Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

skkn một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn hóa học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.36 KB, 30 trang )

“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: Giáo
dục quốc dân nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ
nghĩa của thế hệ trẻ. Trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo phải tuân theo nguyên lý:
Học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất, lí luận phải gắn liền với
thực tiễn, giáo dục nhà trường phải kết hợp với giáo dục xã hội.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì môn Hóa học là bộ môn khoa học thực
nghiệm chuyên nghiên cứu các chất, sự biến đổi và ứng dụng của chúng.
Qua thực tế giảng dạy bộ môn Hóa học cấp trung học cơ sở tôi nhận thấy phần lớn
học sinh đều cho rằng các bộ môn thuộc khoa học tự nhiên trong đó có bộ môn Hóa học
thường khô khan, khó hiểu. Điều này đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao
chất lượng dạy và học bộ môn. Một thực trạng thường thấy ở học sinh, đặc biệt là những
học sinh có học lực từ trung bình trở xuống thường rất khó tập trung trong giờ học bộ
môn. Vấn đề đặt ra là bản thân mỗi giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tìm tòi các
phương pháp, cách thức để có thể khơi dậy sự hứng thú cũng như sự nhiệt tình học tập
của học sinh, nếu không sẽ dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán, khó thành công.
Những tình huống diễn ra trong thực tiễn là những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
hằng ngày của con người, rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta cũng như đối với các
em học sinh. Việc sử dụng các tình huống thực tế, những bài thơ, những câu chuyện hay
những thí nghiệm vui về hóa học... sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, sự thích
thú, muốn khám phá ra những kiến thức để lí giải những vấn đề đó. Từ đó yêu thích môn
học hơn, chất lượng bộ môn được nâng cao hơn.
Trong đề tài này đối tượng nghiên cứu là một số kinh nghiệm trong công tác giảng
dạy nhằm gây hứng thú học tập ở môn Hóa học 9.
Phạm vi nghiên cứu học sinh khối 9 từ năm học 2017 – 2018 đến nay ở trường
THCS Nguyễn Trãi - Huyện Krông Ana - Tỉnh Đăk Lăk.
Từ những lí do trên cùng với những kinh nghiệm có được qua nhiều năm giảng dạy
tại trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô, đồng
nghiệp ...tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân tích lũy được trong quá


trình giảng dạy và tôi chọn đề tài ‘‘ Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm
gây hứng thú học tập môn hóa học 9’’ rất mong được sự đóng góp của các thầy cô, bạn
bè đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tế giảng dạy từ đó tìm ra những giải pháp
hợp lí tạo hứng thú học tập đối với bộ môn giúp học sinh có tư duy tốt, có khả năng học
tập linh hoạt, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng học
tập của học sinh.
Tìm tòi, nghiên cứu từ những nguồn tư liệu để đưa ra một số bài thơ, một số câu
chuyện,các hiện tượng thực tế trong đời sống, tiến hành một số thí nghiệm vui liên quan
đến kiến thức bài học, tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm gây hứng thú học tập cho học
sinh từ đó vận dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 1

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Đề ra những giải pháp cần thiết, hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao
chất lượng học tập đối với bộ môn Hóa học 9.
II. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Tại kỳ họp khóa XI Đảng ta đã xác định mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong luật giáo dục do Quốc hội khóa XI ban hành đã chỉ rõ: “Hoạt động giáo dục
phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động

sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình
và giáo dục xã hội; phương pháp giáo dục phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, kỹ năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên…”
Như chúng ta đã biết hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân.
Hứng thú có tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị,
có sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của các
em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người giáo viên đã sống cùng với đời sống tinh
thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp với những mong
muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tất nhiên là phải tích cực, chính đáng) của học
sinh. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức được lợi
ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được trình bày một cách
tường minh ngay trong tài liệu học tập hoặc có thể trình bày thông qua các tình huống
dạy học cụ thể. Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi
ích của một nội dung nào đó. Các hiện tượng thường xuyên diễn ra trong đời sống hàng
ngày, nhiều khi các em nhìn thấy nhưng không thể giải thích được các hiện tượng đó.
Chúng ta hãy tạo cho các em các tình huống vấn đề liên quan thực tế cuộc sống trong bài
dạy để các em thấy được môn Hóa học rất gần gũi với các em. Ví dụ như: “Vì sao khi
cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi?” hoặc “Vì sao nước mắt
lại mặn?”…Nói như vậy tức là chúng ta bằng nhiều cách khác nhau phải cho học sinh
thấy rằng môn hóa không khô khan, cứng nhắc như các em nghĩ.
Theo công văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm học
2016-2017 của phòng giáo dục huyện Krông Ana đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương
pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp
tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh của học sinh theo tinh thần của công
văn 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 về áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
và các phương pháp dạy học tích cực khác. Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết
vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng
dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt
một chiều, ghi nhớ máy móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, phương pháp tự học; bảo

đảm cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi
cho học sinh … ”.
Giáo viên bộ môn có vai trò rất quan trọng trong hệ thống giáo dục. Ngoài việc
trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học về bộ môn mình phụ trách còn có vai trò
quan trọng trong việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành, các cách vận dụng
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 2

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
những kiến thức của bộ môn vào thực tiễn cuộc sống….Để làm tốt được những vai trò
này, mỗi giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy
tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, từ đó tạo được hứng thú học tập bộ môn
giúp học sinh có khả năng tư duy, khả năng học tập linh hoạt, biết vận dụng kiến thức bộ
môn vào thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy tại trường bản thân tôi nhận thấy rằng trong mỗi tiết học
mà giáo viên chỉ tiến hành theo những phương pháp thông thường là tổ chức các hoạt
động dạy học theo như các trình tự trong sách giáo khoa và cung cấp cho các em các nội
dung kiến thức trong đó thì tiết học sẽ trở nên khô khan, không tạo được tâm thế học tập
tốt cho các em, không gây được hứng thú học tập của học sinh, các em tiếp thu bài một
cách thụ động, điều này dẫn đến học sinh học mang tính chất học vẹt, không nắm được
kiến thức trọng tâm, khả năng tổng hợp cũng như vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn
hạn chế đã dẫn đến kết quả học tập bộ môn còn thấp. Chính vì vậy tôi đã tìm tòi, sưu tầm
những tình huống thực tế, các bài thơ, một số câu chuyện vui, thí nghiệm vui… liên quan
đến kiến thức bộ môn để áp dụng ở một số tiết dạy và đã kích thích được hứng thú học
tập của các em học sinh, làm nảy sinh trong các em suy nghĩ muốn khám phá ra những
kiến thức và có thể áp dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề trong

thực tiễn, từ đó các em cảm thấy môn Hóa học trở nên gần gũi hơn, các em yêu thích
môn học hơn và chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.
2. Thực trạng
Phương pháp dạy học truyền thống là phương pháp dạy học mà nhiều giáo viên
thường sử dụng trong những năm qua. Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt động của giáo
viên trong đó: giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học cũng như cung cấp các nội dung
kiến thức như trình tự có trong sách giáo khoa. Phương pháp này có ưu điểm là học sinh
nắm được nội dung kiến thức của bài, ngay trong tiết học học sinh có thể trả lời được
những câu hỏi liên quan có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi dạy học theo phương
pháp này vẫn còn nhiều hạn chế như: Học sinh học bài còn mang tính chất học vẹt, các
em tiếp thu bài một cách thụ động nên không nắm được nội dung kiến thức trọng tâm dẫn
đến rất nhanh quên, bên cạnh đó khả năng tư duy còn hạn chế, khả năng vận dụng các
kiến thức bộ môn vào thực tiễn còn kém, điều này thể hiện qua kết quả ở các bài kiểm tra
của các em còn thấp, khi gặp các vấn đề thực tiễn có liên quan đến kiến thức của môn
học các em còn lúng túng hoặc không giải đáp được.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em học sinh có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí,
các em rất tò mò, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong
cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên ít chú trọng đến
việc đưa các vấn đề thực tế vào trong giảng dạy. Điều này đã làm cho các em cảm thấy
các kiến thức của môn học trở nên khô khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú hơn đối
với môn học. Mặt khác, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin các em học sinh
có rất nhiều các sân chơi khác như: Facebook, Zalo, Zing Me, Game online…điều này đã
gây nên ảnh hưởng rất lớn đến các em, sự tập trung cũng như sự hứng thú học tập của các
em ngày càng bị giảm sút, các em học tập rất thụ động, không nắm được kiến thức trọng
tâm. Vì vậy, chất lượng học tập bộ môn vẫn còn thấp.
Kinh tế của nhiều gia đình học sinh còn rất khó khăn nên nhiều phụ huynh ít quan
tâm đến việc học tập của con em mình, bên cạnh đó khi đến lớp các em không nắm được

Người viết: Hoàng Thị Năm


Trang 3

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
kiến thức của bài nên sinh ra tâm lí chán nản, không thích đi học. Điều này dẫn đến nhiều
em vẫn còn hay vắng học, chất lượng bộ môn còn thấp.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Hoá học lớp 9 trường THCS Nguyễn
Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau:
Năm học
2017 – 2018

LỚP

Tổng số

Giỏi

Khá

Trung
bình

9A3

26

0


6

8

10

2

9A4

25

0

2

9

12

2

9A5

23

1

5


8

7

2

9A6

36

3

10

15

6

2

Tổng cộng

110

6

23

40


35

8

3,6%

20,9%

36,4%

31,8%

7,3%

Tỉ lệ

2018 – 2019

Yếu

Kém

9A3

30

1

6


9

12

2

9A4

28

1

5

11

10

1

9A5

31

3

10

10


7

1

9A6

35

6

11

10

6

2

Tổng cộng

124

11

32

40

35


6

8,9%

25,8%

32,3%

28,2%

4,8%

Tỉ lệ

Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối với bộ
môn Hóa học vẫn còn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017- 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 60,9%, còn
lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018- 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 67%, còn
lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển được tư duy,
tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh việc thực hiện tốt việc
dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng học hỏi, tìm tòi sử dụng nhiều
phương pháp dạy học khác nhau trong đó thường xuyên liên hệ thực tế trong các bài dạy,
sử dụng thí nghiệm vui và lồng ghép vào đó một số bài thơ, câu chuyệnliên quan đến hóa
học. Đối với cách làm này tôi nhận thấy sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, các
em chủ động trong việc lĩnh hội tìm ra kiến thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập
của các em, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. Ngoài ra, thông qua đó giáo viên
còn có thể lồng ghép được các nội dung khác nhau chẳng hạn như: Giáo dục ý thức bảo
Người viết: Hoàng Thị Năm


Trang 4

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
vệ môi trường, biết chăm sóc, bảo vệ sức khỏe con người và giáo dục đạo đức lối sống
cho các em học sinh.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
Trước những thực trạng trên, bản thân tôi đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp đã rút ra
được từ nhiều năm giảng dạy tại trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi. Nhằm mục đích
trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để cùng nhau tháo gỡ những mặt còn
hạn chế của công tác giảng dạy bộ môn Hóa học nói chung và bộ môn Hóa học 9 nói
riêng trong trường học. Từng bước đưa chất lượng bộ môn ngày càng đi lên, góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục.
Trong quá trình giảng dạy môn Hóa học 9 ở trường THCS Nguyễn Trãi tôi đã tìm
tòi, sưu tầm và đúc kết được một kinh nghiệm và đã sử dụng trong giảng dạy trong môn
Hóa học 9 và bước đầu đã mang lại hiệu quả. Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao
đổi với bạn bè đồng nghiệp.
Giải pháp 1: Sử dụng các tình huống thực tế trong giảng dạy:
Chúng ta luôn thích tìm hiểu những điều mới lạ vì nó đem lại cho chúng ta những
thông tin bổ ích, thú vị, biết thêm những thông tin mới lạ của thế giới xung quanh là nhu
cầu không thể thiếu giúp chúng ta tồn tại và phát triển. Khi được cung cấp những thông
tin thực tế, các em học sinh sẽ quan tâm và hứng thú tìm hiểu sự việc đó. Việc giáo viên
khai thác, cung cấp những kiến thức mới lạ về hóa học sẽ giúp các em hiểu rõ tầm quan
trọng của hóa học đối với đời sống và sản xuất.
Khi dạy bài 2: Một số Oxit quan trọng
Giáo viên đặt câu hỏi khi vào bài nhằm kích thích tính tò mò của học sinh như: Tại
sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi như bị sôi lên và

nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người và động vật. Ta
cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2 ngày ?
Sau khi học xong phần Canxi oxit giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi trên và bổ
sung.
Giải thích:
Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
CaO + H2O Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả
những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt
độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh rơi xuống hố
vôi tôi gây nguy hiểm đến tính mạng.
Khi học xong phần lưu huỳnh đioxit giáo viên đặt câu hỏi: Theo em “hiện tượng
mưa axit” là gì? Tác hại như thế nào?
Học sinh thảo luận theo nhóm và trả lời, sau đó giáo viên nhận xét và bổ sung.
Giải thích:
Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy…) có chứa
các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 5

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric
H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3

Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm ở một số nơi trên thế giới nhưở các khu vực
công nghiệp châu Âu hay ở Bắc Mỹ. Mưa axit làm hư hỏng các tượng đài làm từ đá cẩm
thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những hậu quả
nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi
trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề
này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa
axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
Khi dạy bài 4: Một số Axit quan trọng
Khi học xong phần ứng dụng giáo viên đặt câu hỏi: Em có biết Axit clohiđric có
vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Học sinh thảo luận theo nhóm và trả lời. Sau đó giáo viên nhận xét và bổ sung.
Giải thích:
Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể.
Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng 0,0001 đến
0,001 mol/l (có độ pH tương ứng với là 4 và 3). Ngoài việc hòa tan các muối khó tan, nó
còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit (chất đường, bột) và chất
protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể hấp thụ được.
Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình thường đều gây bệnh
cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit nhỏ hơn 0,0001 mol/l (pH>4,5) người
ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ axit lớn hơn 0,001 mol/l (pH<3,5) người ta mắc
bệnh ợ chua. Một số thuốc chữa đau dạ dày chứa muối hiđrocacbonat NaHCO 3 (còn gọi
là thuốc muối) có tác dụng trung hòa bớt lượng axit trong dạ dày.
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Khi dạy bài 7: Tính chất hóa học của Bazơ
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi mở rộng nâng cao kiến thức cho học
sinh: Em có biết vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?

Giải thích:
Do trong nọc của ong, kiến, và một số con khác có axit hữu cơ tên là axit fomic
(HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.

Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 6

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Học sinh khá thích thú với những kiến thức mà các em được lĩnh hội, các em có thể
ứng dụng kiến thức này vào thực tế.
Khi dạy bài 9: Tính chất hóa học của muối
Sau khi học xong bài 9: Giáo viên đặt ra một câu hỏi liên quan đến thực tế mà các
gia đình nông thôn gặp rất nhiều: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày
thấy xuất hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào?
Giải thích:
Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời – là nước có chứa các
muối axit như: Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2.
Khi nấu nước lâu ngày thấy xảy ra phương trình hóa học:
Ca(HCO3)2 CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn. Để tẩy lớp cặn này
thì dùng giấm (dung dịch CH 3COOH 5%) cho vào ấm đun sôi để nguội khoảng một đêm
rồi rửa sạch.
Mục đích của câu hỏi này là cung cấp cho học sinh một số vấn đề có trong đời sống
từ đó có thể giải thích được bản chất vấn đề nhằm kích thích sự hưng phấn trong học tập.
Đây là hiện tượng mà học sinh có thể quan sát và thực hiện được dễ dàng.

Khi dạy bài 10: Một số muối quan trọng.
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao nước mắt lại mặn ?
Học sinh khá hứng thú và tò mò với câu hỏi trên.
Giải thích:
Nước mắt mặn vì trong nước mắt có tới 6 gam muối. Nước mắt sinh ra từ tuyến lệ
nằm phía trên mi ngoài của nhãn cầu. Nước mắt có tác dụng bôi trơn nhãn cầu làm cho
nhãn cầu không bị khô, bị xước và vì có muối nên còn có tác dụng hạn chế bớt sự phát
triển của vi khuẩn trong mắt.
Khi dạy bài 16: Tính chất hóa học của kim loại
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió”
khi bị bệnh cảm ?
Giải thích:
Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H 2S tương đối
cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để đánh gió thì Ag sẽ
tác dụng với khí H2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag
sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:
4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O
(đen)
Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến tận bây giờ
để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọi người cần phải biết.
Khi dạy bài 25: Tính chất của phi kim.
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 7

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Các em có biết hiện tượng“Ma trơi” là

gì ? Ma trơi thường xuất hiện ở đâu ?
Giải thích: Trong xương của động vật luôn có chứa một hàm lượng photpho. Khi cơ
thể động vật chết đi, nó sẽ phân hủy một phần thành photphin PH 3 và lẫn một ít điphotphin
P2H4. Photphin không tự bốc cháy ở nhiệt độ thường. Khi đun nóng đến 150 oC thì nó mới
cháy được. Còn điphotphin P2H4 thì tự bốc cháy trong không khí và tỏa nhiệt. Chính lượng
nhiệt tỏa ra trong quá trình này làm cho photphin bốc cháy:
2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O
Quá trình trên xảy ra cả ngày lẫn đêm nhưng do ban ngày có các tia sáng của mặt trời
nên ta không quan sát rõ như vào ban đêm.
Hiện tượng ma trơi chỉ là một quá trình hóa học xảy ra trong tự nhiên. Thường gặp
ma trơi ở các nghĩa địa vào ban đêm.

Khi dạy bài 25: Cacbon
Sau khi học xong phần tính hấp phụ của cacbon giáo viên dặt câu hỏi: Tại sao khi
cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơm một mẫu than củi ?
Giải thích:
Do than củi xốp, có tính hấp phụ nên hấp phụ hơi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi
khê.
Khi dạy bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Hiện tượng tạo hang động và thạch
nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với những hình dạng phong phú đa dạng
được hình thành như thế nào?
Học sinh dựa vào các kiến thức đã học để giải thích. Các em hoạt động rất sôi nổi.
Giải thích:

Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 8

Trường THCS Nguyễn Trãi



“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi trời mưa trong không khí
có CO2 tạo thành môi trường axit nên làm tan được đá vôi. Những giọt mưa rơi xuống sẽ
bào mòn đá thành những hình dạng đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2
Theo thời gian tạo thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO 3)2 ở đá thay đổi
về nhiệt độ và áp suất nên khi giọt nước nhỏ từ từ có cân bằng:
Ca(HCO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3 dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những hình thù
đa dạng.Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá, cụ thể là Phong
Nha Kẻ Bàng (Quảng Bình). Học sinh sẽ biết được quá trình hình thành các hang động
với những hình dạng phong phú là do thiên nhiên kiến tạo dựa trên các quá trình biến đổi
hóa học.

Khi dạy bài 36: Metan
Sau khi học xong phần I giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao có khí metan thoát ra từ
ruộng lúa hoặc các ao (hồ)?
Giải thích:
Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các vật thể này thối
rữa (hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ) sinh ra khí metan. Người ta ước chừng
1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm là từ các hoạt động cày cấy.
Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm bioga trong chăn nuôi heo tạo khí
metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy …Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở
giải quyết các vấn đề về môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẻ học sinh cần nắm.
Khi dạy bài 41: Nhiên liệu
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch,
còn khi đốt gỗ, than đá lại còn tro?
Giải thích:


Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 9

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Bởi vì so với gỗ và than đá thì xăng và cồn là những hợp chất hữu cơ có độ thuần
khiết cao. Khi đốt xăng và cồn chúng sẽ cháy hoàn toàn tạo thành CO 2 và hơi H2O, tất cả
chúng đều bay vào không khí. Xăng tuy là hỗn hợp nhiều hiđrocacbon, nhưng chúng là
những chất dễ cháy. Vì vậy cho dù ở trạng thái hỗn hợp nhưng khi đốt đều cháy hết.
Với than đá và gỗ thì lại khác. Cả hai vật liệu đều có những thành phần rất phức tạp.
Những thành phần của chúng như xenlulozơ, bán xenlulozơ, gỗ, nhựa là những hợp chất
hữu cơ dễ cháy và có thể “cháy hết”. Nhưng gỗ thường dùng còn có các khoáng vật.
Những khoáng vật này đều không cháy được. Vì vậy sau khi đốt cháy gỗ sẽ còn lại và tạo
thành tro,
Than đá cũng vậy, trong thành phần than đá ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ
phức tạp còn có các khoáng là các muối silicat. Nên so với gỗ khi đốt cháy than còn cho
nhiều tro hơn.Đây là câu hỏi nhằm kích thích tư duy học sinh. Học sinh không lạ gì với
hiện tượng trên nhưng để giải thích thì không phải dễ.
Khi dạy bài 44: Rượu Etylic
Sau khi học xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao rượu giả có thể gây chết người
? Học sinh không lạ gì với các hiện tượng trên nhưng để giải thích thì không phải dễ.
Giải thích:
Để thu được nhiều rượu (rượu etylic) người ta thêm nước vào pha loãng ra nhưng vì
vậy rượu nhạt đi người uống không thích. Nên họ pha thêm một ít rượu metylic làm nồng
độ rượu tăng lên. Chính rượu metylic gây ngộ độc, nó tác động vào hệ thần kinh và nhãn
cầu, làm rối loạn chức năng đồng hóa của cơ thể gây nên sự nhiễm độc.

Khi dạy bài 52: Tinh bột
Khi dạy xong phần phản ứng thủy phân của tinh bột giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao
khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Giải thích:
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các
enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá một lượng tinh bột
theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt theo sơ đồ:
amilaza . H O
mantaza . H O
� C12H22O11 �����
� C6H12O6
(C6H10O5)n �����
2

(Tinh bột)

2

(Mantozơ)

(Glucozơ)

Học sinh cũng có thể kiểm nghiệm được trong khi ăn, các em tỏ ra khá tò mò và
thích thú.
Khi dạy bài 53: Protein
Sau khi dạy xong phần sự đông tụ giáo viên củng cố bằng câu hỏi: Em có biết vì sao
khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại?
Giải thích:
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự đông
tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa.

Khi dạy bài 54: Polime
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 10

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Sau khi dạy xong bài giáo viên đặt câu hỏi: Em có biết vì sao “chảo chống dính”
khi chiên thức ăn không bị dính không?
Giải thích:
Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo dễ bị dính
chảo. Nếu dùng chảo chống dính thì thức ăn sẽ không dính chảo. Thực ra mặt trong của
chảo chống dính người ta có trải một lớp hợp chất cao phân tử. Đó là Politetra floetilen
được tôn vinh là “vua chất dẻo” thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2
nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc, làm cho thức ăn không dính chảo
khi chiên.
Một điều lưu ý là không nên đốt nóng chảo chống dính trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt
độ trên 2500C là bắt đầu phân huỷ và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà xát
bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
“Chảo chống dính” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng khá nhiều. Công dụng của
chảo đã làm hài lòng tất cả các đầu bếp khó tính. Nhưng ít ai hiểu được vì sao chảo chống
dính lại ưu việt như vậy.
Giải pháp 2: Sử dụng thí nghiệm vui
Dựa trên kiến thức hóa học cơ bản trong chương trình hóa 9, tôi xây dựng hệ thống
“thí nghiệm vui” giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, phân tích tổng hợp và giải
thích các hiện tượng từ thí nghiệm,Các em biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc
sống, giải thích các hiện tượng tự nhiên thực tế có liên quan, các thí nghiệm vui giúp các
em giảm căng thẳng sau một tiết học, làm cho các em càng yêu thích môn học hơn, say

mê và hứng thú học tập.
Khi dạy bài 7: Tính chất hóa học của bazơ
Sau khi dạy xong bài giáo viên có thể tiến hành thí nghiện vui để học sinh quan sát,
sau đó yêu cầu các em giải thích về hiện tượng mà các em quan sát được.
Hoa trắng hóa hồng
Giáo viên chuẩn bị sẵn một bó hoa gấp gằng giấy ăn màu trắng có tẩm dung dịch
NaOH đã được phơi khô và một bình nước dùng để xịt giáo viên cho học sinh quan sát,
sau đó dùng bình xịt nước, xịt lên hoa lập tức những cánh hoa màu trắng chuyển thành
màu hồng và yêu cầu học sinh giải thích hiện tượng trên.
Học sinh tỏ ra vô cùng thích thú với hiện tượng mà các em quan sát được.
Giải thích:
Hoa có tẩm dung dịch NaOH và trong bình xịt nước có chứa dung dịch
phenolphtalein nên làm cho hoa chuyển màu từ trắng sang hồng.
Khi dạy bài 4: Một số Axit quan trọng
Khi dạy xong bài giáo viên làm 1 thí nghiệm:
Những chiếc cốc “thần”
Giáo viên bày hàng loạt những chiếc cốc không lên bàn và tuyên bố đó là những
chiếc cốc có phép thần ( ở đáy mỗi cốc cho sẵn một ít hỗn hợp sền sệt của KMnO 4 và
H2SO4 đậm đặc với 1lương nhỏ nên học sinh không nhìn thấy) Sau đó lần lượt ném các
mẩu bông nhỏ( có tẩm cồn) vào các cốc trên, các mẩu bông sẽ tự bốc cháy.
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 11

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Giải thích:
Khi trộn KMnO4 với H2SO4 đậm đặc sẽ sinh ra HMnO4:

2KMnO4 +H2SO4 K2SO4 + 2HMnO4
Dưới tác dụng của H2SO4 đậm đặc HMnO4 mất nước tạo thành Mn2O7. Chất này là
một chất lỏng không màu, sánh như dầu, dễ bị phân hủy ở nhiệt độ thường kèm theo
tiếng nổ tạo thành MnO2. Mn2O7 là một chất oxi hóa cực kì mạnh nên khi bông tẩm cồn
dễ dàng bị bốc cháy khi tiếp xúc với Mn2O7.
Các em học sinh tỏ ra khá thích thú với hiện tượng mà các em quan sát được.
Khi dạy bài 16: Tính chất hóa học của kim loại
Sau khi học xong bài giáo viên tiến hành thí nghiệm, sau đó đến đầu tiết học ngày
hôm sau đưa lên cho học sinh quan sát để học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giải
thích hiện tượng mà các em quan sát được.
Cây phủ tuyết
Dùng các phoi đồng chắp thành cây rụng hết lá thả chìm cây này vào cốc thủy tinh
loại lớn chứa đầy dung dịch AgNO3. Sau một vài giờ cây sẽ bị phủ đầy tuyết trắng xóa.
Giải thích
Cu hoạt động hóa học mạnh hơn Ag nên đẩy Ag ra khỏi dung dịch muối AgNO3
Cu + 2AgNO3 Cu(NO3)2 + 2Ag
Các tinh thể Ag bám trên cành cây trông như cây bị phủ tuyết
Học sinh tỏ ra khá thích thú với hiện tượng mà các em quan sát được.
Khi dạy bài 18: Nhôm
Sau khi học xong bài giáo viên tiến hành thí nghiệm cho học sinh quan sát, sau đó
hỏi học sinh các em hãy dự doán dây kim loại màu trắng là chất gì? và nước ở trong ống
nghiệm là chất gì? Giải thích hiện tượng mà các em quan sát được?
Làm cho nước “sôi”bằng một sợi dây kim loại
Rót nước vào 1/3 ống nghiệm, rồi nhúng vào đó 1 sợi dây kim loại màu trắng ngay
lập tức “ nước” sẽ sôi sùng sục rồi hơi nước bay mù mịt, mờ cả thành ống nghiệm. Nhấc
sợi dây kim loại ra, nước trong ống ngừng sôi, nhúng sợi dây vào nó lại sôi sùng sục.
Giải thích:
Dùng dung dịch HCl làm “nước” và cần đun nóng trước khi biểu diễn. Sợi dây kim
loại màu trắng là nhôm. Khi nhúng nhôm vào dung dịch HCl nóng, phản ứng xảy ra
mãnh liệt. Bọt khí hiđro thoát ra rất mạnh trông như nước đang sôi sùng sục. Mặt khác,

phản ứng cũng làm nhiệt độ dung dịch tăng lên dần và nước bay hơi mù mịt càng làm cho
hiện tượng xảy ra giống hệt như nước đang sôi.
Học sinh tỏ ra khá thích thú với hiện tượng mà các em quan sát được.
Khi dạy bài 38: Axetilen
Đốt nước đá cháy

Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 12

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Lấy 1 nắm nước đá bỏ vào ống bơ thấp và rộng miệng rồi bật diêm đốt trên miệng
ống bơ. Thật kì lạ ! Nước đá bốc cháy.
Giải thích:
Trong ống bơ đã đặt sẵn mẩu CaC 2. Khi bỏ nước đá vào, CaC2 sẽ tác dụng với
nước, Giải phóng khí C2H2.
CaC2 + H2O C2H2 + Ca(OH)2
Khí C2H2 thoát lên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy giống hệt nước đá đang cháy
vậy.
2C2H2 + 5O24CO2 + 2H2O
Sau khi học xong bài giáo viên tiến hành thí nghiệm sau để học sinh vận dụng kiến
thức vừa học vào giải thích hiện tượng mà các em quan sát được.
Giải pháp 3: Sử dụng những câu chuyện và thơ hóa học để tạo hứng thú cho
hoc sinh
Thơ về hóa học sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh có nhịp điệu, vần điệu nên nội
dung được truyền tải đến học sinh hết sức nhẹ nhàng, ý nhị. Hóa học là môn khoa học tự
nhiên nên những kiến thức hóa học đơn thuần sẽ rất cứng nhắc, khô khan. Vì thế học sinh

sẽ cảm thấy khó tiếp thu, khó nhớ kiến thức. Nếu giáo viên có thể dùng thơ để truyền tải
những kiến thức đó cho học sinh thì các em sẽ khắc ghi một cách nhẹ nhàng, sâu sắc vì
thơ dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ.
Những câu chuyện liên quan đến hóa học lồng ghép trong một số bài học giúp các
em giảm căng thẳng sau những giờ học tập mệt mỏi, các em sẽ cảm thấy môn học thú vị
hơn.
Khi dạy bài: ôn tập đầu năm
Như chúng ta đã biết đối với môn hóa học thì hóa trị có vai trò rất quan trọng. Học
sinh không thể viết phương trình phản ứng nếu không nhớ hóa trị.Nên khi học bài ôn tập
đầu năm giáo viên có thể giúp học sinh ghi nhớ lại hóa trị thông qua bài thơ về hóa trị:
Bài ca hóa trị
Natri, Iốt, Hiđrô
Kali với Bạc, Clo một loài
Có hóa trị I em ơi
Ghi nhớ cho kỹ kẻo rồi phân vân
Magiê với Kẽm, Thủy ngân
Oxiđồng ấy cũng gần Canxi
Cuối cùng thêm chú Bari
Hóa trị II đó có gì khó khăn
Bác Nhômhóa trị III lần
In sâu vào trí khi cần có ngay
Cácbon, Silic này đây
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 13

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”

Là hóa trị IV Không ngày nào quên
Sắt kia lắm lúc hay phiền
II, III lên xuống thật phiền lắm thôi
Lưu huỳnh lắm lúc chơi khăm
Xuống II lên VI khi nằm thứ IV
Nitơ cùng với Phốtpho,
Hóa trị V đó còn lo điều gì
Em ơi cố gắng học chăm
Bài ca hóa trị suốt năm cần dùng.
Khi dạy bài 2: Một số oxit quan trọng
Khi học xong bài giáo viên kể cho học sinh nghe 1 câu chuyện:
“Màn khói giết người” đã xảy ra ở đâu?
Ngày 5 tháng 12 năm 1952, nước Anh (nước được mệnh danh là xứ sở của sương
mù) tại Luân Đôn đã xảy ra sự kiện “màn khói giết người” làm chấn động thế giới. Việc
giám sát môi trường cho thấy hàm lượng khí SO 2 cao tới 3,8 mg/m3, gấp 6 lần và nồng độ
bụi khói lên tới 4,5mg/m3 gấp 10 lần so với ngày thường. Dân trong thành phố thấy tức
ngực, khó thở và ho liên tục. Chỉ trong vòng 4, 5 ngày đã có hơn 4000 người chết trong
đó phần lớn là trẻ em và người già, hai tháng sau lại có trên 8000 người nữa chết.
Nguyên nhân của “màn khói giết người” ở thành phố Luân Đôn là do khói than
(SO2, bụi …) của các nhà máy quyện vào với sương mù buổi sớm mùa đông gây ra.

Khi dạy bài 9: Tính chất hóa học của muối
Khi dạy xong phần phản ứng trao đổi trong dung dịch điều kiện để xảy ra phản ứng
trao đổi là sản phẩm tạo thành có chất không tan hoặc chất khí. Để học tốt được phần này
học sinh cần nhớ các chất kết tủa, chất tan, chất khí nên tôi đã đưa ra cho các em bài thơ
về tính tan của các muối.
Tính tan của muối
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 14


Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Tính tan của muối
Loại muối tan tất cả
là muối nitơrat
Và muối axêtat
Bất kể kim loại nào
Những muối hầu hết tan
Là clorua, sunfat
Trừ bạc chì clorua
Bari, chì sunfat
Những muối không hoà tan
Cacbonat, photphat
Sunfua và sunfit
Trừ kiềm, amoni.
Các em tỏ ra khá hứng thú với bài thơ này và ngay trong những bài học tiếp theo
gần như tất cả các em đã nắm được trạng thái của các chất.
Khi dạy bài 13: Luyện tập chương 1
Giáo viên kiểm tra bài cũ trong giờ luyện tập bằng 1 số câu đố. Yêu cầu học sinh trả
lời và giải thích:
1.Axit gì nhận biết
Bằng quỳ tím đổi màu
Thêm vào bạc nitrat
Tạo kết tủa trắng phau.
Đáp án: HCl
2. Axit gì cùng sắt
Tạo muối sắt hai, ba

Tùy điều kiện dung dịch
Còn làm sắt trơ ra.
Đáp án: H2SO4 đặc nóng
3. Axit gì không bền
Có tên, không thấy mặt
Điều chế muối cho kiềm
Cùng oxit tương tác.
Đáp án: H2CO3
4. Muối gì dùng tẩy trắng
Mang nặng mùi clo
Bảo quản nơi râm mát
Mong bạn hãy nhớ cho?
Đáp án: NaClO
5.Muối gì ở dạng quặng
Công dụng chẳng gì bằng
Xây nên nhà ta ở
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 15

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Và sản xuất xi măng
Đáp án: CaCO3
6.Muối gì làm thuốc súng
Sức công phá phi thường
Nhưng các bà nội trợ
Lại dùng làm lạp xưởng

Đáp án: KNO3
Khi dạy bài 19: Sắt
Để tạo không khí thoải mái cho tiết học giáo viên kể cho học sinh nghe một mẫu
chuyện trước khi vào bài:
Một chuyện tình cảm động nhưng….
Hồi đầu thế kỷ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người dưới
dạng huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì khi nghe cô gái mình
yêu hỏi anh ta lấy gì làm chứng cho tình yêu đang chảy cuồn cuộn trong cơ thể anh ta.
Anh ta đã quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng… sắt nhưng không
phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của mình! Cứ định kỳ lấy máu
ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt ra bằng phương pháp hóa học.
Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một bằng chứng
tình yêu bởi… nó chưa được làm xong thì chàng trai đã chết vì bị mất máu, cho dù lượng
sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới… 3g!
Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn rất nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai chứng
tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù thật là cảm động.
Học sinh tỏ ra khá thích thú với câu chuyện.
Khi dạy bài 26: Clo
Sau khi học xong phần tính chất vật lí giáo viên kể cho học sinh nghe câu chuyện để
học sinh thấy được clo là một khí độc.
Khí Clo đã được dùng làm vũ khí ở đâu và khi nào ?
Đó là xế chiều ngày 24 - 4 - 1915 (thế chiến thứ nhất 1914 - 1918) giữa 2 ngôi làng
có tên là Steenstraat và Poel Kappelle (nớc Bỉ) xuất hiện một đám khói màu vàng lục
xuất phát từ phòng tuyến của quân Đức bay là là cách mặt đất 1 mét theo chiều gió tiến
dần đến phòng tuyến quân Pháp. Đó là khói của 150 tấn clo chứa trong 5830 thùng điều
áp vừa được các binh sĩ của trung đoàn quân tiên phong 35 và 36 Đức thả vào không khí.
Mười lăm phút sau, bộ binh Đức được trang bị đặc biệt bám theo đám khói clo đó tấn
công thẳng vào cứ điểm Pháp. Sự tác động của khí độc thật vô cùng ghê gớm. Hàng trăm
binh sĩ Pháp hỗn loạn chạy ngược về phía sau tìm không khí để thở. Khi quân Đức tới nơi
họ trông thấy nhiều xác chết với gương mặt xanh nhợt nằm la liệt bên những người hấp

hối, cơ thể co giật dữ dội, miệng ứa ra một chất dịch màu vàng nhạt. Kết quả là tuyến
phòng thủ của quân Pháp bị phá vỡ và khí clo đã giết chết 3000 người và làm 7000 người
bị thương.
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 16

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”

Khi dạy bài 31: Sơ lược bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Trước khi vào bài giáo viên kể cho học sinh nghe câu chuyện liên quan đến nhà
khoa học phát hiện ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học qua giấc mơ.
Phát hiện ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Chắc hẳn nhiều người đều biết rằng, Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học được
tạo ra bởi nhà khoa học người Nga Dmitri Mendeleev. Tuy nhiên, không phải ai cũng
biết, ông đã phải vật lộn như thế nào để có thể tạo ra và sắp xếp được trật tự của Bảng
tuần hoàn đó.
Sau khi xuất hiện những ý tưởng đầu tiên về các nguyên tố hóa học, vào năm
1869, Mendeleev đã sử dụng cách viết tên của các nguyên tố lên các tấm thẻ (mỗi nguyên
tố một thẻ) và có đi kèm cả các tính chất của từng yếu tố trên những tấm thẻ riêng.
Ông thấy rằng, khối lượng của nguyên tử đóng vai trò khá quan trọng trong Bảng
tuần hoàn, nhưng thực sự ông không thể tìm ra được dạng sắp xếp nó. Tin tưởng rằng gần
như đã khám phá ra được một điều gì đó quan trọng, Mendeleev đã di chuyển các tấm thẻ
nhiều giờ liên tục cho tới khi ông ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Kết quả khá bất ngờ khi lúc Mendeleev tỉnh dậy, mọi thứ gần như đã được sắp xếp
đâu vào đó trong đầu ông. Mendeleev tin tưởng rằng, tâm trí tiềm thức đã giúp ông hoàn
thành tất cả mọi thứ.

“Trong giấc mơ, tôi thấy một bảng có tất cả các nguyên tố được đặt ở những vị tri
đúng như yêu cầu. Ngay khi thức dậy, tôi đã viết nó ngay vào một mẩu giấy”, Mendeleev
nói về phát hiện tình cờ của mình.
Khi dạy bài 32: Luyện tập chương 3
Khi dạy xong bài giáo viên đặt câu hỏi bằng 1 số câu thơ:
1.Khí gì có tính độc
Là thành phần khí than
Vẫn thường được ứng dụng
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 17

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Trong ngành luyện thép gang?
Đáp án: CO
2.Khí gì tan trong nước
Ăn mòn được thủy tinh?
Dung dịch có ứng dụng
Để khắc chữ khắc hình.
Đáp án: HF
Khi dạy bài 39: Benzen
Khi kết thúc bài học giáo viên đọc cho học sinh nghe 1 bài thơ để tổng kết lại nội
dung của bài.
Benzen là hợp chất vòng
Dễ thế khó cộng anh không nhớ à
Oxi hóa – khử khó mà
Tính chất hóa đó gọi là tính thơm.

Khi dạy bài 42: Luyện tập chương 4
Giáo viên kiểm tra bài cũ trong giờ luyện tập bằng 1 số câu đố.
1.Khí gì mà phân tử
Có một liên kết đôi
Một chút dùng kích thích
Quả xanh đã chín rồi
Đáp án: C2H4
2.Khí gì đem phơi nắng
Cùng một lượng Clo
Phản ứng xảy ra mạnh
Kèm theo tiếng nổ to.
Đáp án: CH4
Giải pháp 4: Tổ chức chương trình ngoại khóa “ Hóa học vui”
Sau khi học xong chương 3 chương trình Hóa học lớp 9 tôi mạnh dạn đề xuất với
nhà trường 1 buổi ngoại khóa dành cho học sinh khối 9, Chia ra làm 3 đội, mỗi đội gồm 5
thành viên.
Chương trình tổ chức như sau: Gồm 5 phần
1/Khởi động: Trong phần thi khởi động các đội sẽ trả lời nhanh 6 câu hỏi thuộc các
bộ môn Hóa học. Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi là 5 giây, trả lời đúng ghi được 10
điểm.
2/ Vượt chướng ngại vật ( Trò chơi Ô chữ )
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 18

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Ô chữ trong phần thi này gồm có 9 hàng ngang tương ứng với 9 câu hỏi, mỗi đội

chọn 3 câu. Đội chọn ô chữ nếu trả lời đúng được 15 điểm. Đội chọn ô chữ nếu trả lời sai
thì các đội còn lại dùng chuông dành quyền trả lời, trả lời đúng ghi 10 điểm. Sau 2 lần
lựa chọn các đội dùng chuông để dành quyền trả lời ô từ khoá. Trả lời đúng từ khoá được
40 điểm, trả lời sai sẽ bị loại khỏi phần thi này. Sau khi đã mở tất cả các ô chữ mà các đội
không có câu trả lời, BTC sẽ có 1 gợi ý, nếu trả lời được thì ghi 20 điểm .
3/ Tăng tốc
Trong phần thi này có 10 câu hỏi thuộc bộ môn Hóa theo hình thức trắc nghiệm.
Sau khi nghe câu hỏi, các đội ghi câu trả lời của mình lên bảng con. Thời gian suy
nghĩ trả lời cho mỗi câu hỏi là 10 giây. Nếu trả lời đúng ghi được 10 điểm.
4/ Về đích
Phần thi về đích gồm 6 câu hỏi. Các đội dùng chuông để dành quyền trả lời. Trả lời
đúng ghi được 20 điểm. Nếu trả lời sai các đội khác dùng chuông để dành quyền trả lời.
Trả lời đúng được 15 điểm.
Trong phần này các thành viên trong đội có quyền chọn ngôi sao hi vọng. Trả lời
đúng sẽ được gấp đôi số điểm, trả lời sai sẽ bị trừ 1/2 số điểm.
5/ Dành cho cổ động viên và các tiết mục văn nghệ
Xen kẽ vào mỗi phần thi trên là 1 tiết mục văn nghệ của các lớp và câu hỏi dành cho
cổ động viên.
Nội dung từng phần như sau:
Phần I: Khởi động
Đội 1:
Câu 1: Trong không khí chất khí nào chiếm nhiều nhất ?
Đáp án: Nitơ
Câu 2: Cây xanh thải ra chất khí nào vào ban đêm?
Đáp án: CO2
Câu 3: Phấn có công thức hóa học là gì?
Đáp án: CaSO4
Câu 4: Tục ngữ có câu “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, theo em lửa tại sao lại có
thể thử được vàng?
Đáp án: Do vàng là kim loại kém hoạt động nên không phản ứng với oxi ngay cả ở

nhiệt độ cao.
Câu 5: Em có thể dùng chất nào để phân biệt NaOH và Ca(OH)2
Đáp án: CO2
Câu 6: Kim loại nào dùng để làm vỏ máy bay?
Đáp án: Al
Đội 2:
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 19

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Câu 1: Chất khí nào là thành phần chính của khí thiên nhiên?
Đáp án: CH4
Câu 2: Điện phân dung dịch muối ăn bão hòa có màng ngăn ta điều chế được
những chất nào?
Đáp án: Dung dịch NaOH, Cl , H
2 2
Câu 3: Nguyên tố nào sau đây chủ yếu cấu tạo nên xương?
Đáp án: Ca
Câu 4: Trong phân dơi có chứa muối nào nhiều nhất?
Đáp án: KNO3
Câu 5: Có ánh kim, dẫn điện, dẫn nhiệt tốt là tính chất đặc trưng của đơn chất nào?
Đáp án: Kim loại
Câu 6: Chất nào sau đây làm mất màu dung dịch Brom ở điều kiện thường: CH 4,
C3H6, C6H6?
Đáp án: C3H6
Đội 3:

Câu 1: Phương pháp lên men dung dịch rượu etylic loãng dùng để điều chế chất
nào?
Đáp án: CH3COOH
Câu 2: Sắp xếp các nguyên tố sau theo chiều tính phi kim tăng dần: F, N, C, O?
Đáp án: C, N, O, F
Câu 3: Chất khí nào được nạp vào bình chữa cháy?
Đáp án: CO2
Câu 4: Phản ứng điều chế ra Polietylen thuộc loại phản ứng nào?
Đáp án: Phản ứng trùng hợp
Câu 5: Phương pháp dùng để điều chế dầu nặng thành xăng gọi là gì?
Đáp án: Crăkinh
Câu 6: Có hỗn hợp gồm C2H2; CH4; CO2. Để nhận ra từng khí có trong hỗn hợp
trên có thể sử dụng các hóa chất nào?
Đáp án: Ca(OH)2 và dung dịch nước Brom
Phần 2: Vượt chướng ngại vật ( Ô chữ )
Câu 1: ( 7 chữ cái ) Những chất được tạo nên từ một nguyên tố hóa học gọi là gì?
( ĐƠN CHẤT)
Câu 2: ( 3 chữ cái) Tên nguyên tố có ký hiệu hóa học là Zn?
( KẼM)
Câu 3: (5 chữ cái ) Tên chất khí có trong khí tự nhiên và khí Bioga?
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 20

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
( MÊTAN)
Câu 4: ( 7 chữ cái ) Là những chất được tạo nên từ hai hay nhiều nguyên tố hóa

học?
( HỢP CHẤT )
Câu 5: ( 5 chữ cái ) Tên kim loại có nguyên tử khối là 119?
( THIẾC)
Câu 6: ( 3 chữ cái ) Đây là chất khí có mầu vàng lục, mùi hắc, nặng gấp 2,5 lần
không khí?
( CLO )
Câu 7: ( 7 chữ cái ) Là nguyên tố kim loại duy nhất ở điều kiện bình thường là chất
lỏng?
( THỦY NGÂN )
Câu 8: (7 chữ cái) Đây là một tính chất vật lý đặc trưng của kim loại?
( DẪN ĐIỆN )
Câu 9: (8 chữ cái) Hạt tạo ra lớp vỏ của nguyên tử?
( ELECTRON )
( Từ khóa: MENĐÊLÊEP )
1
1

2

3

4

5

6

7


8

Đ

Ơ

N

C

H



T

K



M

M

Ê

T

A


N

P

C

H



T

T

H

I



C

L

O

2
3
4


H



5
6

10

11

12

C

7

T

H



Y

N

G

Â


8

D



N

Đ

I



N

E
L
Phần 3: Tăng tốc

E

C

T

R

O


9

9

N

N

Câu 1: Vì sao pháo hoa lại có nhiều màu sắc khác nhau ?
Đáp án:
Trong thuốc của pháo hoa có chứa muối của một số kim loại khi đốt cháy ở nhiệt độ
caocho màu rực rỡ.
Ví dụ: Muối natri (màu vàng), Ba (lục), K (tím), Li (tía), Sr (đỏ), …
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 21

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Câu 2: Vì sao phải đổ axit sunfuric đậm đặc vào nước mà không được làm ngược
lại?
Đáp án:
• Quá trình hòa tan H2SO4 đậm đặc vào H2O sẽ tỏa nhiệt rất lớn.
• Nếu cho nước vào axit: vì nước nhẹ hơn nên nổi lên trên bề mặt axit, khi đó nó sẽ
sôi mãnh liệt và bắn lên tung tóe, dính vào người gây bỏng.
• Nếu thực hiện ngược lại, axit sẽ chìm vào nước, lượng nhiệt sinh ra sẽ phân tán
đều trong thể tích nước lớn nên nước sẽ nóng lên từ từ mà không sôi một cách quá nhanh.

Câu 3: Vì sao khi mở bình nước ngọt có gas lại có nhiều bóng khí thoát ra? Khí đó
là khí gì ?
Đáp án:
• Khí đó là khí CO2.
• Khi mở nắp áp suất bên ngoài thấp hơn so với áp suất trong chai, nên bóng khí sẽ
thoát ra ngoài.
Câu 4: Vì sao rượu để trong không khí lâu dần lại bị nhạt?
Đáp án:
Vì rượu có khả năng bay hơi.
Câu 5: Vì sao vào mùa đông thường xảy ra hiện tượng ngộ độc khí đốt?
Đáp án:
• Mùa đông, người ta thường đóng kín cửa và đốt lửa sưởi ấm.
• Khi chất đốt cháy trong điều kiện thiếu không khí sẽ sinh ra một ít CO, là một khí
độc, không duy trì sự sống nên sẽ làm cho con người cảm thấy khó thở.
• Do đó mùa đông không nên đóng quá kín cửa khi đốt lửa sưởi ấm.
Câu 6: Kim loại nào có trong nhiệt kế y tế dùng để đo nhiệt độ cơ thể?
Đáp án: Hg
Câu 7: Vì sao khi dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ?
Đáp án:
Nhiều người cho rằng bạc không hòa tan vào nước nhưng thực ra vẫn có một lượng
nhỏ bạc tan vào nước tạo thành ion bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Vì thế thức ăn
lâu bị ôi thiu.
Câu 8: Vì sao khi nấu canh cá người ta thường dùng các chất chua như lá me, cà
chua, thơm,...?
Đáp án:
• Cá thường có mùi tanh là do trong cá chứa một sốamin là các hợp chất có tính
bazơ.
• Trong các chất chua có mặt một số axit (như axit xitric) có tác dụng trung hòa các
amin có trong cá. Do đó mùi tanh sẽ bị mất đi.
Người viết: Hoàng Thị Năm


Trang 22

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Câu 9: Vì sao trái đất có khuynh hướng nóng dần lên ?
Đáp án:
Có 2 nguyên nhân:
- Do hoạt động của mặt trời, nguyên nhân từ vũ trụ, sự biến đổi trên trái đất như
hoạt động của núi lửa, các dòng hải lưu nóng và lạnh,…
- Do các hoạt động của con người trong công nghiệp cũng như trong đời sống làm
cho hàm lượng CO2 trong không khí tăng lên. Và CO2 là màn chắn ngăn cản nhiệt lượng
trên mặt đất khuyếch tán ra bên ngoài bầu khí quyển. Kết quả là làm cho khí hậu trên Trái
đất ấm lên.
Câu 10: Kim cương có thể cháy được không? Vì sao?
Đáp án:
Kim cương là một dạng thù hình của cacbon nên có thể cháy được ở nhiệt độ cao,
sản phẩm sinh ra là CO2 và không để lại tro.
Ckim cương + O2 CO2
Phần 4: Về đích
Câu 1: Chất nào dùng để khắc chữ và hình trên vật liệu thủy tinh?
Đáp án: HF
Câu 2:
Bắt ta đi nhốt vào bình
Khi thì cấp cứu sinh linh con người
Khi trêu sắt thép lửa cười
Khi sâu đáy biển cùng người nhái bơi
Đó là chất gì?

Đáp án: Khí oxi
Câu 3:
Khí gì hấp thụ được
Tia tử ngoại mặt trời.
Là lá chắn hữu hiệu
Cho sự sống sinh sôi
Đáp án: Khí ôzôn
Câu 4: Cho các kim loại sau: Mg, Ca, Al, Fe, Zn, Na, Ba. Hãy sắp xếp các kim loại
theo chiều tính kim loại giảm dần.
Đáp án: Na, Ba, Ca, Mg,Al, Zn, Fe
Câu 5: Đây là chất gì?
Rất cần cho con người.
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 23

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Có nhiều trong nước biển
Công thức hóa học là NaCl
Đáp án: Muối ăn (Natri clorua)
Câu 6: Khí nào có khả năng làm quả mau chín?
Đáp án:C2H4
Phần 5: Dành cho cổ động viên
Câu 1: Kim loại nào được con người sử dụng làm công cụ đầu tiên
Đáp án: Cu
Câu 2: Kim loại nào là thành phần chính trong nước vôi
Đáp án: Ca

Câu 3: “Có công mài sắt, có ngày nên kim” là câu tục ngữ nói về hiện tượng vật
lý hay hiện tượng hóa học?
Đáp án: Hiện tượng vật lý
Câu 4: Lớp váng trên bề mặt hố nước vôi là chất hóa học gì?
Đáp án: CaCO3
Câu 5: Ở người khi bị hoa mắt chóng mặt người ta gọi là thiếu máu. Vậy thiếu máu
liên quan đến nguyên tố nào?
Đáp án: Fe
Sau khi kết thúc các phần chơi tổng kết điểm các đội dành được số điểm khá cao:
Đội I: 200 điểm, Đội 2: 180 điểm, Đội 3: 225 điểm
Tất cả các em học sinh đều tham gia rất nhiệt tình và sôi nổi, sau khi kết thúc cuộc
thi tôi có hỏi ý kiến các em có muốn tổ chức thêm nhiều chương trình ngoại khóa như
vậy đối với các bộ môn khác hay không thì hầu hết câu trả lời của các em là có. Như vậy
theo tôi việc tổ chức các buổi ngoại khoá liên quan đến kiến thức môn học là thực sự cần
thiết để các em có thể giao lưu, học hỏi, các em có thể tìm tòi những kiến thức mới lạ từ
đó yêu thích môn học hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng lên.
Tóm lại: Để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh ngoài tình yêu thương dành
cho học trò, giáo viên cần phải nâng niu soạn giảng từng bài dạy của mình. Tạo môi
trường học tập thân thiện gần gũi với học sinh. Bản thân luôn tự nhắc nhở phải hết sức
bình tĩnh, luôn nhẹ nhàng hướng dẫn từng vấn đề, không tỏ ra nóng giận, khó chịu, hay
lớn tiếng khi các em trả lời sai, hay chưa hiểu đúng một vấn đề,…Điều đó dễ làm các em
tự ty, mặc cảm mà thu người lại. Hóa thân thành người bạn của các em để hiểu rõ các em
đang nghĩ gì, muốn gì. Quan tâm đến các em, hiểu rõ hoàn cảnh giúp đỡ kịp thời, có thể
trò chuyện, gần gũi, thăm hỏi. Sự khích lệ cuả người thầy làm học sinh tự hào về mình, tự
tin vào bản thân và có hứng thú học tập thực sự. Đây là lứa tuổi các em không còn trẻ con
nữa, nhưng chưa hẳn là người lớn. Ở lứa tuổi này các em dễ bị tổn thương, cần được phát
huy tính độc lập nhưng cũng rất cần đến sự chăm sóc chu đáo và đối xử tế nhị. Đó là tình
yêu đích thực của người thầy với tương lai học trò.
4. Tính mới của giải pháp
Người viết: Hoàng Thị Năm


Trang 24

Trường THCS Nguyễn Trãi


“Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9”
Đề tài gây hứng thú cho học sinh khi học tập môn Hóa học đã có nhiều người nghiên
cứu nhưng hiệu quả chưa cao và phạm vi ứng dụng còn hạn chế. Với đề tài “Một số kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập môn Hóa học 9” tôi muốn
đóng góp một nhóm giải pháp mới hy vọng nâng cao chất lượng dạy học môn Hóa học lớp
9.
Các giải pháp tôi thực hiện đều dựa vào đặc trưng kiến thức bộ môn và đặc điểm tâm
lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở nên dễ tạo hứng thú học tập cho các em để các em ghi
nhớ kiến thức tốt hơn. Hầu như giáo viên lên lớp không vận dụng điều này hoặc có nhưng
còn ít và chưa thực sự nhiệt tình nên tiết học trở nên khô cứng, đơn điệu. Học sinh lớp 9 là
lứa tuổi nhạy cảm với những điều mới lạ và muốn khẳng định mình. Vì vậy việc chuyển
kiến thức Hóa học thành những câu thơ, câu chuyện giúp các em hào hứng hơn. Việc đọc
“Bài ca hóa trị’, “Tính tan của muối”... hay giải các câu đố Hóa học bằng văn vần làm cho
kiến thức môn Hóa học trở nên có âm vần, nhạc tính, các em hứng thú học tập và ghi nhớ
tốt hơn. Liên hệ thực tế để vận dụng kiến thức môn học giải thích các hiện tượng trong
cuộc sống cũng là cách học sinh thể hiện mình. Học sinh đặc biệt hào hứng khi có thể hiểu
được hiện tượng tự nhiên thường gặp trong cuộc sống. Nhu cầu thể hiện mình bằng cách
giải thích hiện tượng tự nhiên sẽ là động lực thúc đẩy các em học tập và tạo hứng thú với
môn Hóa học nhiều hơn.
Một điểm mới khác trong đề tài này là sự kết hợp đồng bộ một số giải pháp để phát
huy cao nhất hiệu quả đề tài. Giáo viên đọc (hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại) một kiến thức
Hóa học bằng thơ sẽ giúp giảm căng thẳng trong giờ học. Hầu như các tiết dạy đều có thể
liên hệ thực tế để tạo hứng thú khám phá tự nhiên cho học sinh... Chỉ có giải pháp thứ tư
(tổ chức chương trình ngoại khóa “ Hóa học vui”) là cần một buổi ngoại khóa, tuy vậy vẫn

có thể kết hợp ba giải pháp trước vào để tăng sự hứng thú cho các em.
Đó là một số điểm mới trong đề tài nghiên cứu của tôi, hy vọng sẽ là đóng góp nho
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng bộ môn Hóa học.
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết quả khảo nghiệm
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào giảng dạy và kết quả thu được qua bài
kiểm tra học kì II năm học 2017-2018 và bài kiểm tra học kì I năm học 2018 -2019 như
sau:
Năm học
2017 - 2018

LỚP

Tổng số

Giỏi

Khá

Trung
bình

9A3

26

2

8


13

3

0

9A4

25

2

7

12

4

0

9A5

23

4

8

11


0

0

9A6

36

11

13

11

1

0

Tổng cộng

110

19

36

47

8


0

17,3%

32,7%

42,7%

7,3%

0%

Tỉ lệ
Người viết: Hoàng Thị Năm

Trang 25

Yếu

Kém

Trường THCS Nguyễn Trãi


×