Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án Hồ sơ dân sự 06 Tranh chấp quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.5 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ LUẬT SƯ
---o0o---

BẢN THU HOẠCH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.DS - 06
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ:
LUẬT SƯ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN

Họ và tên
Ngày sinh
Số báo danh
Lớp

Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2019


MỤC LỤC
1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA
NGUYÊN ĐƠN.................................................................................................................2
1.1.

Tóm tắt nội dung tranh chấp..............................................................................2

1.2.

Yêu cầu khởi kiện................................................................................................2


2. CÁC VẤN ĐỀ TỐ TỤNG..........................................................................................3
2.1.

Đối tượng khởi kiện.............................................................................................3

2.2.

Tư cách đương sự................................................................................................3

2.3.

Điều kiện khởi kiện..............................................................................................3

2.3.1.

Chủ thể và quyền khởi kiện.........................................................................3

2.3.2.

Thời hiệu khởi kiện.......................................................................................4

2.3.3.

Thẩm quyền...................................................................................................4

3. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA........................................................................4
3.1. Hỏi BỊ ĐƠN (ông Trần Ngọc Minh ủy quyền cho ông Dương Văn Thành,
chức vụ Phó chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch)...............................4
3.2.


Hỏi NGUYÊN ĐƠN (bà Nguyễn Thị Tuyết)......................................................5

3.3. Hỏi người làm chứng (gồm: ông Nguyễn Văn Thường; ông Phan Văn; bà
Nguyễn Thị Lành; bà Nguyễn Thị Thùy)....................................................................5
4. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN.......................................................................5
PHẦN NHẬN XÉT DIỄN ÁN........................................................................................11

1


1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ
1.1. Tư cách đương sự
- Nguyên đơn
1- Bà Chu Thị Hồng Thanh (tên gọi khác Chu Thị Thanh), sinh năm 1930
Địa chỉ: 12 tổ 16 Phường Nam Thanh, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm, sinh năm 1970
Địa chỉ: Số 61 tổ 16 Phương Nam Thành, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
(Theo Giấy ủy quyền ngày 20/01/2013 do UBND phường Nam Thanh – TP Điện
Biên chứng thực) (BL 45).
2- Ông Chu Văn Sinh, sinh năm 1936.
Địa chỉ: Thôn Vạn Thắng, xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị đơn
Bà Đinh Thị Tám, sinh năm 1930
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1- Bà Chu Thị Loan, sinh năm 1935.
Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
(Theo Giấy ủy quyền ngày 21/11/2012 do UBND Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh

Yên Bái chứng thực) (BL 41).
2- Bà Chu Thị The, sinh năm 1944.
Địa chỉ: Đội 1 thôn Diên Điền, xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Người Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
(Theo Giấy ủy quyền ngày 21/11/2012 do UBND xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định chứng thực) (BL 42).
3- Ông Chu Khắc Hồng, sinh năm 1956
4- Bà Trần Thị Đắc, sinh năm 1957
5- Bà Chu Thị Mai, sinh năm 1952
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
2


1.2. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc có bốn người con tên là:
1- Chu Thị Thanh
2- Chu Khắc Sinh
3- Chu Thị The
4- Chu Thị Loan
Ông Trường, bà Cúc có mảnh đất diện tích 777 m2 thuộc thửa số 2, tờ bản đồ số 40
lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trên mảnh đất này,
ông Trường và bà Cúc đã xây dựng một căn nhà gỗ hai gian lợp ngói, vách đất với diện
tích là 183,4 m2.
Năm 1945, ông Trường mất. Bà Cúc tiếp tục ở lại mảnh đất và nhà nói trên. Sau đó,
lần lượt 4 người con của ông Trường, bà Cúc rời quê lập gia đình và đi làm ăn xa.
Năm 1990, Bà Cúc mất, để lại di sản là một nhà gỗ hai gian lợp ngói, vách đất và
một số cây lâu năm trên diện tích đất 777 m2 thuộc thửa số 2, tờ bản đồ số 40 lập năm
1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Ngày 20/1/1994, Ông Chu Khắc Sinh trở về quê và làm giấy chuyển quyền thừa kế

cho Ông Chu Khắc Thuyên gồm: đất thổ diện tích 502 m2, một nhà hai gian mái ngói
vách đất, ao cùng toàn bộ cây cối lưu niên trong vườn. Việc chuyển quyền này đã được
trưởng tộc họ – ông Chu Khắc, trưởng thôn 6 – ông Chu Hải Nông, ông Chu Khắc Chinh
và UBND xã Phù Vân xác nhận. Ông Thuyên có đưa cho ông Sinh 500.000 đồng hỗ trợ
cho ông Sinh lên vùng kinh tế mới làm ăn.
Tháng 4/1994, bà Chu Thị Thanh và bà Chu Thị The về quê thì biết việc ông Sinh
chuyển quyền thừa kế cho ông Thuyên nên đã làm đơn khiếu nại đến UBND xã Phù Vân.
Ngày 10/4/1994, UBND xã Phù Vân ra thông báo số 05/TB-UB về việc tạm đình chỉ việc
chuyển quyền thừa kế.
Ngày 15/04/1994, bốn chị em bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The đã thống nhất
giao mảnh đất trên cho ông Thuyên, bà Tám trong nom, quản lý, với nội dung: giao quyền
sử dụng đất và nhà trên đất và các cây cối lưu niên cho ông Thuyên sử dụng và thu hoạch,
thời hạn giao là 5 năm kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999. Việc giao quyền trông
nom này có sự chứng kiến của đại diện họ nội, họ ngoại và xác nhận của chính quyền địa
phương.
Đầu tháng 5/2012, bà Đinh Thị Tám tiến hành xây dựng nhà trên mảnh đất diện tích
nói trên. Cuối tháng 5/2012, bà Thanh biết được việc xây dựng nhà của bà Tám nên đã trở
về quê ngăn cản và thông báo cho chính quyền địa phương. UBND xã Phù Vân đã tiến
hành 2 phiên hòa giải ngày 19/06/2012 và ngày 25/10/2012 nhưng không có kết quả. Việc
hòa giải được lập thành văn bản (BL 25-29).
3


Ngày 05/11/2012, bà Thanh và ông Sinh gửi đơn khởi kiện đến TAND thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để yêu cầu bà Tám trả đất, trả nhà, cây cối trên đất và 50% tổng giá
trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994.
Ngày 09/11/2012, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra thông báo số 20/TBTLVA về việc thụ lý vụ án. Ngày 23/02/2013, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tiến
hành hòa giải lần 1 cho các đương sự.
Ngày 23/02/2013, ông Chu Văn Sinh làm đơn yêu cầu định giá tài sản, với tài sản
định giá là: thửa đất số 2 tờ bản đồ số 40 lập năm 1998, diện tích 777,4 m2, nhà cửa vật

kiến trúc, cây cối và hoa màu trên đất. TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra quyết
định số 02/2012/QĐ-ĐG quyết định định giá tài sản. Ngày 01/3/2013, TAND thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã tiến hành định giá tài sản tranh chấp.
Ngày 03/8/2013, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra quyết định số
65/2012/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử.
1.3. Yêu cầu của nguyên đơn
Nguyên đơn bà Chu Thị Hồng Thanh (Chu Thị Thanh), ông Chu Văn Sinh yêu cầu
bà Đinh Thị Tám phải:
1- Trả lại diện tích 777m2 đất tại thửa số 40 lập năm 1998, địa chỉ: thôn 6, xã Phù
Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu
Thị Loan và bà Chu Thị The.
2- Tháo dỡ nhà và các công trình đã xây dựng trái phép trên thửa đất.
3- Trả lại nhà và cây cối trên diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 lập năm 1998
của gia đình và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày
15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam (15/4/1994).
1.4. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Các chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp
pháp bao gồm:
1- Giấy CMND của ông Chu Văn Sinh (bản photo) - chứng minh tư cách đương sự;
Giấy CMND của bà Chu Thị Thanh (bản photo) - chứng minh tư cách đương sự.
2- Giấy xác nhận ông Chu Khắc Trường đã chết (BL 16) - chứng minh thời điểm mở
di sản thừa kế;
Giấy chứng tử của bà Chu Thị Cúc (bản chính) (BL 17) - chứng minh thời điểm
mở di sản thừa kế;

4


3- Sổ hộ khẩu (bản sao) - chứng minh mối quan hệ và tư cách thừa kế của Nguyên

đơn;
4- Tờ giấy trích lục bản đồ thửa đất (BL 21-24);
Thông báo của UBND xã Phù Vân ngày 10/4/1994 (bản photo) (BL 09);
5- Biên bản họp gia đình ngày 10/01/2007 (bản sao) (BL 14) về việc phân chia và
bàn giao di sản;
Biên bản họp gia đình ngày 05/6/2012 (bản sao) (BL 15);
Biên bản hoà giải của UBND xã Phù Vân;
Báo cáo của UBND xã Phù Vân;
2.

KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Mục đích: Làm sáng tỏ các sự việc, đồng thời chứng minh yêu cầu của Nguyên đơn
– bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh là có căn cứ và hợp pháp.
2.1. Hỏi Nguyên đơn
2.1.1. Hỏi ông Chu Văn Sinh
1) Ông hãy trình bày cho HĐXX biết, có phải ông đã chuyển quyền thừa kế cho ông
Thuyên vào ngày 20/1/1994 đối với thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2 có diện tích
777 m2?
2) Việc ông chuyển quyền như vậy đã được sự đồng ý của các chị em ông chưa?
3) Vào thời điểm ông làm đơn chuyển quyền thừa kế đó, bao gồm những tài sản gì?
2.1.2. Hỏi bà Chu Thị Thanh
1) Bà hãy cho HĐXX biết, trước ngày 20/1/1994 chị em bà có bao giờ thỏa thuận
hay bàn về việc chia di sản thừa kế của cha mẹ bà để lại không?
2) Khi biết việc ông Sinh chuyển quyền thừa kế như vậy, bà đã có những hành động
gì? Chính quyền địa phương có ý kiến gì với yêu cầu đình chỉ chuyển quyền thừa
kế của chị em bà?
3) Khi bốn chị em bà giao cho ông Thuyên trông nom, quản lý thì thời điểm đó trên
thửa đất này có những tài sản gì? Của ai?
4) Giấy trông nom này có được sự đồng ý của đầy đủ 4 chị em, ông Thuyên và bà
Tám hay không?

5) Khi biết được bà Tám xây nhà trên đất do bố mẹ mình để lại Nguyên đơn có phản
ứng gì không?
6) Từ năm 1994 đến nay, bà Tám có thực hiện liên tục việc chia 50% lợi tức từ việc
thu hoạch các sản phẩm cây cối trên đất cho chị em bà như thoả thuận hay không?
5


2.2.

Hỏi bị đơn – bà Đinh Thị Tám
1) Bà hãy trình bày cho HĐXX biết nguồn gốc thửa đất mà nguyên đơn kiện đòi lại?
2) Thửa đất mà hai bên đang tranh chấp hiện tại do ai đứng tên?
3) Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/01/1994 được lập giữa vợ chồng Bị đơn với
ông Sinh, tại buổi thực hiện việc chuyển quyền thừa kế Các bà Thanh, Loan, The
không có mặt và biết về việc này không?
4) Bà có ý kiến gì về việc UBND xã Phù Vân đã tạm đình chỉ việc giao quyền thừa
kế giữa ông Sinh và ông Thuyên chồng bà vào ngày 10/4/1994?
5) Bà hãy cho HĐXX biết, bà có biết nội dung trong tờ Giấy mà 4 người con của bà
Cúc (bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The) lập giao cho vợ chồng của bà trong
đất không? Vậy việc bà xây dựng nhà trên diện tích đó có nằm trong nội dung tờ
giấy đó không?

2.3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
2.3.1. Hỏi bà Chu Thị Loan
1) Trước ngày 20/1/1994 chị em bà có bao giờ bàn về việc chia di sản thừa kế của
cha mẹ bà?
2) Vào thời điểm nào bà biết việc ông Sinh chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc
Thuyên?
3) Chị, em bà có họp gia đình thống nhất giao cho ông Thuyên quản lý, thu hoa màu
có lập biên bản không?

4) Hiện nay nguyện vọng của bà như thế nào đối với việc giải quyết vụ án?
2.3.2. Hỏi bà Chu Thị Mai
1) Tài sản trên đất mà ông Sinh, bà Thanh đang kiện đòi mẹ đẻ bà (mẹ con bà đang
ở) là của ai?
2) Phần nghĩa vụ tài chính và thuế đối với thửa đất này từ trước đến nay ai nộp?

6


3.

LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

BẢN LUẬN CỨ

Kính thưa:

- Hội đồng xét xử
- Vị đại diện Viện Kiểm sát
- Toàn thể quý vị đang có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay

Tôi là luật sư
– Thuộc văn phòng Luật sư AN thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hà Nội. Tôi tham gia phiên toà hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh trong vụ án “tranh
chấp quyền sử dụng đất” với bị đơn là bà Đinh Thị Tám, được đưa ra xét xử ngày hôm
nay.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, trao đổi với các đương sự và theo dõi diễn biến phiên

tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh. Chúng tôi xin khẳng
định, các yêu cầu bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh đưa ra là hoàn toàn có căn cứ
và hợp pháp.
I.

CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý đã đảm bảo đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự. Trong quá trình giả quyết vụ án cho đến thời điểm diễn ra phiên tòa ngày
hôm nay, không phát sinh các tình tiết tố tụng làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ
án.
II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Việc chuyển nhượng di sản thừa kế của ông Sinh là trái pháp luật
Thứ nhất, diện tích đất tranh chấp là tài sản thừa kế thuộc sở hữu chung của 4
người, bao gồm bà Thanh, ông Sinh, bà Loan và bà The.

7


Ông Trường chết năm 1945, bà Cúc chết năm 1990, hai ông bà có bốn người con là
Thanh, Sinh, Loan, The. Di sản để lại gồm mảnh đất diện tích 777 m 2 thuộc thửa số 2, tờ
bản đồ số 40 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Theo khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, Mục 1 Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người
chết để lại.”
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, Mục
4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990 quy định:

“Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Từ các căn cứ nêu trên, khẳng định bốn người con của ông Trường, bà Cúc thuộc
hàng thừa kế thứ nhất, và di sản là mảnh đất 777m2 được chia làm bốn phần bằng nhau.
Thửa đất (bao gồm cả hoa lợi, lợi tức có được, phát sinh từ tài sản đó) là tài sản thừa
kế của bốn người con gồm Thanh, Sinh, The, Loan nên quyền sở hữu được xác lập chung
giữa bốn người.
Thứ hai, việc chuyển nhượng di sản thừa kế do ông Sinh tự mình định đoạt, không
được sự chấp thuận của các đồng thừa kế.
Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của bà Đinh Thị Tám ngày 21/11/2012 (BL 38-40),
bà Tám thừa nhận rằng việc chuyển quyền thừa kế toàn bộ đất đai, nhà cửa và cây cối trên
thửa đất trên chỉ do ông Sinh chuyển cho vợ chồng bà Tám. Bà Thanh, bà Loan và bà The
không hề biết sự việc trên.
Ngoài ra, theo nội dung thỏa thuận ngày 15/04/1994 (BL 10-11) của bốn chị em bà
Chu Thị Thanh về việc giao quyền trông nom di sản thừa kế cho vợ chồng ông Thuyên,
bà Tám, thì vợ chồng ông bà Thuyên - Tám chỉ thực hiện việc trôm nom quản lý, không
được làm thay đổi hiện trạng và thực hiện bất kỳ công việc gì ngoài việc trông nom, quản
lý và thu hoạch cây trái.
Theo quy định tại Điều 681 BLDS năm 2005 về Họp mặt những người thừa kế: Sau
khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có
thể họp mặt để thoả thuận bao gồm nhưng không giới hạn về: Cử người quản lý di sản,
xác định quyền, nghĩa vụ của những người này và mọi thỏa thuận của các đồng thừa kế
đều phải lập thành văn bản.
Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định việc ông Sinh tự ý chuyển nhượng lại toàn bộ di
sản thừa kế cho ông Thuyên mà không hỏi ý kiến và chưa có sự đồng ý của các anh chị
em khác với tư cách là các đồng thừa là trái quy định pháp luật, dù có sự đồng ý của
8


trưởng thôn, trưởng tộc, xác nhận của UBND xã nhưng đều là không phù hợp với pháp
luật nên không có giá trị pháp lý.

Theo đó, vợ chồng ông bà Thuyên – Tám chỉ có quyền trông nom, quản lý và được
phép khai thác hoa màu từ diện tích đất trên theo thỏa thuận của các bên trong biên bản
giao quyền trông nom (BL 10-11).
2. Hành vi chiếm hữu và xây dựng nhà trái phép trên đất Nguyên đơn của Bị đơn
Việc bốn người con của ông Trường và bà Cúc ký thỏa thuận giao cho ông Thuyên
quyền quản lý, trông nom di sản thừa kế, căn cứ theo quy định tại Điều 638 BLDS năm
2005 thì ông Thuyên chính là người quản lý phần di sản đó. Ông Thuyên có các quyền và
nghĩa vụ theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005 về Nghĩa vụ của người quản lý di
sản và Điều 640 BLDS năm 2005 Quyền của người quản lý di sản.
Theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005, người quản lý di sản không được bán,
tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác nếu không được
những người đồng thừa kế đồng ý bằng văn bản.
Đến ngày 3/3/1999 thì ông Thuyên mất, các đồng thừa kế vì ở xa nên chưa có điều
kiện để về chia di sản nên việc trông nom di sản do vợ ông Thuyên là bà Tám tiếp tục
thực hiện. Bà Tám có nghĩa vụ phải giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế là phù
hợp theo quy định của pháp luật.
Đến tháng 6/2012, bà Tám thực hiện việc xây dựng trái phép trên mảnh đất di sản.
Ngày 19/6/2012, trong biên bản hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà Thanh và bà Tám tại
UBND xã Phù Vân (BL 25-26) đã kết luận:
1- Việc bà Tám xây dựng là xây dựng trái phép;
2- Đất đang tranh chấp là đất của bà Chu Thị Cúc chứ không phải là đất của bà Tám;
3- Việc xây dựng của gia đình bà Tám yêu cầu giữ nguyên hiện trạng.
Tuy nhiên bà Tám không chịu ký vào văn bản và vẫn tiếp tục hành vi xây dựng trái
phép.
Đến ngày 25/10/2012 theo đơn yêu cầu của ông Sinh về việc giải quyết tranh chấp
đất đai và hành vi xây dựng trái phép của bà Tám, UBND xã đã tiến hành mời hai bên lên
hòa giải lần hai, nhưng bà Tám cố tình vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Hành vi
của Tám cho thấy sự bất chấp trước pháp luật, cố tình trì hoãn việc trả lại đất cho các
đồng thời kế.
Do đó, việc bà Tám tự ý xây dựng các công trình trên đất là vi phạm quy định của

pháp luật vì bản thân bà Tám không có quyền sử dụng đối với thửa đất trên.

9


Căn cứ theo quy định tại Điều 255 BLDS năm 2005 về Các biện pháp bảo vệ quyền
sở hữu thì “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Căn cứ tại Điều 256 BLDS năm 2005 về Quyền đòi lại tài sản thì “Chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Theo quy định tại Điều 599 BLDS năm 2005 về nghĩa vụ hoàn trả thì “Người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải
hoàn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó”.
Mặt khác theo quy định tại điểm b, mục 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
TANDTC, trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế, nhưng các thừa kế không
trực tiếp sử dụng quản lý, mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu, quản lý theo ủy
quyền thì các thừa kế có quyền kiện đòi tài sản.
Từ những căn cứ trên, kết luận việc chiếm hữu và xây dựng của bà Tám là không có
căn cứ pháp luật nên thân chủ tôi và các anh chị em của thân chủ tôi hoàn toàn có quyền
yêu cầu bà Tám phải trả lại tài sản và tháo dỡ toàn bộ nhà và công trình xây dựng trái
phép trên thửa đất.
3. Bị đơn vi phạm thỏa thuận trông nom, quản lý di sản và thu hoa lợi, lợi tức
Theo thỏa thuận giao quyền trông nom, quản lý di sản ngày 15/4/1994 (BL 10-11)
có sự đồng tình của bên giao là bốn người con của bà Cúc và ông Thuyên là bên nhận.
Căn cứ thỏa thuận thì “Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến tháng
15 tháng 4 năm 1999, với nội dung thỏa thuận: giao quyền trông nom, quản lý cho người

nhận trong nom, nhà cửa tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản
phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây
dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét, các cây
cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm phải có
sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ông Chu Khắc Thuyên được hưởng 50%
(năm mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà Thanh sử dụng – mở tài khoản ở
ngân hàng do bà Chu Thị Thanh đứng tên)”.
Nhưng trong thời gian trông nom, gia đình ông Thuyên dù có thực hiện việc thu
hoạch hoa lợi trên đất của bà Cúc nhưng cho đến nay ông Thuyên không hề trích 50% thu

10


nhập từ hoa lợi trên đất cho bốn chị em bà Thanh và việc Nguyên đơn kiện đòi Bị đơn
phải thanh toán số tiền trên là có căn cứ.
Từ những phân tích và dẫn chứng nêu trên, cho thấy các yêu cầu của nguyên đơn
hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:
1- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích 777m2 đất tại thửa số 40 lập năm 1998,
địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị Thanh, ông
Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Loan và bà Chu Thị The.
2- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám tháo dỡ nhà và các công trình đã xây dựng trái phép
trên thửa đất.
3- Buộc bà Đinh Thị Tám phải trả lại nhà và cây cối trên diện tích 777m2 đất tại
thửa số 40 lập năm 1998 của gia đình và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập
cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù Vân, thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994).
Trên đây là toàn bộ luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tôi –
Bà Nguyễn Thị Tuyết. Tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng và
tham gia phiên tòa đã chú ý lắng nghe ý kiến của tôi.


11



×