Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may việt nam sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.77 KB, 80 trang )

MỤC LỤC

1


Chương I: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mục tiêu xuyên suốt thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu là năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế. Trong đó có công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nhẹ là ngành có vai trò
quan trọng trong tiến trình này. Để sản phẩm trong nước có thể đứng vững trên thị
trường, các doanh nghiệp phải không ngừng cố gắng, nỗ lực, nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm giá thành, nâng cao trình độ quản lý của các cấp quản lý cũng như của
người lao động, đổi mới các trang thiết bị…giúp sản phẩm trong nước có thể cạnh
tranh với sản phẩm nước ngoài.
Ngành dệt may có thể nói là ngành đi đầu trong các ngành công nghiệp nhẹ. Từ
khi đổi mới, ngành đã có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế. Thực tế, vài
năm gần đây, dệt may đã có những bước phát triển vượt bậc. Thị trường chủ yếu của
ngành may hiện nay là xuất khẩu ra nước ngoài. Song càng ngày, các thị trường càng
trở nên khó tính hơn, cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn. Do đó, việc mở rộng thị trường
cho ngành dệt may trở nên không hề dễ dàng. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để có thể
mở rộng và khẳng định tên tuổi của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường thế giới?
Mỹ là một trong những thị trường lớn nhất, tiềm năng nhất cho hàng dệt may
Việt Nam từ trước tới nay, luôn chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành
dệt may, bằng khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sang thị trường này.
Và cũng như các thị thị trường nước ngoài khác, để đưa hàng dệt may vào thị trường
Mỹ ngày càng trở nên khó khăn hơn, việc Việt Nam hội nhập quốc tế, mở cửa thị
trường, gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi nhưng đồng thời cũng là thách thức to
lớn đối với xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. Mặt hàng dệt may của chúng ta sẽ
phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn, do đó nâng cao năng lực cạnh


tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ
nói riêng là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành dệt may của nước ta để từ đó tìm ra
được những thuận lợi để phát huy và quan trọng hơn để tìm ra những giải pháp nhằm

2


khắc phục được những bất cập nhằm giúp hàng dệt may nước ta đứng vững và chiếm
lĩnh được thị phần trên thị trường quốc tế cũng như thị trường trong nước.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài.
- Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
của hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
- Tìm hiểu và phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may của Việt
Nam sang thị trường Mỹ.
- Đưa ra các kiến nghị, định hướng và các giải pháp có hiệu quả nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu.
- Hệ thống hóa và bổ sung một số vấn đề lý luận chủ yếu về cạnh tranh, năng
lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt
may.
-

Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu vào thị

trường Mỹ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay để tìm ra những kết quả,
hạn chế và nguyên nhân nhằm tạo lập cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các định
hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường Mỹ của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam trong thời gian tới.

1.4. Phạm vi nghiên cứu.
Do đề tài nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt
may Việt Nam sang thị trường Mỹ nên phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ mở rộng ra
toàn ngành dệt may Việt Nam, tình hình xuất khẩu và cạnh tranh của ngành dệt may
Việt Nam từ năm 2006 – 2011, tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ thị trường
Việt Nam và các đối thủ khác trong giai đoạn này. Để cho đề tài đạt hiệu quả nghiên
cứu tốt hơn, chúng tôi sẽ nêu ra định hướng, mục tiêu cho toàn ngành trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may sang thị trường Mỹ giai đoạn 2012 – 2020.

3


1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu.
- Trong giai đoạn hiện nay, tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ rất có
giá trị, và có tiềm năng nên cần đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của hàng dệt may
Việt Nam giúp cho việc xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường đạt hiệu quả.
- Rút ra được bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
1.6. Kết cấu đề tài.
Với vấn đề đặt ra như vậy, đề tài sẽ có kết cấu như sau:
Chương I: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
Chương II: Một số lý thuyết về cạnh tranh của sản phẩm dệt may vào thị
trường Mỹ.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng năng
lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Chương IV: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực
cạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.

4



Chương II: Một số lý thuyết về cạnh tranh của sản phẩm dệt may
vào thị trường Mỹ.
2.1. Một số khái niệm về cạnh tranh.
2.1.1.

Cạnh tranh.

2.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh.
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, thể thao…do đó nó được sự quan
tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có nhiều khái niệm khác
nhau về cạnh tranh. Tuy nhiên, ở đây ta chỉ xét trên lĩnh vực kinh tế và cạnh tranh
trong kinh tế nói riêng cũng có nhiều cách hiểu khác nhau trong phạm vi doanh
nghiệp, ngành, giữa các quốc gia, giữa các khu vực…
Theo Michael Porter: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh
là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong
ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (1980).
Theo Cac-Mac: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để
thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa
và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Mac đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành
nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi
phí sản xuất và khả năng có thể bán hành hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu đựơc
lợi nhuận.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động
tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều

kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình.
5


Cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó,
dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và
nâng cao được thu nhập thực tế.
Như vậy, cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất năng động, nhạy bén,
tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện
tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh
tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thị trường trì trệ và kém phát triển.
2.1.1.2. Phân loại cạnh tranh.
• Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất,
còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá
trình thương lượng giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên
gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao để
mua được hàng hoá hoá mà họ cần.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật
khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong
cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải

rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
• Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành (cạnh tranh dọc): là cuộc cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ.
Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
- Cạnh tranh giữa các ngành (cạnh tranh ngang): Là cuộc cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Trong quá trình này có sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết
quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
• Căn cứ vào tính chất cạnh tranh:

6


- Cạnh tranh hoàn hảo: là cạnh tranh trong một mô hình kinh tế được mô tả là một
mẫu kinh tế thị trường lý tưởng, ở đó không có người sản xuất hay tiêu dùng nào có
quyền hay khả năng khống chế được thị trường, làm ảnh hưởng đến giá cả.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là một dạng cạnh tranh trong các thị trường khi các
điều kiện cần thiết cho việc cạnh tranh hoàn hảo không được thỏa mãn.
• Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
- Cạnh tranh không lành mạnh: là bất cứ hành động nào trong hoạt động kinh tế
trái với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng. Và cũng gần
như không có người thắng nếu việc kinh doanh được tiến hành giống như một cuộc
chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt chỉ dẫn đến một đai dương đỏ đầy máu
của những địch thủ tranh đấu trong một bể lợi nhuận đang cạn dần. Hậu quả thường
thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự giảm sút mức lợi nhuận ở khắp mọi nơi.
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi cho doanh
nghiệp mình. Đôi khi nó là sự trả giá của người khác. Đây là tình huống “cùng thua”.
- Cạnh tranh lành mạnh: Căn cứ theo những gì người ta hay nói về kinh doanh
ngày nay, doanh nghiệp sẽ không tiếp tục nghĩ theo kiểu truyền thống là đánh bại đối

thủ nữa. Doanh nghiệp cần phải lắng nghe khách hàng, hợp tác với các nhà cung cấp,
lập ra các nhóm mua hàng và xây dựng những quan hệ đối tác chiến lược (thậm chí là
với đối thủ cạnh tranh).
Thực tế là hầu hết các doanh nghiệp chỉ thành công khi những người khác thành
công. Đây là sự thành công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn nhau.
Tình huống này được gọi là “cùng thắng”.
2.1.2.

Lợi thế cạnh tranh.

Một thuật ngữ có liên quan đến cạnh tranh là lợi thế cạnh tranh là sở hữu của
những giá trị đặc thù, có thể sử dụng được để “nắm bắt cơ hội”, để kinh doanh có lãi.
Khi nói đến lợi thế cạnh tranh, là nói đến lợi thế mà một doanh nghiệp, một quốc gia
đang có và có thể có, so với các đối thủ cạnh tranh của họ. Lợi thế cạnh tranh là một
khái niệm vừa có tính vi mô (cho doanh nghiệp), vừa có tính vĩ mô (ở cấp quốc gia).
Theo quan điểm của Michael Porter, doanh nghiệp chỉ tập trung vào hai mục
tiêu tăng trưởng và đa dạng hóa sản phẩm, chiến lược đó không đảm bảo sự thành
công lâu dài cho doanh nghiệp. Điều quan trọng đối với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào là xây dựng cho mình một lợi thế cạnh tranh bền vững. Theo Michael Porter, lợi
7


thế cạnh tranh bền vững có nghĩa là doanh nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị
trường một giá trị đặc biệt mà không có đối thủ cạnh tranh nào có thể cung cấp được.
2.1.3.

Năng lực cạnh tranh.

2.1.3.1. Một số quan điểm về năng lực cạnh tranh.
Năng lực canh tranh của doanh nghiệp được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp

và là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh không chỉ được
tính băng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,
… mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà
doanh nghiệp đưa ra thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với với thị
phần mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất của doanh nghiệp với hiệu quả sản
xuất kinh doanh…
Năng lực cạnh tranh còn có thể được hiểu là khả năng tồn tại trong kinh doanh
và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất
lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện
tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Cũng có thể hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn và tạo ra thu nhập cao và phát triển bần vững.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình thì chưa đủ, bởi trong
điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế
chứng minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong
yếu nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện
nay.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi
thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thõa mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực
và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người
tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so
với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường .
2.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
Theo Michael Porter thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm bốn yếu tố:
8


Các yếu tố bản thân doanh nghiệp: Bao gồm các yếu tố về con người (chất

lượng, kỹ năng); các yếu tố về trình độ (khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm thị trường);
các yếu tố về vốn… các yếu tố này chia làm 2 loại:


Loại 1: các yếu tố cơ bản như: môi trường tự nhiên, địa lý, lao động;



Loại 2: các yếu tố nâng cao như: thông tin, lao động trình độ cao…
Trong đó, yếu tố thứ 2 có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp. Chúng quyết định lợi thế cạnh tranh ở độ cao và những công nghệ có tính độc
quyền. Trong dài hạn thì đây là yếu tố có tính quyết định phải được đầu tư một cách
đầy đủ và đúng mức.
Nhu cầu của khách hàng: Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát triển
của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thõa
mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế
về mặt này thì có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết
được điều này và cố gắng phát huy tốt nhất những điểm mạnh mà mình đang có để đáp
ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh
nghiệp có thể tận dụng được lợi thế theo quy mô, từ đó cải thiện các hoạt động kinh
doanh và dịch vụ của mình. Nhu cầu khách hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp
để phát triển các loại hình sản phẩm và dịch vụ mời. Các loại hình này có thể được
phát triển rộng rãi ra thị trường bên ngoài và khi đó doanh nghiệp là người trước tiên
có được lợi thế cạnh tranh.
Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ: Sự phát triển của doanh nghiệp không thể
tách rời sự phát triển các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ như: thị trường tài chính, sự
phát triển của công nghệ thông tin… Ngày nay, sự phát triển của công nghệ thông tin,
các ngân hàng có thể theo dõi và tham gia vào thị trường tài chính 24/24 giờ trong
ngày.

Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh: Sự phát
triển của hoạt động doanh nghiệp sẽ thành công nếu được quản lý và tổ chức trong một
môi trường phù hợp và kích thích được các lợi thế cạnh tranh của nó. Sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và thay đổi nhằm hạ thấp chi
phí, nâng cao chất lượng dịch vụ.

9


Trong bốn yếu tố trên, yếu tố 1 và 4 được coi là yếu tố nội tại của doanh nghiệp,
yếu tố 2 và 3 là những yếu tố có tính chất tác động và thúc đẩy sự phát triển của
chúng.
Ngoài ra, còn hai yếu tố mà doanh nghiệp cần tính đến là những cơ hội và vai
trò của Chính Phủ. Vai trò của Chính Phủ có tác động tương đối lớn đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nhất là trong việc định ra các chính sách về công nghệ, đào tạo
và trợ cấp.
2.2. Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh.
2.2.1.

Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter.

Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện
nay, đã cung cấp một khung lý thuyết để phân tích. Trong đó, ông mô hình hóa các
ngành kinh doanh và cho rằng ngành kinh doanh nào cũng phải chịu tác động của năm
lực lượng cạnh tranh. Các nhà chiến lược đang tìm kiếm ưu thế nổi trội hơn các đối thủ
có thể sử dụng mô hình này nhằm hiểu rõ hơn bối cảnh của ngành kinh doanh mình
đang hoạt động.
Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh được ra đời với nội dung tìm hiểu yếu tố tạo ra
lợi nhuận trong kinh doanh. Đây được xem là công cụ hữu dụng và hiệu quả để tìm
hiểu nguồn gốc lợi nhuận. Quan trọng hơn cả, mô hình này cung cấp các chiến lược

cạnh tranh để doanh nghiệp duy trì hay tăng lợi nhuận.
Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành sản
xuất bất kỳ chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh sau:
2.2.1.1. Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp:
Số lượng và quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp
lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị
trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng
tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp: Trong vấn đề này ta nghiên cứu
khả năng thay thế những nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp và chi phí chuyển
đổi nhà cung cấp.

10


Thông tin về nhà cung cấp : Trong thời đại hiện tại thông tin luôn là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có ảnh hưởng lớn tới
việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.
Với tất cả các ngành, nhà cung cấp luôn gây các áp lực nhất định nếu họ có quy
mô, sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực quý hiếm. Chính vì thế những nhà cung
cấp các sản phẩm đầu vào nhỏ lẻ sẽ có rất ít quyền lực đàm phán đối với các doanh
nghiệp mặc dù họ có số lượng lớn nhưng họ lại thiếu tổ chức.
2.2.1.2. Áp lực cạnh tranh từ khách hàng
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngành.
Quyền lực của khách hàng là khả năng tác động của khách hàng trong một
ngành sản xuất. Thông thường, khi khách hàng có lợi thế trong đàm phán hay được gọi
là khách hàng có quyền lực lớn, quan hệ giữa nhà cung cấp và khách hàng trong một
ngành sản xuất gắn với trạng thái thị trường mà các nhà kinh tế học gọi là độc quyền
mua – đó là trường hợp mà trên thị trường có rất nhiều người bán và chỉ có một hay

một số rất ít người mua. Trong điều kiện thị trường như vậy thì người mua thường có
vai trò quyết định trong việc xác định giá cả. Trên thực tế thì trạng thái thị trường độc
quyền mua như vậy ít khi xảy ra, nhưng thường có một sự không đối xứng giữa một
ngành sản xuất và thị trường người mua. Dưới đây liệt kê một số yếu tố xác định
quyền lực của người mua trên một thị trường:
Khách hàng được gọi là có lợi thế trong đàm phán nếu:
- Người mua rất tập trung – tức là có một số người mua nhưng họ chiếm một thị
phần đáng kể.
- Nhóm ít khách hàng mua với một khối lượng lớn sản phẩm của ngành sản xuất.
Đó là sự phân bổ lượng mua hoặc nếu sản phẩm được tiêu chuẩn hóa.
- Người mua có khả năng gia nhập thị trường phía trước và tạo ra nguy cơ gia nhập
theo chiều dọc. Tức là người mua có khả năng can thiệp vào hệ thống phân phối hay
sản xuất bằng cách mua các nhà sản xuất hoặc tự giao dịch trực tiếp với nhà sản xuất
không thông qua trung gian phân phối.
Người mua có quyền lực thấp nếu:
- Các nhà sản xuất có khả năng gia nhập theo chiều dọc về phía sau bằng cách can
thiệp hệ thống phân phối hoặc tự tạo ra kênh phân phối riêng.
11


- Chi phí chuyển đổi đối với người mua rất lớn, sản phẩm ít hoặc không được tiêu
chuẩn hóa và người mua rất khó tìm được nhà cung cấp mới hoặc có nhưng với chi phí
rất cao.
- Người mua rất phân tán (rất nhiều hoặc rất khác nhau) và không có người mua
nào có ảnh hưởng đáng kể đối với sản phẩm hoặc giá cả.
- Người bán cung cấp một phần quan trọng nhu cầu đầu vào của người mua – đó là
sự phân bổ lượng mua.
Khách hàng được phân làm 2 nhóm:
+ Khách hàng lẻ
+ Nhà phân phối

Cả hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua
quyết định mua hàng.
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp lực
cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành
+ Quy mô
+ Tầm quan trọng
+ Chi phí chuyển đổi khách hàng
+ Thông tin khách hàng
2.2.1.3. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn:
Theo Michael Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên
trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều
hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ suất
sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
+ Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố làm cho việc gia nhập vào
một ngành khó khăn và tốn kém hơn:
- Kỹ thuật
- Vốn
- Các yếu tố thương mại: Hệ thống phân phối, thương hiệu, hệ thống khách
hàng...

12


- Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào (bị kiểm soát ), bằng cấp,
phát minh sáng chế, nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ ....
2.2.1.4. Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế:
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu
cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.

Áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu
so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng , các
yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới
sự đe dọa của sản phẩm thay thế.
Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ ngành
với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho ngành mình.
Chi phí chuyển đổi: chi phí chuyển đổi tỏng trường hợp này đề cập đến khả
năng chuyển đổi sản phẩm từ phía khách hàng. Chi phí chuyển đổi thấp làm gia tăng
sự cạnh tranh trên thị trường. Khi một khách hàng có thể chuyển đổi dễ dàng từ sản
phẩm này sang sản phẩm khác, các doanh nghiệp phải luôn cố gắng giành giật khách
hàng mới và chăm sóc, giữ gìn khách hàng quen thuộc.
2.2.1.5. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành:
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau
tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một ngành các
yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ
+ Tình trạng ngành : Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ cạnh
tranh...
+ Cấu trúc của ngành : Ngành tập trung hay phân tán


Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau

nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn lại


Ngành tập trung : Ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ vai

trò chi phối.
+ Các rào cản rút lui: giống như các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui là
các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của doanh nghiệp trở nên khó khăn:



Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư



Ràng buộc với người lao động
13




Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan.



Các ràng buộc chiến lược, kế hoạch.

2.2.2.

Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất
cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và
có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này
và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những
đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp
được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như
marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy

nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được
các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần
thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng
lực cạnh tranh khác nhau.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một việc làm nếu được tổ
chức tốt sẽ giúp doanh nghiệp nhận định rõ hơn về khả năng của mình. Để đánh giá
năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều tiêu chí
để đánh giá. Trong đó có 5 tiêu chí tổng quát nhất có thể áp dụng chung cho việc đánh
giá năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, đó là:
2.2.2.1. Sản lượng, doanh thu.
Đây là tiêu chí tổng quát nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh cảu doanh
nghiệp. Thông qua sản lượng và doanh thu có thể nói lên được lợi nhuận thu được của
doanh nghiệp là cao hay thấp, có thể cho biết được mức độ sản xuất của doanh nghiệp
có hiệu quả hay không, tuy nhiên nếu chỉ xét về sản lượng và doanh thu thì vẫn chưa
đủ, phải xem xét thêm các yếu tố khác nữa.
Sản lượng là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một doanh
nghiệp, quốc gia được tính bằng sản lượng được sản xuất ra từ các mức khác nhau của
một yếu tố đầu vào kết hợp với các mức cố định của các yếu tố khác.

14


Khi xem xét các nhân tố tác động đến sản lượng, nhà quản lý có thể đi đến
quyết định dịch chuyển nhân tố nào để tối ưu hóa quá trình sản xuất.
Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm,
cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính và các hoạt động khác của doanh nghiệp.
2.2.2.2. Thị phần (trong và ngoài nước).
Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ
phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả

các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc
tỉ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua
vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường
liên quan theo tháng, quý, năm.
Thị phần phản ánh khả năng chiếm lĩnh thị trường, qui mô hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp. Đây cũng là tiêu chí rất quan trọng trong việc đánh giá triển vọng
tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp. Những số liệu về tổng số thị phần trong và
ngoài nước nói lên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác,
hiệu quả của hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường, tiếp thị, bán hàng và sau bán
hàng, mức độ áp dụng nhu cầu của người tiêu dùng và tính năng động của doanh
nghiệp.
Ngoài ra, thị phần cũng phản ánh mức độ tập trung trong sản xuất – kinh doanh
đối với loại sản phẩm hàng hóa đó của doanh nghiệp trên thị trường. Thị phần càng
lớn, sức mạnh tập trung vốn đầu tư sản xuất càng lớn, thiết lập được các kênh phân
phối sản phẩm càng có hiệu quả, giảm bớt các rủi ro khó lường trên thương trường.
Mặt khác, thị phần cũng biểu hiện mức độ liên kết giữa các vị thế của doanh
nghiệp với vị thế của người mua đối với loại sản phẩm hay hàng hóa nhất định. Biểu
hiện uy tín của doanh nghiệp, sự tin cậy của người mua trong việc cung ứng, thanh
toán, giá cả, chất lượng, dịch vụ sau bán hàng của hàng hóa đó trên thị trường.
Công ty nào chiếm được thị phần lớn sẽ có lợi thế thống trị thị trường. Vì chiến
lược chiếm thị phần, nhiều công ty sẵn sàng chi phí lớn và hy sinh các lợi ích khác.
Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh.
Thị phần =
15


Hay

Thị phần =
Thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp so với tổng sản


phẩm tiêu thụ trên thị trường. Để giành giật mục tiêu thị phần trước đối thủ, doanh
nghiệp thường phải có chính sách giá phù hợp thông qua mức giảm giá cần thiết, nhất
là khi bắt đầu thâm nhập thị trường mới.
2.2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là số lợi nhuận so với tổng doanh thu hoặc so với vốn đầu tư,
vốn chủ sở hữu…Khi cùng bỏ ra một số vốn đầu tư, nếu tỷ suất lợi nhuận thu được
càng lớn thì doanh nghiệp đó càng kinh doanh có lãi và ngược lại.
2.2.2.4. Lợi nhuận hay hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi
các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội, là phần chênh lệch giữa
tổng doanh thu và tổng chi phí
2.2.2.5. Chiến lược phát triển kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp (phản ánh khả năng phát triển bền vững, lâu dài và phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế).
Ở Việt Nam, chiến lược phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung
chưa có hiệu quả cao, còn nhiều sự ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Mục tiêu chỉ
giới hạn ở mức ngắn hạn trước mắt, lợi thế so sánh bằng nguồn lao động rẻ, tài nguyên
sẵn có, tuy nhiên công nghệ còn lạc hậu, chưa thiết lập được mối quan hệ trực tiếp với
người tiêu dùng, chưa nắm giữ được một phần nhất định trong các kênh phân phối
quốc tế. Vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải xây dựng
được chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả phù hợp với yêu
cầu phát triển và tiến trình hội nhập quốc tế.
Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua
các chỉ tiêu định tính như:
• Chất lượng hàng hoá - dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh.
Đây là một tiêu chí khá quan trọng vì khi một quốc gia muốn xuất khẩu hàng
hóa với một sản lượng lớn nhưng chất lượng kém, không cạnh tranh được thì các nước
16



nhập khẩu sẽ không nhập loại hàng hóa đó của quốc gia đó, thay vào đó là nhập hàng
hóa của quốc gia khác với chất lượng cao hơn, đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu
dùng. Mặt khác, khi chất lượng hàng hóa tốt hơn sẽ kéo theo giá cả cũng cao hơn. Bên
cạnh đó, chất lượng hàng nhập khẩu cũng sẽ đánh giá trình độ sản xuất của nước xuất
khẩu, đánh giá được công nghệ sản xuất mà họ sử dụng, đánh giá được trình độ quản
lý…Đây là mục tiêu theo đuổi của nhiều quốc gia xuất khẩu và Việt Nam cũng nằm
trong số đó.
• Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh.
Để có được thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp thì cần phải có một
thời gian dài để xây dựng. Đó là thời gian mà người tiêu dùng mua và sử dụng sản
phẩm của doanh nghiệp, đánh giá được chất lượng của hàng hóa đó là tốt và kéo theo
đám đông người sử dụng sản phẩm này. Một khi doanh nghiệp đã có được thương hiệu
thì doanh nghiệp đó dễ dàng cạnh tranh được với các đối thủ khác.
• Trình độ công nghệ
Mỗi quốc gia khi xuất khẩu một lượng hàng hóa nào đó đều phải có một trình độ
công nghệ nhất định, nó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm hàng hóa, phản ánh được
trình độ sản xuất và từ đó ảnh hưởng đến tư duy của những nhà nhập khẩu, liệu xem
hàng hóa đó có tốt hay không? Liệu có nên nhập khẩu tiếp hay không? …
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may.
2.3.1.

Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp.

Các yếu tố bên trong doanh nghiệp là một trong những nhân tố có ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp nói riêng. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm
càng nhanh. Sức cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, năng lực tài chính

của doanh nghiệp, trình độ công nghệ và tay nghề người lao động, trình độ quản lý
doanh nghiệp, chính sách marketing của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất quan trọng.

17


2.3.1.1. Khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Để thực hiện được những chương trình sản xuất và xuất khẩu cần rất nhiều vốn.
Vốn là yếu tố quyết định đến quy mô sản xuất và xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp có đủ
khả năng về vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất từ
đó giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm và vì vậy sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm.
Doanh nghiệp cũng phải có một cơ cấu vốn hợp lý nhằm phục vụ tốt cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu như cơ cấu vốn không hợp lý, vốn quá nhiều
mà không có lao động hoặc ngược lại, lao động nhiều mà không có vốn thì doanh
nghiệp sẽ không phát triển được hoặc phát triển mất cân đối. Vốn là một trong những
nhân tố quan trọng trong sản xuất và nó quyết định tăng sản lượng doanh nghiệp. Cơ
cấu vốn hợp lý giúp cho doanh nghiệp phát huy được những lợi thế của mình trong sản
xuất từ đó tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
2.3.1.2. Trình độ công nghệ và tay nghề của người lao động.
Công nghệ là hệ thống quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất hoặc thông tin.
Để đầu tư sản xuất kinh doanh, công nghệ có vai trò quyết định. Để sản xuất một sản
phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và cạnh tranh được trên thị trường phải có máy
móc, thiết bị công nghệ tiên tiến. Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều
công nghệ tiên tiến đã ra đời và được áp dụng tiến ngay vào sản xuất tạo ra những lợi
thế cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến. Vì vậy
mỗi doanh nghiệp không ngừng phải đổi mới thiết bị công nghệ để sao cho phù hợp
với mỗi doanh nghiệp nhằm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Ngày nay chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp. Chúng ta có thể bỏ hàng chục triệu USD để xây dựng
những nhà máy hiện đại, nhưng nếu bộ máy lãnh đạo điều hành kém năng lực, tập thể
lao động trực tiếp sản xuất không thành thạo, trình độ tay nghề không cao thì nhà máy
hoạt động không thể có hiệu quả, do vậy sẽ không có khả năng cạnh tranh hoặc sức
cạnh tranh rất yếu. Chất lượng, trình độ tay nghề nguồn nhân lực sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới giá trị của hàng hóa. Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa thay đổi phụ thuộc vào năng suất
18


lao động. Năng suất lao động là hiệu suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm
tạo ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động hao phí để tạo ra một
đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao
động, mức trang bị kỹ thuật của người lao động, phương pháp tổ chức, quản lý và các
điều kiện tự nhiên.
Khi chất lượng, trình độ tay nghề của nguồn nhân lực nâng cao sẽ giúp cho tăng
năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động được thể hiện ở chỗ: hao phí lao
động không tăng, nhưng số sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, do đó
giá trị hàng hóa của một đơn vị giảm xuống khiến cho giá của một đơn vị hàng hóa
giảm, do đó sẽ giúp tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
2.3.1.3. Trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Ban lãnh đạo của doanh nghiệp: là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi
xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu đồng thời giám sát
kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý, kinh doanh của ban
lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Một chiến lược doanh nghiệp đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường,
của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí
tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết và sức

mạnh tập thể đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được
nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc
phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với những biến động của môi
trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Đội ngũ cán bộ: đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp trên thương trường bởi vì đội ngũ cán bộ, lao động là những người trực
tiếp thực hiện nghiệp vụ chuyên môn.
2.3.1.4. Chính sách marketing của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đang phải đối đầu với một cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị
trường. Do đó, việc nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường cũng chính là lẽ sinh tồn
của các doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh, bên cạnh các yếu tố chính như giá
19


cả, chất lượng thì chính sách marketing rất được voi trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay.
Marketing là tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp hướng tới thỏa mãn, gợi
mở những nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để đạt mục tiêu lợi nhuận. Các
chính sách marketing giúp nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh
tranh, marketing giúp các doanh nghiệp quảng cáo các sản phẩm của mình cho nhiều
người biết đến, biện pháp marketing giúp cho các doanh nghiệp nâng cao uy tín của
mình bằng quảng cáo, xúc tiến bán hàng, giới thiệu cho người tiêu dùng biết chất
lượng, giá cả và những lợi thế sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Để có thể giành được thắng lợi trước đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp phải áp
dụng một cách linh hoạt các chính sách marketing đó là:
- Chính sách sản phẩm.
Chính sách về sản phẩm là nền tảng của chính sách marketing hỗn hợp, được xác
định dựa trên kế hoạch kinh doanh quy mô lớn dành cho sản phẩm mới và chiến lược
marketing tổng thể cho mọi sản phẩm đang có của doanh nghiệp. Khi xem xét chính
sách sản phẩm, doanh nghiệp cần quan tâm đến những vấn đề sau:

+ Quản lý chất lượng tổng hợp
+ Phát triển nhãn hiệu và bao bì sản phẩm
+ Quyết định lựa chọn bao gói sản phẩm
- Chính sách giá
Ngày nay, giá cả không phải là yếu tố cạnh tranh hàng đầu nhưng vẫn luôn được
coi là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong việc thu hút khách hàng đặc biệt là ở những
thị trường mà thu nhập của dân cư còn thấp. Trong việc phát triển sản phẩm mới doanh
nghiệp phải có chính sách giá thích hợp để tạo cho sản phẩm có chỗ đứng vững chắc
trên thị trường.
Trong chính sách giá đối với sản phẩm mới, doanh nghiệp có thể theo đuổi những
mục tiêu cơ bản sau đây:
+ Để tồn tại (giá cao hơn chi phí)
+ Để tối đa hóa lợi nhuận trước mắt
+ Để tăng thị phần
+ Để thu hồi vốn nhanh
20


+ Để dẫn đầu về chất lượng
+ Các mục tiêu khác: một doanh nghiệp có thể dùng giá để phục vụ cho một
số mục tiêu cụ thể hơn. Doanh nghiệp có thể đặt giá ở mức thấp để ngăn chặn cạnh
tranh hay đặt giá bằng giá của đối thủ cạnh tranh để giữ ổn định thị trường. Giá có thể
được quyết định ở mức giữ uy tín cũng như hỗ trợ các hang buôn hay để tránh sự can
thiệp của Chính phủ.
- Chính sách phân phối
Nội dung cơ bản của chính sách phân phối trong marketing sản phẩm mới là thiết
kế và quản lý mạng lưới bán hàng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp tung sản
phẩm ra thị trường.
Mạng lưới bán hàng đó là tập hợp các kênh với sự tham gia của các chủ thể khác
nhau có sức mạnh và uy tín khác nhau để đưa hàng hóa từ doanh nghiệp sản xuất đến

các khách hàng một cách thành công. Việc thiết kế và quản lý các kênh bán hàng hóa
mới của doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản:
+ Phù hợp với tính chất của sản phẩm
+ Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong việc tiếp cận và tìm
mua sản phẩm một cách dễ dàng.
+ Xem xét kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh
+ Các kênh phân phối cần đảm bảo tăng doanh số bán của công ty và thiết
lập mối quan hệ bền vững với các trung gian.
- Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh.
Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh có vai trò to lớn trong marketing. Nhờ
có các công cụ của chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh thúc đẩy nhanh việc chào
hàng, bán hàng, thâm nhập thị trường làm tăng doanh thu, quay vòng vốn nhanh và
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh giúp
cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trở nên thuận lợi và có hiệu quả hơn nhờ
khối lượng hàng bán ra tăng lên, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thâm nhập được thị
trường mới, tăng thị phần trên thị trường, thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng và
đem lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi hơn, từ đó giúp doanh nghiệp vững vàng và
lớn mạnh hơn qua những thất bại và thành công trên thương trường.

21


Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh không chỉ nhằm lôi cuốn sự chú ý, sự
thích thú và tạo tâm trạng thoải mái cho người mua đối với sản phẩm mà còn nâng cao
uy tín cũng như danh tiếng của doanh nghiệp. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp có
được lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Mục đích của chính
sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh là truyền đạt thông tin về doanh nghiệp và sản
phẩm đến người tiêu dùng để tác động lên họ. Muốn làm được điều đó nhà kinh doanh
phải hiểu được quá trình lôi kéo khách hàng và tác động của các yếu tố môi trường lên
quá trình đó. Mặt khác, nếu không có chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh thì

doanh nghiệp không thể có được thông tin phản hồi từ phía người tiêu dùng đối với
chất lượng, mẫu mã sản phẩm, các dịch vụ trước và sau khi bán hàng, giá cả, mạng
lưới phân phối… Mà chính những thông tin này sẽ giúp cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển được đồng thời nâng cao được năng lực cạnh tranh.
2.3.2. Các nhân tố thuốc về thị trường Mỹ
2.3.2.1. Thực trạng thị trường dệt may Mỹ.
Đặc điểm nổi bật nhất của thị trường hoa Kỳ là quy mô lớn, nhu cầu tăng
thường xuyên và rất đa dạng sản phẩm. Nhưng đây cũng là khó khăn cho nhiều quốc
gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì các đơn hàng thường rất lớn nên khó đáp
ứng được yêu cầu.
Đây là thị trường nhập khẩu và tiêu thụ khổng lồ đối với hàng hóa nói chung và
hàng dệt may nói riêng. Ngành dệt may của Mỹ đứng thứ 10 trong các ngành công
nghiệp và đứng thứ 2 trong các ngành sản xuất hàng hóa có thời hạn sử dụng không
dài. Công nghiệp dệt của Mỹ luôn gắn với thị trường sản phẩm dệt và quần áo may sẵn
của thế giới. Hàng may mặc của Mỹ chủ yếu là các sản phẩm cao cấp, giá cao cho các
nước phát triển hoặc một phần là nguyên phụ liệu, bán sản phẩm xuất đi các nước khác
để gia công lắp ráp thành phẩm để tái xuất lại vào Mỹ hoặc xuất khẩu đi các nước thứ
ba. Trong năm 2010, nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ đã đạt được mức tăng trưởng
đáng kể, một phần do nhu cầu tiêu dùng của thị trường này đã được cải thiện khá
nhiều, một phần là do đơn giá nhập khẩu giảm nên đẩy mạnh nhập khẩu trong năm….
Do vậy, so với năm 2009 nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ các thị trường đều đạt
tăng khá cao trong năm 2010; duy chỉ có hai thị trường là Hàn Quốc giảm 7,93% và
Israel giảm 3,65%...
22


Các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Mỹ chủ yếu tập trung ở một số nhóm
hàng chính như thêu ren, đồ dùng trong nhà như thảm, rèm cửa và vải bọc cho các sản
phẩm nội thất. Các công ty lớn của Mỹ chủ yếu chuyên sâu vào các dòng sản phẩm
chất lượng cao, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ lại thành công với những sản

phẩm dệt may hàng loạt.
2.3.2.2. Nhu cầu nhập khẩu dệt may của Mỹ.
Đối với những mặt hàng chính như quần áo may sẵn, hàng thêu ren, trang trí và
vải sợi, nhập khẩu dệt may của Mỹ chỉ tăng 1,8% trong năm 2007. Trong đó, các sản
phẩm dệt tăng 4,5%, hàng thêu ren tăng 3,5%, tuy nhiên nhập khẩu vải giảm 2,9% và
sợi giảm 9,8%. Hàng thêu ren vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn nhất trong tổng sản
lượng nhập khẩu hàng dệt may với 43,9%. Mặc dù vậy, các sản phẩm từ vải dệt đang
ngày càng trở nên quan trọng trong những năm qua với thị phần tăng đều theo các năm
từ 16,8% năm 1997 lên đến 33,7% năm 2007.
2.3.2.3. Một số nhà cung cấp sản phẩm dệt may chủ yếu trên thị trường.
Bảng 2.1: Thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm 2010.
Thị trường
Tổng
Trung Quốc
ấn Độ
Việt Nam
Pakistan
Mexico
Bangladesh
Indonesia
Hàn Quốc
Canada
Hondura
Campuchia

Lượng (triệu So 2009 Trị giá (triệu
m2)
55.441,35
25.995,60
3.257,17

2.877,25
2.837,26
2.610,27
1.866,92
1.756,65
1.335,79
1.331,41
1.294,11
1.002,69

(%)
18,96
25,46
18,99
31,17
5,71
16,88
15,05
17,56
-7,93
11,93
25,63
26,52

USD)
93.278,33
38.469,41
5.375,24
6.288,80
3.063,89

4.447,64
4.063,32
4.654,36
857,20
1.404,25
2.420,92
2.243,46

So 2009 (%)

Thị phần

Thị phần

2010 (%) 2009 (%)
15,15
100,00
100,00
21,13
46,89
44,46
16,85
5,87
5,87
17,95
5,19
4,71
11,4
5,12
5,76

7,37
4,71
4,79
15,34
3,37
3,48
15,75
3,17
3,21
6,38
2,41
3,11
7,14
2,40
2,55
18,71
2,33
2,21
18,84
1,81
1,70
Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ

Các nước xuất khẩu hàng dệt may chính sang Mỹ là Trung Quốc, Mexico, Ấn
Độ, Việt Nam, Indonesia… Trung Quốc là nước cung cấp nhóm hàng này lớn nhất cho
Mỹ cả về số lượng lẫn kim ngạch. Tuy nhiên, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc vào
Mỹ đang có xu hướng giảm.

23



Nhập khẩu dệt may từ Mexico, nước cung cấp lớn thứ hai của Mỹ, năm 2007
giảm cả về số lượng và kim ngạch. Trong khi đó, mặc dù mới chỉ chiếm 13,6% về kim
ngạch và 14,9% về số lượng của thị trường nhập khẩu dệt may của Mỹ, song sản phẩm
dệt may đến từ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Pakistan đang tăng mạnh, đặc biệt là
Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may vào
Mỹ nhanh nhất cả về kim ngạch (tăng 34%) và số lượng (tăng 31%).đến năm 2009 dệt
may Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may sang
thị trường Mỹ.
Theo thống kê của Bộ thương mại Mỹ, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang
Mỹ đang giảm xuống, thị phần của Trung Quốc đang thu hẹp lại, tạo cơ hội cho các
sản phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm
2008, xuất khẩu dệt may sang Mỹ tăng hơn 20%, Ấn Độ tăng 8,2%, trong khi đó
Trung Quốc chỉ tăng 0,2%, thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng 14,8% năm
2007.
Cũng theo đó, nhập khẩu hàng dệt may của nước này trong năm 2010 đạt xấp xỉ
93,3 tỷ USD, tương đương với 55,44 tỷ m2 quy đổi; tăng 18,96% về lượng và tăng
15,15% về trị giá so với năm 2009. Đơn giá nhập khẩu bình quân hàng dệt may của thị
trường này trong năm 2010 đạt 1,68 USD/ m2 quy đổi, giảm 3,2% so với năm 2009.
Trong đó, nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam đạt xấp xỉ 6,3 tỷ USD, tương
đương với 2,88 tỷ m2 quy đổi; so với năm 2009 tăng 31,17% về lượng và tăng 17,95%
về trị giá.
Hiện nay, Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đang xếp Việt Nam
nằm trong top 5 nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất vào Mỹ. Theo Bộ Công Thương Việt
Nam, mặc dù trong thời gian gần đây thị trường dệt may trên thế giới có nhiều biến
động, song ngành dệt may của Việt Nam vẫn đặt ra chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu năm
2008 đạt 9,5 tỉ USD, trong đó xuất khẩu sang Mỹ đạt 5,4 tỉ USD. Kim ngạch này sẽ
đưa Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu dệt may lớn thứ hai vào Mỹ, chỉ sau Trung
Quốc (6,1 tỉ USD).
2.3.2.4. Thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may ở Mỹ.

Đối với mặt hàng dệt may, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ có những đặc điểm
sau:
24


* Có nhu cầu mua sắm định kỳ vào các dịp lễ hoặc cuối năm ở những đợt bán
giảm giá.
* Đối với đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép, nói chung người
Mỹ thích sự đơn giản và tiện dụng, nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt,
độc đáo thì càng được ưa thích và được mua nhiều. Mọi người có thể mặc đồ gì họ
thích. Ở những thành phố lớn, nam giới thường mặc comple, nữ giới mặc váy hoặc jyp
khi đi làm; trong khi đó ở nông thôn thì thường ăn mặc khá xuyềnh xoàng; quần jean
và quần vải thô rất phổ biến. Tuy vậy, hầu hết người Mỹ kể cả lớn tuổi, ngoài giờ làm
việc thường ăn mặc thoải mái theo ý họ.
* Kiểu mẫu phù hợp thị hiếu thẩm Mỹ, thay đổi theo thời gian và khí hậu.
* Sản phẩm độc đáo và nhạy bén với thời trang.
Xác định rõ phân đoạn thị trường mình sẽ thâm nhập để xuất khẩu là một chìa
khóa để đi đến thành công, nếu không, tốt nhất nhà xuất khẩu nên tham gia vao một hệ
thống phân phối sẵn có va theo các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như thương mại mang
tính toàn cầu mà họ đề ra.
Bảng 2.2: Tham khảo nhập khẩu các nhóm hàng dệt, may của Mỹ từ các thị
trường năm 2010.
Mô tả
Tổng
Hàng may mặc
Hàng dệt
Sợi
Vải
Không dệt
Sản phẩm bông

Hàng may mặc bông
Hàng dệt bằng bông
Đồ len
Hàng may mặc len
Không phải hàng may

Lượng
(triệu m2)
55.441,35
24.744,31
30.697,04
2.887,17
9.135,82
18.674,05
22.208,63
14.340,05
7.868,59
344,43
271,23

So

Trị giá

So

2009

(triệu


2009

(%)
18,96
16,08
21,38
21,43
23,47
20,38
13,2
13,73
12,24
17,75
16,63

USD)
93.278,33
71.398,28
21.880,04
1.402,22
4.769,47
15.708,35
51.873,04
43.328,47
8.544,57
4.415,05
3.495,99

(%)
15,15

13,14
22,23
29,44
22,7
21,48
12,35
11,14
18,87
13,58
13,6

73,20
22,08 919,06 13,52
mặc len
Sản phẩm từ sợi nhân tạo 32.356,53 23,58 35.397,26 20,62
Hàng may mặc chất liệu 9.821,70 20,17 23.287,64 18,14

Đơn giá

So 2009

(USD/m2)

(%)

1,68
2,89
0,71
0,49
0,52

0,84
2,34
3,02
1,09
12,82
12,89

-3,20
-2,53
0,70
6,60
-0,62
0,91
-0,75
-2,28
5,91
-3,54
-2,60

12,55

-7,01

1,09
2,37

-2,40
-1,69
25



×