dù chính
sách chế độ hiện nay có cải thiện một bước, chế độ tiền lương có chuyển biến khá
tốt qua từng năm; đời sống cán bộ, giáo viên có nhiều cải thiện, song vẫn chưa
đáp ứng được tình hình giá cả thị trường, còn khoảng cách khá xa so với nhu cầu
đời sống vật chất hiện nay, nhất là đối với giáo viên mới ra trường; do vậy một số
giáo viên phải làm thêm ngoài giờ, chưa tập trung sâu về chuyên môn.
- Chỉ tiêu biên chế từng năm được tỉnh giao cho ngành giáo dục thông qua
Sở nội vụ chưa chủ động về biên chế để tuyển chọn giáo viên cũng như nhân viên
phục vụ trong nhà trường.
- Chính sách thu hút nhân tài của tỉnh còn nhiều bất cập chưa thật sự lôi kéo
được nhân lực từ trong cũng như ngoài tỉnh về phục vụ; nhiều sinh viên sư phạm
ra trường có xu hướng ở lại các thành phố lớn để có điều kiện phát triển hơn.


- 19 - Do mặt trái cuả cơ chế thị trường đã nảy sinh những tiêu cực. Những tiêu
cực đó đang từng ngày, từng giờ xâm nhập len lõi vào cuộc sống, làm biến dạng
các mối quan hệ truyền thống vốn rất thiêng liêng như quan hệ thầy trò, tinh
thần tôn sư trọng đạo.
- Do các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và chính quyền chưa
thấy hết được vai trò của đội ngũ giáo viên trong đổi mới giáo dục hiện nay.
- Do xu thế mở cửa hội nhập, tỉnh Thái Bình cũng như các tỉnh, thành phố
khác trong cả nước đều có cơ hội để giao lưu, học hỏi về các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật …
2.2.4. Một số bài học kinh nghiệm
Một là, thực hiện nghiêm túc chủ trương đường lối của Đảng chính sách
pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực giáo dục đối với các nhà trường hiện nay.
Hai là, không ngừng đào tạo và giúp đội ngũ giáo viên tự đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn cũng như phương pháp sư phạm để đáp ứng với yêu cầu mới.

Ba là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác giáo dục đào
tạo, giúp đội ngũ giáo viên ngày càng có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục
phục vụ cho sự nghiệp tỉnh nhà.
Bốn là, có cơ chế chính sách hợp lý trong việc đề bạt, luân chuyển, bổ
nhiệm cán bộ giáo viên làm công tác quản lý, tạo động lực giúp cho đội ngũ giáo
viên yên tâm, phấn khởi cống hiến trí tuệ của mình vì sự nghiệp giáo dục…
Quá trình mở cửa hội nhập sẽ là điều kiện để phát triển nhưng cũng là quá
trình phải đấu tranh với những biểu hiện đáng sợ nhất đó là sự mờ nhạt lòng yêu
người, yêu trẻ không cần chăm chỉ, cần cù và sáng tạo trong chuyên môn, không
cần phấn đấu để đạt chất lượng cao trong giáo dục và giảng dạy, không cần tự
học, tự bồi dưỡng ... mà chỉ cần "trung bình chủ nghĩa". Các biểu hiện này vẫn
đang âm thầm, kìm hãm sự phát triển của chất lượng giaó dục, làm mất dần
động lực phấn đấu và tình cảm nghề nghiệp của giáo viên, làm phai nhạt dần
mục tiêu dạy làm người.


- 20 Chương 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG THPT X
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Nhóm giải pháp về đổi mới nhận thức của xã hội đối với việc nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta trong tương lai phụ thuộc rất
nhiều vào nhận thức mới của xã hội về vai trò và trách nhiệm đối với giáo dục
và đào tạo. Nâng cao được nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ giáo
viên trong các trường phổ thông là chúng ta đã tạo được môi trường xã hội
thuận lợi, tạo ra động lực tinh thần to lớn để phát huy mọi tiềm năng của xã hội
đối với việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới.
Để nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của đội ngũ giáo viên cần khắc phục
kịp thời một số quan niệm chưa đúng, chưa đầy đủ về vai trò của đội ngũ giáo

viên đang tồn tại khá phổ biến trong đời sống xã hội từ trong các cấp ủy Đảng,
chính quyền, các bậc phụ huynh đến các em học sinh, lực lượng giáo dục kể cả
các giáo viên.
3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy
Đảng và chính quyền về vai trò của đội ngũ giáo viên trong đổi mới giáo dục
hiện nay
Những hạn chế thường thấy là sự quan tâm tới đội ngũ giáo viên chưa được
thường xuyên và còn mang tính bất bình đẳng. Mặc dù trong những năm gần
đây sự quan tâm đó đã được cải thiện rất nhiều nhưng trong quá trình thực hiện
vẫn mang tính hình thức, do đó chưa thật sự giải quyết được sự suy thoái chất
lượng giáo dục trên nhiều mặt, kể cả mặt đạo đức nghề nghiệp của giáo viên
cũng như đạo đức, nhân cách của học sinh. Cần thống nhất quán triệt sâu sắc
hơn nữa đầu tư cho đội ngũ giáo viên là đầu tư cho một lực lượng lao động có ý
nghĩa lớn đối với sự thành bại của nền giáo dục trong giai đoạn mới chứ không
thể như một thứ phúc lợi đơn thuần, đầu tư đến đâu hay đến đó, càng không thể
là ban ơn, chiếu cố với giáo viên.
Hiện nay, căn bệnh thành tích trong giáo dục bước đầu đã được khắc phục.
Song vẫn còn, đó là vấn đề bức xúc, có ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, cần
nhanh chóng chữa trị tận gốc căn bệnh này. Các cơ quan quản lý giáo dục và nhà
trường không chỉ chăm lo nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên một số môn
học, chất lượng học để thi cử, để có tỷ lệ đỗ cao, có nhiều học sinh giỏi, mà ít
đầu tư công sức vào việc đào tạo đội ngũ giáo viên môn giáo dục chính trị, tư


- 21 tưởng, đạo đức, thẩm mỹ và nghề nghiệp... khắc phục kịp thời việc coi nhẹ một
số môn học, không nên quan niệm có môn học chính, môn học phụ. Phải có sự
quan tâm đầu tư như nhau đối với tất cả giáo viên đang làm nhiệm vụ "trồng
người". Các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần
quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta, về giáo viên, chính sách đào tạo, đãi ngộ, sử dụng giáo viên.

3.1.2. Nâng cao nhận thức của các bậc cha mẹ học sinh về giáo viên và
vai trò của đội ngũ giáo viên trong đổi mới giáo dục trung học phổ thông
Cha mẹ học sinh, phải thấy được trách nhiệm của mình trong việc giáo dục
con cái, phải nhận thức được vai trò của đội ngũ giáo viên sẽ bị hạn chế rất
nhiều nếu không có sự quan tâm, phối hợp, hỗ trợ, về tinh thần và trách nhiệm
của bậc làm cha mẹ. Trong giáo dục con trẻ, cả cha mẹ học sinh và đội ngũ giáo
viên đều có chung một mục đích trách nhiệm và nghĩa vụ là giáo dục, đào tạo
nhân cách làm người cho các em. Lời nói và việc làm cần phải tế nhị để thể hiện
sự tôn trọng của các bậc cha mẹ học sinh đối với thầy cô giáo. Tình trạng cha mẹ
học sinh xúc phạm thô bạo đến nhà trường, đến thân thể và nhân cách của thầy
cô giáo ở một số nơi mà trên các phương tiện thông tin đã đưa cần chấm dứt
bằng những quy định của pháp luật và sự lên án của dư luận xã hội. Giáo viên
phải được tôn trọng và bảo vệ.
Trong các buổi họp chung hoặc tiếp xúc với cha mẹ học sinh phải thường
xuyên tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng về vấn đề giáo dục, về
truyền thống "Tôn sư trọng đạo", "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.
Thường xuyên tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa thầy cô giáo và cha
mẹ học sinh thông qua các buổi họp phụ huynh. Tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt
động của Ban đại diện cha mẹ học sinh trong nhà trường.
3.1.3. Nâng cao nhận thức của chính bản thân đội ngũ giáo viên
Không thể là một giáo viên với nghĩa cao quý nhất của từ ấy nếu người
giáo viên đó không có ý thức đầy đủ về trách nhiệm cao cả mà họ tự gánh vác.
Bởi lẽ, bản thân họ còn không nhận thức đầy đủ về vai trò của mình thì làm sao
họ có thể tuyên truyền vai trò đó một cách hiệu quả trong xã hội.
Trong đội ngũ giáo viên trường THPT X hiện nay còn bộc lộ một cơ cấu
chưa đồng bộ, chưa hợp lý; một bộ phận giáo viên năng lực còn hạn chế, thiếu
cố gắng rèn luyện; phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa quan tâm đến
"dạy người" đến rèn luyện đạo đức, rèn luyện sức khoẻ cho học sinh. Giáo viên
có thể không phải là người khám phá ra kiến thức nhưng nhất thiết phải là người



- 22 sáng tạo ra con đường đi tới kiến thức tốt nhất để giúp học sinh tự chiếm lĩnh
kiến thức. Khắc phục nhận thức sai lầm trong các giáo viên tuy không dễ nhưng
không phải là không làm được. Đội ngũ giáo viên cần không ngừng học tập sáng
tạo; phải làm việc với học sinh bằng tri thức bằng cả cảm xúc, tâm hồn, trái tim
yêu thương và tấm lòng nhân hậu thiết tha đối với nghề nghiệp mình đang theo
đuổi: dạy chữ - dạy người.
3.2. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo động lực để
đội ngũ giáo viên nâng cao vai trò của mình trong đổi mới giáo dục hiện nay
3.2.1. Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo
hướng chuẩn hoá và hiện đại
Chủ tịch Hồ Chí minh đã từng nói: "Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu
thì ảnh hưởng xấu". Gần nửa thế kỷ nay chúng ta luôn ghi nhớ và làm theo lời
dạy của Bác Hồ với "sứ mệnh trồng người". Để làm được điều này, cần đổi mới
công tác đào tạo giáo viên ở ba giai đoạn:
Giai đoạn hướng nghiệp sư phạm trước đào tạo.
Giai đoạn đào tạo cơ bản trong trường sư phạm.
Giai đoạn bồi dưỡng, hoàn thiện trình độ nghề nghiệp sau đào tạo.
- Giai đoạn hướng nghiệp sư phạm: hướng nghiệp là hướng dẫn con người
chọn một nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích của mình khi là học sinh
phổ thông trung học. Cả thực tiễn và lý luận không ai phủ nhận vai trò quan
trọng của giáo viên trong xã hội, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên rất ít học
sinh sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông thật sự có nguyện vọng làm nghề
dạy học. Vì thế công tác hướng nghiệp sư phạm thật sự cần thiết và công tác này
cần được đổi mới bằng việc làm cho mọi người hiểu biết cơ bản về nghề dạy
học; những hiểu biết về nhu cầu của xã hội, của địa phương đối với lao động sư
phạm; những hiểu biết về đặc điểm nhân cách cơ bản của giáo viên.
- Giai đoạn đào tạo cơ bản trong trường sư phạm: hiện nay, việc đào tạo đội
ngũ giáo viên chủ yếu do các trường đại học sư phạm đảm nhiệm. Những kiến
thức được trang bị, được học trong trường sư phạm là nền móng vững chắc để

sau khi tốt nghiệp ra trường những giáo viên trẻ tự tin bước vào nghề và thực
hiện vai trò của mình. Vì thế, đào tạo cơ bản trong các trường sư phạm được coi
là then chốt, quyết định chất lượng của đội ngũ giáo viên sau này. Do đó, việc
củng cố và đổi mới công tác đào tạo cơ bản trong hệ thống trường đại học sư
phạm là hết sức cần thiết.


- 23 - Đổi mới nội dung bồi dưỡng, hoàn thiện trình độ nghề nghiệp sau đào tạo:
những năm được đào tạo ở trường đại học sư phạm thực sự rất quan trọng nhưng
cũng chỉ có thể cung cấp cho giáo viên vốn chuyên môn nghiệp vụ rất cơ bản. Vì
vậy, việc đội ngũ giáo viên cần được đào tạo tiếp bằng con đường bồi dưỡng
thường xuyên là yêu cầu khách quan giúp họ nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cập nhật
tri thức, đáp ứng yêu cầu đổi mới của xã hội, chuẩn hoá đội ngũ theo tinh thần học
tập suốt đời, dưới nhiều hình thức học tập trung, học tại chức, học từ xa...
Để công tác này đạt hiệu quả cần áp dụng tốt nguyên tắc chuyên môn hóa
trong bồi dưỡng nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các nhóm đối tượng,
tránh kiểu bồi dưỡng đồng loạt, ồ ạt, bình quân. Vận dụng nhiều hình thức bồi
dưỡng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của giáo viên. Chú trọng việc bồi
dưỡng phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và khả
năng tiếp cận công nghệ thông tin, sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học
hiện đại để có thể đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập.
3.2.2. Đổi mới công tác bố trí, sử dụng đội ngũ giáo viên
Việc bố trí sử dụng đối với đội ngũ giáo viên có ảnh hưởng to lớn đến việc
phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên. Nếu bố trí, sử dụng hợp lý đúng khả năng
chuyên môn và điều kiện thuận lợi để đội ngũ giáo viên đạt hiệu quả lao động
cao và phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong quá trình thực hiện vai trò của
mình. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã ghi rõ: "Sử dụng giáo
viên đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng với tinh thần ưu đãi và
tích cực nghề dạy học". Hiện nay, giáo viên ở các bậc học còn rất thiếu, nhưng

để bảo đảm chất lượng giáo dục đào tạo và vì lợi ích lâu dài của sự nghiệp trồng
người, Đảng ta kiên quyết yêu cầu: "Không bố trí người kém phẩm chất làm
giáo viên, kể cả giáo viên hợp đồng".
3.2.3. Tạo động lực để đội ngũ giáo viên nâng cao vai trò của mình trong
đổi mới giáo dục hiện nay

3.2.3.1. Tổ chức tốt hoạt động thi đua khen thưởng:
Thi đua là phương sách quan trọng để kích thích động viên tính tích
cực hoạt động của cá nhân tập thể, mỗi cá nhân hoặc tập thể đều có nhu
cầu về sự thừa nhận xã hội đối với lao động của họ. Khi phát động thi đua,
phải lãnh đạo tư tưởng để tránh tình trạng ganh đua hoặc chỉ nhìn vào phần
thưởng vật chất hay có danh hiệu cá nhân, phải làm cho mọi thành viên
tham gia thi đua hiểu rõ và đúng quan hệ hữu cơ giữa việc đạt danh hiệu
thi đua, phần thưởng với lợi ích của tập thể xã hội , phải lấy giáo dục chính
trị tư tưởng để đẩy mạnh thi đua rồi lấy kết quả thi đua để động viên củng
cố tư tưởng tinh thần của đội ngũ giáo viên trong trường.


- 24 -

Đặc điểm của phong trào thi đua là tính công khai và tính tập thể vì thế
mọi chỉ tiêu thi đua, những biện pháp thi đua cần được bàn bạc, xây dựng ngay
đầu năm học. Công khai các tiêu chuẩn thi đua, chế độ khen thưởng và kết quả
mà từng cá nhân hay từng bộ phận tập thể đã đạt được sẽ làm cho mỗi người
thấy rõ sự cố gắng vươn lên của cá nhân và tập thể đó trong năm học bên cạnh
các đợt thi đua lớn, cần tổ chức các đợt thi đua ngắn ngày để giải quyết những
nhiệm vụ đột xuất cấp bách và để duy trì tâm trạng phấn khởi thi đua liên tục
đồng thời tạo niềm vui cho đội ngũ cán bộ giáo viên phấn đấu công tác tốt.
3.2.3.2. Chăm lo đời sống tinh thần vật chất
Trong tình hình hiện nay mặc dù chế độ chính sách của đội ngũ cán bộ

giáo viên được Đảng, Nhà nước quan tâm chiếu cố. Đời sống có được nâng
lên. Song so mặt bằng của xã hội chung còn thấp, còn nhiều khó khăn.
Chính vì thế mọi sự động viên khích lệ về tinh thần vật chất của đợn vị, địa
phương có tác dụng rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của đội ngũ giáo viên.
Trong quá trình công tác, chính vì thế đơn vị phải thực hiện đúng, kịp thời,
công bằng mọi chế độ chính sách cho giáo viên mà nhà nước đã ban hành.
Phải phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình đời sống của giáo viên, công
nhân viên trong trường với cấp trên, với chính quyền địa phương, đồng
thời kiến nghị những biện pháp mà địa phương có thể giúp được nhất là đối
với đội ngũ giáo viên của trường đang sống trong khu nhà công vụ.
Ban lãnh đạo trường phải phối hợp với Công đoàn tìm biện pháp tăng
thu nhập chính đáng cho giáo viên và chăm lo đời sống tinh thần cho giáo
viên, công nhân viên như: tham quan, vui chơi giải trí, văn nghệ, thể dục, thể
thao... Quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ những giáo viên, công nhân viên ốm đau,
gia đình gặp khó khăn. Chính những hành động trên sẽ giúp cho đội ngũ giáo
viên an tâm, tin tưởng và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
3.2.4. Tạo lập môi trường giáo dục, xã hội thuận lợi để đội ngũ giáo viên
nâng cao vai trò của mình trong đổi mới giáo dục
- Phát huy dân chủ cần:
Ban lãnh đạo nhà trường luôn lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của
tập thể giáo viên, tiếp thu và điều chỉnh hợp lý những nhận xét và kiến nghị của
giáo viên, coi giáo viên là nhân vật có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục
trong nhà trường, là đối tượng cần có sự quan tâm và đầu tư thỏa đáng. Phải
đảm bảo tính công bằng, công khai trong nhận xét, đánh giá giáo viên, đánh giá
học sinh. Mọi thành viên trong trường phải có ý thức tôn trọng kỹ luật, kỹ
cương, giữ gìn của công, làm sạch đẹp môi trường.


- 25 - Đổi mới nhận thức và thực thi xã hội hóa giáo dục có chiều sâu:
Xã hội hoá giáo dục sẽ góp phần tạo ra một môi trường giáo dục rộng rãi,

tác động giáo dục đúng hướng và thống nhất mục tiêu giáo dục. Bởi lẽ, công tác
xã hội hóa giáo dục, ngoài việc đem lại sự đẩu tư về kinh phí cho tác động dạy
và học trong nhà trường mà còn lôi cuốn được sự tham gia tích cực, sự giúp đỡ
nhiệt tình, cộng đồng trách nhiệm của chính quyền các cấp, của cha mẹ học sinh,
của các lực lượng xã hội khác. Trong năm học 2014-2015 trường THPT X đã
làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, phụ huynh cùng nhà trường đã lát được
3.200 m2 sân gạch đỏ.
- Tăng cường các hoạt động nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội, không cho
chúng xâm hại vào trường học:
Hiện nay, sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường giáo dục của nhà trường và tác động xấu
với tư tưởng, ý thức, tình cảm, đạo đức, hành vi và lối sống của học sinh. Tệ nạn
xã hội thực sự là nỗi lo lắng cho các cấp, các ngành, các bậc cha mẹ học sinh, là
sự cản trở rất lớn cho quá trình thực hiện vai trò của đội ngũ giáo viên. Các cơ
quan chức năng, nhất là các ngành pháp luật của tỉnh cần tăng cường các hoạt
động và biện pháp đủ mạnh để giái quyết các tệ nạn xã hội như: tụ điểm mua
bán băng đĩa xấu, sách báo, tranh ảnh có nội dung không phù hợp với học sinh,
hết sức quan tâm đến việc giải quyết những tiêu cực trong ngành giáo dục, tổ
chức sân chơi lành mạnh, bổ ích cho học sinh. Đẩy mạnh phong trào xây dựng
đời sống văn hoá, tuyên truyền nêu gương những cá nhân, tập thể có hành vi,
việc làm, xử sự có văn hoá.
3.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện về trình
độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm và nhân cách của đội ngũ giáo viên
Rõ ràng, giáo viên cũng phải thường xuyên được giáo dục. Họ không
những là một người thầy mà còn là một học trò, họ cống hiến trí tuệ cho học
sinh, cho nhân dân, đồng thời họ cũng phải học những gì tốt đẹp nhất trong nhân
dân, trong đời sống, trong sự tiến bộ của khoa học, để rồi tiếp tục cống hiến
nhiều hơn tốt hơn cho học sinh.
3.3.1. Đội ngũ giáo viên tự học, tự rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống và nhân cách của một giáo viên

Ý thức tự học tự rèn nâng cao khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao,
phải bảo đảm mỗi giáo viên là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo là một
yêu cầu đối với giáo viên trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục. Thầy giáo,


×