Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động sản xuất vàng mã đến chất lượng môi trường tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 125 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG HÀ NỘI

TRẦN ANH THƢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đ NH GI ẢNH HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT VÀNG MÃ ĐẾN CHẤT LƢỢNG MÔI
TRƢỜNG TẠI HUYỆN THUẬN THÀNH,
TỈNH BẮC NINH
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

HÀ NỘI, NĂM 2019


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG HÀ NỘI

TRẦN ANH THƢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đ NH GI ẢNH HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT VÀNG MÃ ĐẾN CHẤT LƢỢNG MÔI
TRƢỜNG TẠI HUYỆN THUẬN THÀNH,
TỈNH BẮC NINH
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG
MÃ SỐ: 8440301
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG MAI

HÀ NỘI, NĂM 2019




CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG HÀ NỘI
Cán bộ hướng dẫn chính: TS. Nguyễn Thị Phương Mai
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị)

Cán bộ chấm phản biện 1:..................................................................
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị)
Cán bộ chấm phản biện 2:..................................................................
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị)

Luận văn thạc sĩ được bảo vệ tại:
HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
Ngày ... tháng ... năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là những đóng góp riêng dựa trên số liệu
khảo sát thực tế, trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Những kết quả nghiên cứu kế thừa các công trình khoa học khác đều được trích dẫn
đúng theo quy định.
Nếu luận văn có sự sao chép từ các công trình khoa học khác, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Trần An T ƣ



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy cô
giáo trong khoa Môi trường, trường Đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội. Tôi
cám ơn các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa học.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Phương
Mai đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những lời khuyên cần thiết đ tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới Ban Lãnh đạo, các cô chú, các anh chị tại
Ph ng Tài nguyên Môi trường của t nh Bắc Ninh, y ban nhân dân xã Song Hồ đã
tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực
hiện luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian c n hạn chế, cùng với những thiếu
sót về kiến thức và kinh nghiệm của tôi nên luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý từ phía các thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng 04 năm 2019
Tác giả luận văn
Trần An T ƣ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 10
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 3
1.1. Tổng quan về làng nghề, phân loại và lịch sử phát tri n làng nghề .....................3
1.1.1. Khái niệm làng nghề .....................................................................................3
1.1.2. Phân loại làng nghề .......................................................................................3

1.1.3. Lịch sử phát tri n làng nghề. ........................................................................4
1.1.4. Đặc đi m chung của làng nghề Việt Nam ....................................................6
1.2. Tình hình phát tri n làng nghề sản xuất vàng mã ở Việt Nam ............................9
1.2.1. Nhu cầu của người dân đối với sản phẩm vàng mã ......................................9
1.2.2. Tình hình phát tri n nghề làm vàng mã trên cả nước .................................11
1.2.3. Tình hình phát tri n nghề làm vàng mã tại Bắc Ninh .................................13
1.3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh
Bắc Ninh ....................................................................................................................15
1.3.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................15
1.3.2. Tình hình phát tri n kinh tế - xã hội ...........................................................19
1.4. Hiện trạng môi trường làng nghề sản xuất vàng mã và ảnh hưởng của hoạt
động sản xuất tới môi trường ....................................................................................23
1.4.1. Hiện trạng môi trường nước .......................................................................24
1.4.2. Hiện trạng môi trường không khí ...............................................................26
1.4.3. Hiện trạng chất thải rắn ...............................................................................28
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ PHƢƠNG PH P NGHIÊN CỨU .... 30
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................30
2.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................30
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu, thông tin thứ cấp ........................................30
2.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế .......................................................30
2.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học ................................................................31
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm ..........................................................................31
2.2.5. Phương pháp đánh giá chất lượng nước thông qua ch số WQI .................38


2.2.6. Phương pháp tính toán tải lượng của các thông số trong nguồn nước .......39
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 40
3.1. Hiện trạng sản xuất tại làng nghề sản xuất vàng mã Song Hồ ...........................40
3.1.1. Cơ cấu ngành nghề và qui mô sản xuất vàng mã .......................................40
3.1.2. Một số loại nguồn thải cơ bản trong hoạt động sản xuất vàng mã .............41

3.1.3. Hiện trạng sản xuất của làng nghề ..............................................................44
3.2. Hiện trạng môi trường tại làng nghề sản xuất vàng mã xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, t nh Bắc Ninh .....................................................................................45
3.2.1. Hiện trạng môi trường nước tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh
Bắc Ninh ...............................................................................................................45
3.2.2. Đánh giá về hiện trạng chất thải rắn ...........................................................62
3.3. Đánh giá của ảnh hưởng hoạt động sản xuất tới môi trường nước và sức
khoẻ người dân ..........................................................................................................63
3.3.1. Ảnh hưởng của hoạt động sản xuất đến hiện trạng môi trường nước tại
xã Song Hồ............................................................................................................63
3.3.2. Áp lực đối với môi trường nước tại xã Song Hồ ........................................66
3.3.3. Tác động của hoạt động sản xuất vàng mã tới sức khoẻ người dân ...........69
3.4. Đề xuất các giải pháp quản lý môi trường làng nghề sản xuất vàng mã
huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh ..........................................................................71
3.4.1. Hiện trạng công tác quản lý môi trường tại xã Song Hồ ............................71
3.4.2. Một số giải pháp về công tác quản lý môi trường ......................................72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 78
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.
Bảng 1.2.
Bảng 1.3.
Bảng 1.5.
Bảng 1.6.
Bảng 1.7.
Bảng 2.1.
Bảng 2.2.

Bảng 2.3.
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Bảng 3.7.
Bảng 3.8.
Bảng 3.9.
Bảng 3.10.
Bảng 3.11.
Bảng 3.12.
Bảng 3.13.
Bảng 3.14.
Bảng 3.15.
Bảng 3.16.

Phân loại làng nghề theo sản phẩm ở Bắc Ninh ....................................14
Các tác nhân chính gây ô nhiễm môi trường từ các hoạt động sản
xuất của làng nghề .................................................................................23
Vị trí lấy mẫu nước mặt tại một số làng nghề .......................................24
Vị trí lấy mẫu nước ngầm tại làng nghề sản xuất .................................25
Kết quả phân tích chất lượng nước ngầm làng nghề .............................26
Kết quả quan trắc môi trường không khí của làng giấy Phong Khê .....27
Tọa độ vị trí lấy mẫu nước tại xã Song Hồ ...........................................32
Phương pháp bảo quản mẫu ..................................................................36
Phương pháp phân tích các thông số trong ph ng thí nghiệm ..............37
Thống kê một số cơ sở sản xuất, kinh doanh vàng mã phát sinh chất
thải tại huyện Song Hồ ..........................................................................41

Tình hình tham gia sản xuất vàng mã của các hộ gia đình tại xã
Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh ......................................44
Kết quả phân tích nước mặt tại làng nghề sản xuất vàng mã Song Hồ .......46
Giá trị WQI của các mẫu mặt tại xã Song Hồ .......................................50
Diễn biến chất lượng nước mặt xã Song Hồ tại vị trí NM6, NM7
năm 2016 - 2018 ....................................................................................52
Kết quả phân tích nước dưới đất tại làng nghề sản xuất vàng mã .........53
Diễn biến chất lượng nước dưới đất xã Song Hồ tại vị trí NM6,
NM7 năm 2016 - 2018 ..........................................................................56
Kết quả phân tích nước thải tại làng nghề sản xuất vàng mã ................58
Bảng khối lượng chất thải rắn theo nguồn gốc phát sinh tại xã Song Hồ.... 63
So sánh chất lượng môi trường nước mặt tại xã Song Hồ ....................64
So sánh thành phần nước thải tại xã Song Hồ .......................................65
Tải lượng nước thải sinh hoạt của xã Song Hồ, năm 2018 ...................66
Ước tính tải lượng một số chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt
xã Song Hồ, năm 2018 ..........................................................................66
Thải lượng thông số ô nhiễm trong nước thải của làng nghề sản
xuất vàng mã Song Hồ ..........................................................................68
Thống kê các bệnh liên quan tới ô nhiễm tại xã Song Hồ, giai đoạn
2016 – 2018 ...........................................................................................69
Thống kê một số bệnh thường gặp tại xã Song Hồ ...............................70


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1.

Vị trí địa lý xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh ..............16

Hình 2.1.


Sơ đồ vị trí lấy mẫu nước mặt ...............................................................35

Hình 2.2.

Sơ đồ vị trí lấy mẫu nước ngầm ............................................................36

Hình 2.3.

Sơ đồ vị trí lấy mẫu nước thải ..............................................................36

Hình 3.2.

Bi u độ th hiện hàm lượng TSS, BOD5 và COD trong nước mặt
xã Song Hồ ............................................................................................47

Hình 3.3.

Bi u độ th hiện hàm lượng PO43-, NO2- trong nước mặt xã Song Hồ ........ 48

Hình 3.4.

Bi u đồ di u diễn ch số chất lượng nước WQI tại xã Song Hồ ..........51

Hình 3.5.

Bi u đồ th hiện ch số pemanganat của các mẫu nước dưới đất tại
xã Song Hồ ............................................................................................54

Hình 3.6.


Bi u đồ th hiện độ cứng tổng trong các mẫu nước dưới đất tại xã
Song Hồ .................................................................................................55

Hình 3.7.

Bi u đồ hàm lượng NH4+ trong nước dưới đất tại xã Song Hồ .............55

Hình 3.8.

Bi u đồ xác định TSS trong nước thải tại xã Song Hồ .........................59

Hình 3.9.

Bi u đồ xác định BOD5 trong nước thải tại xã Song Hồ.......................60

Hình 3.10. Bi u đồ xác định COD trong nước thải tại xã Song Hồ ........................61
Hình 3.11. Bi u đồ xác định Pb trong nước thải tại xã Song Hồ ............................61
Hình 3.13. Bi u đồ bi u diễn một số bệnh thường gặp tại xã Song Hồ ..................70
Hình 3.14. Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường t nh
Bắc Ninh ................................................................................................71
Hình 3.15. Sơ đồ xử lý nước thải làm vàng mã quy mô hộ gia đình ......................75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí iệu viết tắt

Giải ng ĩa

BOD5


Nhu cầu oxy sinh học

BTNMT

Bộ Tài nguyên và Môi trường

BVMT

Bảo vệ môi trường

CNH – HĐH

Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá

COD

Nhu cầu oxy hoá học

DO

Nhu cầu oxy hoà tan

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT – XH

Kinh tế - Xã hội


QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

QLMT

Quản lý môi trường

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TDS

Tổng chất rắn hoà tan

TSS

Tổng chất rắn lơ lửng

TT

Thông tư

UBND

Uỷ ban nhân dân

WQI (Water Quality Index)


Ch số chất lượng nước


MỞ ĐẦU
Làng nghề - một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam, đóng vai tr
quan trọng trong phát tri n kinh tế - xã hội ở nông thôn, góp phần chuy n dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các làng nghề truyền thống
hầu hết tập trung ở vùng châu thổ sông Hồng như Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình,
Nam Định... Một số ít rải rác ở các vùng cao và châu thổ miền Trung và miền Nam.
Tuy được hình thành và phát tri n hàng chục năm nhưng đến nay hầu hết
làng nghề được hình thành tự phát, nhỏ lẻ. Bên cạnh đó, sản xuất tại làng nghề c n
sử dụng các thiết bị thủ công, đơn giản công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng
nguyên, nhiên liệu thấp, mặt bằng sản xuất hạn chế, ý thức người dân trong bảo vệ
môi trường c n chưa cao. Do đó, nhiều hoạt động sản xuất của làng nghề đã và
đang tạo sức ép không nhỏ đến chất lượng môi trường sống của chính làng nghề và
cộng đồng xung quanh.
Hiện nay nhà nước nói chung và t nh Bắc Ninh nói riêng đã và đang có nhiều
chính sách đ thực hiện công tác bảo vệ môi trường làng nghề. Ngày 26/6/2013, Bộ
Tài nguyên và Môi trường đã ban hành văn bản số 2436/BTNMT-TCMT tri n khai
thực hiện đề án tổng th bảo vệ môi trường làng nghề. T nh Bắc Ninh đã có văn bản
số 1442/UBND-NN.TN ngày 16/7/2013 về tri n khai thực hiện đề án tổng th bảo
vệ môi trường làng nghề đ giữ được sản xuất làng nghề đồng thời đảm bảo sức
khỏe người dân trong khu vực.
Theo thống kê, Bắc Ninh chiếm 18% số làng nghề và trên 10% số làng nghề
truyền thống của cả nước. Làng nghề Bắc Ninh có vị trí quan trọng trong cuộc sống
của nhân dân và góp phần tích cực trong chuy n đổi cơ cấu kinh tế ở địa phương.
Tạo ra một khối lượng hàng hoá dồi dào, phong phú đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
Tại huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh có xã Song Hồ với làng nghề làm
tranh Đông Hồ, nhưng nay do nhu cầu xã hội đa số các hộ trong xã đã chuy n sang

làm nghề sản xuất vàng mã. Nói đến làng nghề sản xuất vàng mã tại huyện Thuận
Thành, t nh Bắc Ninh là nói đến làng nghề sản xuất vàng mã tại xã Song Hồ. Quá
trình sản xuất sản phẩm đ i hỏi sử dụng khối lượng lớn giấy màu, bìa, tre nứa và
phẩm màu đ nhuộm giấy tạo nhiều màu sắc đa dạng cho sản phẩm. Rác thải và
nước thải trong quá trình sản xuất là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nghiêm


trọng, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân, sản xuất nông nghiệp và cảnh quan
khu vực. Kết quả điều tra khảo sát chất lượng môi trường tại một số vị trí trên địa
bàn xã Song Hồ cho thấy các mẫu nước mặt, nước ngầm, nước thải đều có dấu hiệu
ô nhiễm với mức độ khác nhau.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá ản

ƣởng của

oạt động sản xuất vàng mã đến c ất lƣợng môi trƣờng tại huyện T uận
Thành, tỉn Bắc Ninh”.
Mục tiêu ng iên cứu
- Đánh giá được chất lượng môi trường nước mặt, nước dưới đất và thành
phần nước thải tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh.
- Đánh giá được ảnh hưởng của hoạt động sản xuất vàng mã đến môi trường
nước và sức khoẻ người dân tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh.
Nội dung ng iên cứu
- Thu thập thông tin, số liệu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã có về tự
nhiên, kinh tế - xã hội, và hoạt động sản xuất vàng mã tại xã Song Hồ, huyện Thuận
Thành, t nh Bắc Ninh.
- Điều tra, khảo sát hiện trạng môi trường nước, hiện trạng chất thải rắn bằng
phương pháp lập phiếu điều tra. Đối tượng điều tra gồm hộ sản xuất, hộ kinh doanh
vàng mã và cán bộ quản lý. Số lượng phiếu điều tra: 80 phiếu dành cho các hộ gia
đình, 30 phiếu dành cho cán bộ quản lý.

- Đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, nước dưới đất, thành phần nước
thải và chất thải rắn. Số lượng mẫu: 10 - 15 mẫu nước/1 đối tượng.
- Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động sản xuất vàng mã đến môi trường nước
và sức khoẻ người dân tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh.
- Điều tra, đánh giá công tác quản lý môi trường tại khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thi u tác động của hoạt động sản xuất
đến môi trường và nâng cao công tác quản lý môi trường tại làng nghề.

2


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về làng ng ề, p ân loại và lịc sử p át triển làng ng ề
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Theo Tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong “Làng nghề truyền thống Việt Nam” thì
Làng nghề được định nghĩa như sau: Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa
mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, k cương tập
quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề mà
cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần đ phát tri n công ăn việc
làm. Cơ sở vững chắc của làng nghề là sự vừa làm ăn tập th , vừa phát tri n kinh tế,
vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương.
Xét theo góc độ kinh tế, trong cuốn: “Bảo tồn và phát tri n các làng nghề
truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Tiến sĩ Dương Bá
Phượng cho rằng “Làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công
tách hẳn ra khỏi thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các làng nghề
đó chiếm t trọng cao trong tổng giá trị toàn làng”.
Theo Đặng Kim Chi, thuật ngữ “làng nghề” là làng nông thôn ở Việt Nam có
ngành ti u thủ công, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động vào thu nhập so
với nghề nông [3].
1.1.2. Phân loại làng nghề

Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều sản
phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm trao đổi,
góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động dư thừa lúc nông
nhàn. Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát tri n hàng ngàn năm, song song
với quá trình phát tri n KT – XH, văn hóa và nông nghiệp của đất nước. Ví dụ như
làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát tri n, làng nghề gốm Bát
Tràng (Hà Nội) có gần 500 năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Thái Bình)
hay nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng) cũng đã hình thành cách đây
hơn 400 năm… Nếu đi sâu vào tìm hi u nguồn gốc của các sản phẩm từ các làng
nghề đó, có th thấy rằng hầu hết các sản phẩm này ban đầu đều được sản xuất đ
phục vụ sinh hoạt hàng ngày hoặc là công cụ sản xuất nông nghiệp, chủ yếu được

3


làm trong lúc nông nhàn. Kỹ thuật, công nghệ, quy trình sản xuất cơ bản đ làm ra
các sản phẩm này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác [3, 16].
Làng nghề theo cách phân loại về thời gian gồm có: làng nghề truyền thống
và làng nghề mới.
Phân loại dựa vào phương thức sản xuất thì làng nghề được chia làm 5 loại
chính như sau:
- Làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm.
- Làng nghề sản xuất nguyên vật liệu xây dựng và gốm sứ.
- Làng nghề tái chế chất thải.
- Làng nghề dệt nhuộm.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ.
Ngoài ra có th phân loại làng nghề theo các ki u dạng sau [3]:
Phân loại theo quy mô sản xuất, trình độ công nghệ. Chia thành 3 dạng chính:
làng nghề có quy mô lớn, làng nghề có quy mô vừa và làng nghề có quy mô nhỏ.
Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.

Phân loại theo mức độ sử dụng nguyên nhiên liệu.
Phân loại theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát tri n.
1.1.3. Lịch sử phát triển làng nghề
Sự phát tri n của các làng nghề Việt Nam đã trải qua những giai đoạn khác
nhau, gắn với những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Đặc biệt, từ giai đoạn đổi mới
nền kinh tế đến nay, dưới tác động to lớn của sự biến đổi nền kinh tế trong nước
cũng như trên toàn thế giới, sự phát tri n của các làng nghề cũng có những thay đổi
lớn, có những thành công mới nhưng cũng có không ít những vấn đề nan giải.
Xuất hiện từ rất lâu đời (đi n hình như các làng nghề ở Hà Tây (cũ), Hà
Nam, Hưng Yên, Hà Bắc), các làng nghề nông thôn đã có những bước đánh dấu khá
rõ nét trong lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam. Vượt lên các nhu cầu về nông nghiệp,
các sản phẩm như: đồ sành sứ, đồ gốm, vải vóc, đồ ăn, đồ thờ cúng, hàng mỹ nghệ,
giấy vàng mã, giấy dó… đã được chế biến phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày,
phục vụ cho đời sống tâm linh, cho việc học tập, cho đời sống văn hóa và cho cả
xuất khẩu.
Giai đoạn 1986 - 1992: đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát tri n của
làng nghề, nó được đánh dấu bằng sự chuy n đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ

4


chế thị trường. Các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản lý trong
nông nghiệp và phát tri n các thành phần kinh tế đã có tác động mạnh mẽ đến sự
phát tri n kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và với làng nghề nói riêng.
Trong giai đoạn này, nhiều làng nghề truyền thống đã được khôi phục và phát tri n,
mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vốn, kỹ thuật, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh
mới, thu hút ngày càng nhiều lao động, tăng dần sản lượng và kim ngạch xuất
khẩu… Đi n hình như làng gốm Bát Tràng, gốm Đồng Nai, chạm khắc Hà Tây,
thêu ren Thái Bình, giấy Phú Lâm… [3].
Các sản phẩm truyền thống của làng nghề Việt Nam đã được tiêu thụ khá ổn

định ở các thị trường Đông Âu và Liên Xô. Tuy vậy, do biến động của nền kinh tế
thế giới, mà xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình CNXH của Liên Xô và Đông Âu,
sản xuất của các làng nghề bị đình trệ do thị trường tiêu thụ không c n như trước
nữa, số lao động trong các làng nghề giảm nhanh chóng.
Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: do tìm được hướng đi mới cho các sản phẩm
của làng nghề và cho nền kinh tế Việt Nam nói chung mà nền kinh tế Việt Nam
bước sang một giai đoạn mới. Sự hội nhập nền kinh tế thế giới, cùng với thời kỳ dỡ
bỏ sự cấm vận của Mỹ, sự hợp tác kinh tế và thị trường của Việt Nam không ngừng
được mở rộng. Nhiều làng nghề đã khôi phục nhanh chóng, trong đó nhiều làng vẫn
duy trì được cả nghề nghiệp và mặt hàng truyền thống (như làng chạm bạc Đồng
Xâm, làng nghề thêu Quất Động, làng gốm Bát Tràng, giấy Phú Lâm…). Hơn nữa
nhiều làng nghề mới đã được hình thành (làng gỗ Đồng Kỵ, gạch ngói Hương
Canh…).
Hiện nay, Nhà nước có nhiều chính sách nhằm khuyến khích làng nghề phát
tri n, đặc biệt từ khi Hiệp hội làng nghề Việt Nam được thành lập (2005), đã có
nhiều chương trình, chính sách nhằm bảo tồn, thúc đẩy sự phát tri n làng nghề. Tuy
nhiên, nhiều làng nghề có nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái do nhiều nguyên
nhân khác nhau (do bế tắc về thị trường, do bị cạnh tranh, do thiếu vốn đ cải tiến
sản xuất, gây ô nhiễm môi trường…). Đ giải quyết những khó khăn này, cần có cái
nhìn tổng quan về làng nghề và gắn với thực trạng kinh tế xã hội trong nước và thế
giới nói chung.
Sự phát tri n của làng nghề góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá
nông nghiệp nông thôn. Sản xuất công nghiệp tại làng nghề trực tiếp từ các hộ gia
đình. Tính trung bình, hoạt động sản xuất công nghiệp tại các t nh tăng từ 60 đến

5


80%, và tỷ lệ này sẽ ngày càng tăng trong tương lai (Vietnam agricultural science
institute) [3].

1.1.4. Đặc điểm chung của làng nghề Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2.790 làng nghề, thuộc 11 nhóm ngành nghề
khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham gia sản xuất, thu hút hơn 11 triệu lao
động thường xuyên và không thường xuyên, bao gồm việc làm cho cả người già, trẻ
em và người khuyết tật.
Nhiều t nh có số lượng các làng nghề lớn như Hà Tây (cũ) với 280 làng
nghề, Bắc Ninh (62), Hải Dương (65), Hưng Yên (48)… với hàng trăm ngành nghề
khác nhau, phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự phân bố và phát tri n các
làng nghề lại không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề ở miền Bắc phát tri n
hơn ở miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số lượng các làng nghề trong cả
nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh nhất là ở vùng đồng
bằng sông Hồng, miền Nam có khoảng 111 làng nghề, c n lại ở miền Trung hơn
300 làng nghề.
Làng nghề ở Việt Nam hiện nay có một số đặc đi m chính như sau:
Làng nghề nước ta phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp gắn liền với
cơ chế sản xuất mùa vụ, mang đặc trưng của chế độ làng xã, trong đó bao gồm cả
yếu tố d ng họ. Theo Courrier du Vietnam ở nước ta có hơn 2000 làng nghề, miền
Bắc có 1594 làng nghề (79%), miền Trung có 312 làng nghề (15,5%) và miền Nam
có 111 làng nghề (5,5%). Ở miền Bắc các làng nghề lại tập trung hơn ở một số địa
phương thuộc đồng bằng Bắc bộ như Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Nam Định, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam... Thực tế này cho thấy, làng nghề
ở nước ta gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm nghề thủ công
đ giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng nông nghiệp
là mùa vụ. Mặt khác, từ sản phẩm, chúng ta cũng nhận thấy gốc tích nông nghiệp
như nguyên vật liệu, công cụ chế tác, giá trị sử dụng và đặc biệt là nó phản ánh
được tính chuyên dụng và sinh hoạt cộng đồng của cư dân nông nghiệp trên các sản
phẩm đó. Nhìn vào những nghề thủ công nổi tiếng của nước ta như nghề gốm, nghề
đan lát, nghề chạm khắc gỗ, nghề g đúc đồng, nghề làm giấy, nghề làm tranh, nghề
kim hoàn hay làm nón, dệt vải... chúng ta thấy mỗi nghề gắn liền với một cộng đồng
cư dân được cư trú ổn định trong quy mô làng xã. Nét đặc trưng này phản ánh sự

phong phú đa dạng của làng nghề trong hệ thống cấu trúc làng xã Việt Nam. Ví dụ,

6


khi nói đến làng gốm Bát Tràng người ta không ch biết đến sản phẩm gốm mà c n
nhận biết các thông tin về địa lý, nhân văn, lễ hội truyền thống, lịch sử một làng
nghề bên sông Hồng đầy ấn tượng và cả một chút “huyền bí”. Hoặc khi nói đến làng
dệt lụa Vạn Phúc - Hà Đông, người ta không ch biết về "lụa là Hà Đông" mà c n
biết đến những nương dâu hai bờ sông Đáy, biết đến kỹ thuật nuôi tằm ươm tơ và
những bí quyết về kỹ thuật dệt lụa của cư dân làng Vạn Phúc. Tóm lại, đặc đi m
này cho chúng ta nhận dạng các giá trị văn hoá đặc biệt là văn hoá phi vật th từ
nguồn gốc và đặc trưng xã hội nông nghiệp sản xuất mùa vụ, cơ cấu quy mô thông
qua chế độ làng xã Việt Nam [3, 13, 17].
Làng nghề truyền thống Việt Nam c n tồn tại đến ngày nay hầu hết là những
nghề lâu đời ở những làng cổ dựa trên hai yếu tố rất cơ bản là vùng nguyên liệu và
điều kiện giao thông, mà đường thuỷ là chính. Làng gốm Bát Tràng có lịch sử hình
thành đã hơn 6 thế kỷ, làng giấy Yên Thái (Bưởi) đã có cách đây 800 năm, làng kim
hoàn Định Công có cách đây 1400 năm và làng dệt lụa Vạn Phúc thì đã có hơn 1700
năm có lẻ... Theo chúng tôi, điều này phản ánh đúng logic lịch sử vì nó đáp ứng yêu
cầu của sản xuất và nhu cầu của con người. Do ở thời nào con người cũng cần công
cụ lao động, cần ăn, ở, mặc, đi lại và các hoạt động văn hoá khác. Khẳng định tính
truyền thống của nghề thủ công Việt Nam và làng nghề đ khẳng định sự tồn tại của
nó qua các hình thái kinh tế xã hội hay các phương thức sản xuất khác nhau, là rất
cần thiết, đ góp phần khẳng định được các giá trị văn hoá đích thực và ngôi vị lịch
sử cuả nó trong quá trình tồn tại và phát tri n của lịch sử dân tộc. Một khía cạnh
khác của đặc đi m này là làng nghề hoặc các cụm làng nghề ở nước ta được hình
thành hầu hết đều gắn liền với vùng nguyên liệu tại chỗ và thuận lợi với giao thông
đường thuỷ. Ví dụ như gốm Bát Tràng, Hải Dương, Quảng Ninh... nguyên liệu đất
sét trắng ở vùng đó quyết định đặc trưng sản phẩm, tính ổn định và phát tri n của

làng nghề truyền thống đó. Nguồn nguyên liệu của làng giấy Yên Thái là giấy "dó"
được lấy từ vùng núi và trung du phía Bắc theo sông Hồng về đến Bưởi. Làng nghề
chạm khắc gỗ ở Bắc Ninh, Nam Định cũng ở cận kề bến sông thuận lợi cho việc
khai thác chuyên chở vật liệu và sản phẩm nặng. Thiếu hai yếu tố nguyên liệu và
bến sông có th nghề thủ công khó tồn tại và làng đó khó có th trở thành làng
truyền thống. Như vậy những d ng sông như sông Hồng, sông Lô, sông Cầu, sông
Thương, sông Chu, sông Đuống, sông Đáy, sông Thái Bình,... đã tạo ra sự kết nối
giữa các làng nghề ở hai chiều tồn tại là cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản
phẩm, mở rộng thị trường cả nước.

7


Làng nghề Việt Nam không ch phản ánh mối quan hệ giữa "nghề" với
"nghiệp" mà c n chứa đựng những giá trị tinh thần đậm nét, được phản ánh qua các
tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác. Điều đầu tiên phải nói đến đó là
các "quy lệ" của các làng nghề. Quy lệ là các quy ước, luật lệ đ gìn giữ bí quyết
nghề, đ bảo tồn nghề của d ng họ hay của cộng đồng làng xã. Có th nói tất cả các
nghề thủ công đều có bí quyết. Việc giữ "bí quyết nghề" không ch đơn thuần là giữ
nghề mà nó c n chi phối cả các quan hệ xã hội khác như quan hệ hôn nhân, không
lấy người địa phương khác, hoặc việc truyền nghề ch đóng khung trong một số đối
tượng cụ th , như ch truyền cho con trai, hoặc ch truyền cho con trưởng hoặc cháu
đích tôn. Ví dụ như làng chạm bạc Đồng Xâm coi quy chế "hôn nhân nội hạt" là bất
biến. Hay việc phân chia thứ bậc cho nhiệm vụ truyền nghề với hậu thế - ch có ông
trùm (trưởng phường nghề) mới có quyền quyết định việc truyền nghề - và ch
những nghệ nhân (thợ cả) mới có đủ tư cách đ truyền nghề (dưới thợ cả c n 6 bậc
thợ nữa). Người học nghề được gọi là thợ con và phải ứng xử theo đạo "thầy tr ",
rất khuôn phép... Những quy lệ này được hình thành từ những ước lệ đến quy ước
miệng rồi thành văn như hương ước và lệ làng. Điều này đã tạo ra một trật tự trong
làng nghề và những nét văn hoá đặc thù trong các làng nghề Việt Nam. Điều thứ hai

cần đề cập đến trong đặc đi m sinh hoạt văn hoá tinh thần của làng nghề là: hầu như
làng nghề nào cũng có tục thờ cúng tổ nghề và gắn liền với lễ hội cùng với các hoạt
động văn hoá dân gian khác. Ví dụ: thợ kim hoàn ở làng chạm bạc Đồng Xâm (Thái
Bình) thờ tổ nghề Nguyễn Kim Lâu, hàng năm vào ngày 5/1 âm lịch là ngày giỗ tổ
nghề - đúng ngày đó thợ Đồng Xâm dù làm ăn sinh sống ở đâu cũng phải về quê
làm lễ tổ bằng chính sản phẩm độc đáo nhất mà mình làm ra. Tại lễ tổ này có trao
đổi kinh nghiệm, đánh giá kết quả và đặc biệt là xem xét việc giữ gìn những "quy
lệ" của làng nghề, hội nghề. Thưởng cho những ai có công và phạt những người vi
phạm với các hình thức từ khi n trách trước phường hội đến đánh 30 roi trước sân
đình. Những người bỏ bê giỗ tổ nghề thì bị coi là kẻ "phản tổ"... Ở làng Châu Khê
(Hải Dương) một làng kim hoàn nổi tiếng cũng có lệ đối với việc cúng tế tổ nghề
Lưu Xuân Tiến, với một năm có hai dịp tế lễ là Xuân tế từ ngày mùng 1 đến ngày
12 tháng 2 (âm lịch) và Thu tế từ ngày mùng 1 đến ngày 12 tháng tám 8 (âm lịch).
Việc giỗ tổ được tổ chức đồng thời với lễ Thành hoàng làng Châu Khê tại đình làng
và đền thờ tổ nghề ở phố Hàng Bạc (Hà Nội), Đối với giỗ tổ nghề của làng nghề
Châu Khê thì yếu tố trung thực rất được đề cao. Những người làm đồ giả, làm ăn
gian dối, bị trừng trị từ phạt đến khai trừ khỏi phường nghề hoặc đuổi ra khỏi làng.

8


Gắn với nghi thức thờ tổ nghề là phần hội mang màu sắc văn hóa dân gian. Như
vậy, ở làng nghề ngoài yếu tố sản xuất c n mang rất đậm yếu tố văn hoá và phần
nào c n có những yếu tố tâm linh phù hợp. Bởi làng nghề ngoài phạm vi đơn vị sản
xuất và khái niệm đơn vị hành chính c n có đặc trưng riêng biệt là tính cộng đồng
cư trú và cộng đồng lợi ích cao.
1.2. Tìn

ìn p át triển làng ng ề sản xuất vàng mã ở Việt Nam


1.2.1. Nhu cầu của người dân đối với sản phẩm vàng mã
Trong văn bản pháp luật có hai khái niệm đồ mã và vàng mã, đó là hai khái
niệm có nội dung khác nhau. Vàng mã là những đồng tiền, giấy vàng đỏ..., đốt vàng
mã là tín ngưỡng truyền thống có từ lâu đời. Nhưng trong cơ chế thị trường, người
ta sinh ra quan niệm trần sao âm vậy, từ đó mới bắt đầu sản xuất các loại hàng mã
như: nhà tầng, biệt thự, xe máy, ôtô, thậm chí cả... osin giúp việc.
Theo GS Ngô Đức Thịnh, y viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam cho rằng, hiện
nay đang tồn tại 2 quan niệm, đồ mã và đồ vàng mã. Đồ mã là khái niệm ch chung
những đồ làm bằng giấy và có th đốt đi được. Nó liên quan đến quan niệm, muốn
người âm nhận được thì đồ lễ phải được đốt (hóa) sau khi dâng cúng, vì thế, đồ mã
không th làm bằng gỗ hay vật liệu khác. Đồ mã chính là những thứ vật dụng như
nhà, xe, voi, ngựa, đồ đạc, hình nhân... bằng giấy. C n vàng mã là những thỏi vàng,
bạc hay tiền địa phủ (sau này người ta in giống như tiền thật).
Tục đốt vàng mã ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa. Đốt
vàng mã được du nhập, dần trở thành tập tục, thói quen và đạt tới đ nh cao tín ngưỡng
dân gian của người Việt. Nhiều nhà nghiên cứu đều đưa ra ý kiến rằng “Quan niệm của
người dân Việt thì việc bài trí, làm đẹp bàn thờ được đồng nhất với sự tôn sùng các vị
thần linh. Trong kết cấu kiến trúc đền thờ và ngôi nhà cổ truyền của dân tộc Việt, mái
nhà thấp, cửa nhà chủ yếu ở phía trước nên l ng nhà tối… Vì thế những màu sắc sặc sỡ
gắn với nơi ngự của các vị thần linh và tổ tiên không ch đ bi u hiện tính hướng tâm
mà thực chất như c n làm ấm cho căn nhà, ít nhất là về mặt tinh thần. Đồ mã dễ làm và
đáp ứng được yêu cầu đó nên người Việt rất sùng chuông”. Do vậy, trong các ngày lễ,
tết, các ngày mồng 1, ngày rằm hàng tháng, ngày giỗ tổ tiên, ông bà, ngày bốc mộ xây
lăng, hay chuy n đến nhà mới…mọi người đều sắm ít đinh tiền, vàng đ làm lễ rồi đốt
theo ý nghĩa tượng trưng. Việc làm đó được xem như là bi u hiện sự thành kính, gửi
gắm niềm tin, chăm lo của người đang sống đối với những người đã khuất, mong sao

9



những người ở thế giới bên kia có một cuộc sống đầy đủ và luôn phù hộ cho những
người đang sống có cuộc sống an bình.
Những năm gần đây cùng với quá trình chuy n đổi nền kinh tế thì trong tín
ngưỡng văn hoá cũng đã nảy sinh ra nhiều yếu tố vượt qua giới hạn của văn hoá
tinh thần đã làm ảnh hưởng tới đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Với lập luận
“trần sao âm vậy” người sống sợ người chết thiếu thốn mà đua nhau sắm nhiều các
loại đồ mã đ gửi sang thế giới bên kia và quan niệm càng mua nhiều loại đồ mã,
đốt đồ mã càng đắt tiền thì càng đạt nhiều tài, nhiều lộc. Chính đó đã đẩy nhanh
hiện tượng “thánh một cân, trần một yến” khiến cho đồ mã “lên ngôi” trong sự tiêu
cực của xã hội.
Đốt vàng mã không ch c n nằm trong phạm vi nghi lễ tại gia đình, tế lễ ở
chùa, đền mà đã vựợt ra khỏi khuôn khổ đó. Hàng mã được sử dụng ngày càng
nhiều, hàng mã được bán nhiều nơi và trở thành một mặt hàng có tính thương mại.
Nó không ch là vài đinh tiền vàng, mà đã có nhiều loại hình như: nhà lầu, xe hơi, ti
vi, xe máy, vi tính và những đồ dùng cao cấp mang tính thời thượng... Có một điều
mà bất cứ ai cũng rõ việc mua hàng mã đều phụ thuộc hoàn toàn vào người bán và
người chủ trì làm lễ (thầy cúng), họ bảo mua thứ hàng nào thì chủ nhân ch việc
mua, người mua không mặc cả, nếu mặc cả thì thiếu l ng thành và sẽ bị người thuộc
thế giới bên kia oán trách. Việc đốt hàng mã c n tạo nên nhiều điều ảo tưởng, sự
mơ hồ về những niềm tin không giới hạn…
Hiện nay, trong đời sống tín ngưỡng văn hoá của người dân tục đốt vàng mã
đang có xu hướng phát tri n và ngày càng chiếm ưu thế, cũng không ít người cho
rằng đồ mã đã đến thời thịnh vượng, tục đốt vàng mã đang trở thành một nhu cầu
không th thiếu trong đời sống tâm linh. Chính vì vậy nhu cầu sử dụng vàng mã trên
cả nước ngày càng tăng, nhu cầu đốt vàng mã ngày càng nhiều đặc biệt là vào các
ngày lễ tết, ngày giỗ…
Không biết từ bao giờ, vàng mã đã trở thành một phần không th thiếu trong
đời sống cúng kỵ của mọi gia đình mà không ít các phật tử khi tới chùa vẫn có thói
quen rải và đốt vàng mã thật nhiều đ gặp may mắn, cầu an. Chính vì vậy việc hóa

vàng mã càng trở nên linh thiêng và cần thiết. Trước đây, người ta ch đốt vàng mã
vào ngày rằm, ngày giỗ. Bây giờ, người ta đốt hầu như quanh năm, đặc biệt là hai
đợt tháng 7 âm lịch - mùa Vu Lan và dịp Tết Nguyên đán. Nhiều người không ch
đốt vàng mã ở nhà, mà c n đốt cả ở những nơi vốn là di tích như chùa, đền, miếu,

10


phủ...
Ngay tại thắng cảnh chùa Hương, người ta đã xây hai l đốt vàng mã cực
lớn, đặt tại chùa Thiên Trù, động Hương Tích. Mặc dù hoạt động liên tục, đốt suốt
ngày đêm hai l này vẫn không đáp ứng kịp nhu cầu của người hành hương khi mùa
hội đến [1, 14] .
1.2.2. Tình hình phát triển nghề làm vàng mã trên cả nước
Hơn 10 năm nay, tục lệ đốt vàng mã đã và đang phát tri n mạnh, phạm vi
ngày càng lan rộng. Nhiều người c n coi đó là một nghi thức không th thiếu trong
mỗi dịp Tết đến xuân về. Ở nước ta hiện nay, tục lệ đốt vàng mã đã và đang phát
tri n mạnh, không c n ở trong phạm vi cúng giỗ ở gia đình và chùa đền mà c n lan
sang các cơ quan công quyền quốc doanh, trở thành một nghi thức không th thiếu
của các công ty xây dựng cầu đường và các công trình thủy điện, trong các buổi lễ
động thổ, khởi công các công trình do nhà nước giao phó. Do vậy, nhu cầu sử dụng
vàng mã của người dân ngày càng cao, kèm theo đó các loại mặt hàng cũng ngày
càng đa dạng chủng loại, mua bán tấp nập là không khí chung tại các cửa hàng
nhang đèn, vàng mã được bầy bán ở các cửa hàng, dọc các tuyến đường. Hàng mã,
đồ cúng liên tục được đóng trong những kiện lớn đ chuy n về các cửa hàng tại các
quận, huyện của thành phố và các t nh. Các mặt hàng có đến cả trăm loại khác nhau.
Ch riêng tiền, vàng đã có vài chục loại: tiền đồng, đô la, euro, vàng thỏi, vàng
miếng, vàng khoen, vàng trang sức… Sống động, ấn tượng và “cập nhật thời sự”
nhất là các loại xe, nhà, quần áo và vật dụng cá nhân. Thị trường có loại xe gì, hàng
mã đều có đủ, từ SH, Dylan, Vespa, Air Blade, đến xe hơi Innova, Mercedes…; nhà

thì từ nhà trệt đến nhà phố, biệt thự có sân vườn, hồ bơi, nhà đ xe hơi… góp phần
làm cho ngành sản xuất hàng mã ngày càng phát tri n cả về quy mô và công xuất.
Theo Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở Hà Nội, những nơi sản xuất vàng mã
lớn như làng Cót, Nhân H a (Từ Liêm - Hà Nội) và làng Hồ (Thuận Thành - Bắc
Ninh) mỗi ngày tiêu thụ từ 2 – 3 tấn giấy. Trong một năm, cả nước có khoảng
50.000 tấn vàng mã được sử dụng, riêng Hà Nội, tiêu thụ trên 400 t đồng cho việc
đốt tiền, vàng mã [17].
* Thành phố Hà Nội
Tại thành phố Hà Nội, trung tâm thủ đô của cả nước nhưng vấn đề tâm linh,
linh thiêng vẫn được coi trọng và gìn giữ từ bao đời nay, có nguyên cả phố Hàng
Mã chuyên bày bán các mặt hàng dành cho người cõi âm. Hoặc, ghé thăm hai làng

11


làm vàng mã nổi tiếng Phúc Am, Duyên Trường (xã Duyên Thái, huyện Thường
Tín, TP Hà Nội), chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những bộ khung hình voi, hình
ngựa... được xếp dàn hàng trên đường lớn từ đầu làng tới cuối làng, trong các ngõ
nhỏ, trong sân nhà, trong xưởng đ chờ được gia công, hoàn thiện. Theo lời một
người dân nơi đây, trước kia, người dân Phúc Am chủ yếu làm sơn mài, cuốn thuốc
lá, đan rổ rá, ch có vài cụ già làm vàng mã như nghề tay trái và chủ yếu là cuốn các
thỏi vàng thoi. Song, khoảng 20 năm trở lại đây, do nhu cầu của người dân chuy n
sang dùng rổ nhựa khiến nghề đan rổ không c n đất phát tri n, kết hợp với tình
trạng đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, người dân mất ruộng nên đổ dồn sang làm vàng
mã. Vài nhà làm thấy có lợi nên mọi người truyền tai nhau, dần dần, nghề vàng mã
lan rộng ra cả làng, và thực sự phát tri n mạnh mẽ khoảng 6, 7 năm trở lại đây.
Hiện cả làng có 250 hộ dân với hơn 1.000 nhân khẩu, trong đó ch có khoảng
20 chủ cơ sở. C n lại, đa phần người dân trong làng mỗi người nhận thực hiện một
công đoạn khác nhau như người nhận làm khung, người dán hoa văn. Đồng thời,
hàng c n được chuy n đi nhiều t nh như Bắc Ninh, Nam Định, Quảng Ninh…

Quả thực, nghề làm vàng mã đã giúp người dân nơi đây có nguồn thu ổn
định, khắp làng, san sát những ngôi nhà xây khá khang trang, có cả những ngôi nhà
cao tầng, to đẹp mà chủ nhân của nó đã có thâm niên hơn chục năm theo nghề vàng
mã.
* Tỉnh Quảng Ninh
Trên địa bàn t nh Quảng Ninh có Công ty TNHH MTV sản xuất gia công
vàng mã xuất khẩu. Nghề gia công vàng mã không đ i hỏi lao động có tay nghề
cao. Do đó, từ khi đi vào hoạt động, xưởng gia công đã tạo việc làm cho trên 80 lao
động trên địa bàn huyện. Trung bình một tháng, xưởng gia công vàng mã của Công
ty xuất đi từ 180 đến 200 tấn vàng mã sang thị trường Đài Loan. Về lâu dài, doanh
nghiệp này đang hướng phát tri n và chuy n dần sang gia công vàng mã xuất khẩu,
nhằm hướng đến sản xuất thân thiện với môi trường, đồng thời tạo việc làm cho
hàng trăm lao động nông thôn tại địa phương [16].
* Thành phố Huế
Hiện nay có 226 cơ sở sản xuất và kinh doanh vàng mã, thu hút khoảng 356
lao động, doanh thu hằng năm ước tính khoảng 50 - 60 t đồng. Trong khi đó, khảo
sát của Phân viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam (tại Huế) ở 4 cơ sở chuyên sản xuất
mặt hàng giấy cúng phục vụ cho việc làm vàng mã, trung bình mỗi tháng một cơ sở

12


sản xuất 2,5 tấn giấy, nhưng nhiều thời đi m không đủ hàng cung cấp. Theo đánh
giá của viện này, việc sản xuất và kinh doanh vàng mã đã dần được mặc nhiên
ngầm thừa nhận là một ngành nghề thủ công tại Huế, đưa đến lợi nhuận không hề
nhỏ. Trên thị trường vàng mã xứ Huế, trung bình một bộ vàng mã (áo quần, tiền
vàng, giày dép, nón mũ, sớ…) có giá 40 ngàn đồng. Một ngày trung bình người thợ
làm được khoảng 5 bộ, nguồn nguyên liệu được nhập về từ các đại lý với giá cả vừa
phải, cộng thêm việc cúng đơm ở Huế diễn ra thường xuyên (ngày rằm, ngày 30
hàng tháng) và quanh năm nên đây được xem là nghề đem lại thu nhập ổn định,

thậm chí làm giàu cho người thợ.
Hiện nay, trên khắp các ngả đường Lương Văn Can, Chi Lăng, Nhật Lệ,
Nguyễn Sinh Cung, Đặng Văn Ngữ… của thành phố Huế hàng ngày vẫn có rất
nhiều các cửa hàng bán vàng mã với đa dạng các hình dáng, chủng loại. Ngoài
những đồ vàng mã “truyền thống” c n có rất nhiều loại như ô tô, xe máy, nhà lầu...
Mặc dù những loại này chưa nhiều nhưng đây cũng là một bi u hiện cho sự “thực
dụng hóa” trong nét đẹp văn hóa dân gian và đang có dấu hiệu phát tri n [16].
* Thành phố Hồ Chí Minh
Tại thành phố Hồ Chí Minh nghề làm vàng mã cũng phát tri n mạnh mẽ
không kém so với các t nh ngoài miền Bắc. Các mặt hàng sản phẩm đa dạng chủng
loại, mua bán tấp nập vàng mã trên các tuyến đường Chu Văn An, Phan Văn
Khỏe… khu vực chợ s Bình Tây (Q.6, TP.HCM). Vàng mã, đồ cúng liên tục được
đóng trong những kiện lớn đ chuy n về các cửa hàng tại các quận, huyện của thành
phố và các t nh. Các mặt hàng có đến cả trăm loại khác nhau. Ch riêng tiền, vàng
đã có vài chục loại, thị trường có loại xe gì, hàng mã đều có đủ, k cả những vật
dụng như ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy lạnh, bàn ghế, giường tủ, bếp núc, người hầu,
tài xế. Thời trang, thiết bị điện tử cho người cõi âm cũng đa dạng ki u dáng: quần
áo, giày dép, nước hoa, trang sức, son phấn, thẻ thanh toán các loại, điện thoại, máy
tính đời mới [16].
1.2.3. Tình hình phát triển nghề làm vàng mã tại Bắc Ninh
Bắc Ninh là một trong những t nh có nhiều làng nghề nhất ở nước ta. Hiện
nay toàn t nh có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề truyền thống và 32 làng
nghề mới với những sản phẩm nổi tiếng như sắt thép (Đa Hội, Châu Khê, Từ Sơn),
giấy (Phong Khê, Phú Lâm), nấu rượu (Đại Lâm, Tam Đa), đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng
Kỵ)...

13


Hàng năm, các làng nghề đã đóng góp ngân sách nhà nước, tạo việc làm tại

chỗ cho gần 35 nghìn lao động và thu hút hàng nghìn lao động nông thôn các vùng
phụ cận. Cơ chế thị trường đã khôi phục các làng nghề cũ, xây dựng các làng nghề
mới, hình thành các cụm công nghiệp theo ngành hàng xuất phát từ nhu cầu cuộc
sống; là mục tiêu, động lực thúc đẩy quá trình chuy n dịch cơ cấu kinh tế, lao động
trong nông nghiệp, phù hợp với chủ trương của Đảng và Chính phủ về công cuộc
CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Làng nghề ở Bắc Ninh tập trung dọc theo đường giao thông chính và theo
các cụm dân cư tập trung, có th được phân loại theo dạng sản phẩm như sau [3]:
Bảng 1.1. Phân loại làng nghề theo sản phẩm ở Bắc Ninh
STT
1
2

Ngàn sản xuất
Ươm tơ, dệt vải, đồ da
Chế biến nông sản, thực phẩm,
dược liệu

Số lƣợng (làng)

Tỉ lệ (%)

5

8,5

15

25,4


3

Tái chế phế liệu

9

15,3

4

Thủ công mỹ nghệ, thêu ren

9

15,3

5

Vật liệu xây dựng, khai thác đá

2

3,3

6

Các nghề khác

19


32,2

59

100

Tổng cộng

(Nguồn: Đặng Kim Chi, Làng nghề Việt Nam và Môi trường)
Làng nghề Bắc Ninh đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế địa
phương những năm qua. Tính từ năm 1997 đến nay giá trị sản xuất của khu vực
làng nghề ti u thủ công nghiệp chiếm 75 - 80% giá trị sản xuất công nghiệp ngoài
quốc doanh và trên 30% giá trị sản xuất công nghiệp của t nh, cải thiện đời sống
nhân dân, nhiều hộ giàu có nhờ phát tri n nghề truyền thống.
Trong nhiều ngành nghề truyền thống của t nh Bắc Ninh thì nghề làm tranh
Đông Hồ ngày nay đã bị mai một và được thay thế bằng nghề làm vàng mã tại xã
Song Hồ đang phát tri n mạnh mẽ và hàng năm sản xuất với một khối lượng lớn với
nhiều sản phẩm vàng mã đa dạng về chủng loại, mẫu mã khác nhau. Nghề vàng mã
ở xã Song Hồ tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở nông

14


thôn. Phần lớn, vàng mã không những phục vụ nhu cầu sử dụng trong t nh mà c n
được vận chuy n đi các t nh lân cận như Hà Nội, Hải Dương, Bắc Giang... Nghề
làm vàng mã này càng có xu hướng phát tri n do nhu cầu của người tiêu thụ ngày
càng lớn. Đặc biệt vào những ngày giáp tết và đầu năm việc sản xuất vàng mã càng
tấp nập đ phục vụ cho những ngày cuối năm.
Ngày nay, nghề làm vàng mã ở t nh Bắc Ninh không ch phát tri n ở xã Song
Hồ mà c n lan sang một số xã lân cận, tạo công ăn việc làm cho những người già,

trẻ em và một số lao động nhàn rỗi. Giấy đ làm vàng mã được sản xuất chủ yếu tại
Đông Cao, huyện Yên Phong, t nh Bắc Ninh là nơi cung cấp nguyên liệu cho các cơ
sở sản xuất vàng mã.
Nổi tiếng nhất phải nhắc đến làng Đông Hồ. Trước đây, làng nổi tiếng với
nghề làm tranh dân gian, nhưng khoảng hơn 10 năm trở lại đây làng Đông Hồ được
biết tới như “đại công xưởng” sản xuất đồ vàng mã lớn nhất cả nước.
Thời gian tiêu thụ vãng mã nhiều nhất là ngày rằm tháng 7, nhu cầu về đồ
vàng mã của người dân càng nhiều. Tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, t nh Bắc
Ninh - nơi được coi là "kinh đô vàng mã" những ngày này, không khí mua bán trở
nên tấp nập hơn bao giờ hết.
Tháng bảy âm lịch được người Việt Nam gọi bằng những tên khác nhau như
tháng báo hiếu, tháng phóng sinh, tháng cô hồn…. Những ngày này, không khí
chuẩn bị hàng hóa cho dịp rằm tháng bảy đã bắt đầu nhộn nhịp.
Không ch sản xuất đồ mã phục vụ cho các t nh trong nước, đồ mã của xã
Song Hồ c n được xuất sang các nước khác như Trung Quốc, Lào… [16, 17].
1.3. Điều kiện tự n iên, kin tế - xã ội xã Song Hồ, uyện T uận T àn , tỉn
Bắc Nin
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Xã Song Hồ nằm gần trung tâm của huyện Thuận Thành, t nh Bắc Ninh; có
diện tích tự nhiên là 370,72 ha. Cách Hà Nội 25km về phía Tây. Vị trí địa lý như
sau:
- Phía Bắc giáp xã Tân Chi, huyện Tiên Du.
- Phía Nam giáp xã Gia Đông.
- Phía Đông giáp thị trấn Hồ.
- Phía Tây giáp xã Đại Đồng Thành.

15



×