Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật tại phường nghĩa đô, cầu giấy, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.73 KB, 69 trang )

BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN
CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI PHƯỜNG NGHĨA ĐÔ,
CẦU GIẤY, HÀ NỘI
Ngành đào tạo: Công tác xã hội
Mã số ngành: 7760101

Họ và tên sinh viên: Đặng Thị Nhâm

Người hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp:
TS. Nguyễn Thị Hương

HÀ NỘI, NĂM 2018


2

2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Hương.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận
văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Sinh viên thực hiện luận văn


Đặng Thị Nhâm

2


3

3

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu các thầy, cô giáo, cán bộ quản
lý Trường Đại học Lao động và Xã hội đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình học tập tại trường.
Và đặc biệt, em xin gửi đến giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị
Hương lời cảm ơn chân thành nhất về những định hướng quan trọng, những
sự động viên giúp đỡ, đồng hành cùng em trong suốt quá trình thực hiện bài
khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến ban lãnh đạo cùng các cán bộ nhân viên
thuộc chi hội người khuyết tật phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố
Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành
việc thu thập số liệu phục vụ cho bài khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng bài viết vẫn còn những thiếu sót. Rất
mong nhận được những sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để bài nghiên cứu
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Tác giả
Đặng Thị Nhâm

3



4

4

MỤC LỤC

4


5

5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nội dung đầy đủ

1
2
3
4

CTXH
NKT
NVXH

TC

Công tác xã hội
Người khuyết tật
Nhân viên xã hội
Thân chủ

5


6

6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

6


7

7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất kì quốc gia nào, muốn đảm bảo xã hội phát triển bền vững,
ngoài yếu tố đảm bảo về mặt kinh tế, chính trị…vấn đề đảm bảo An sinh xã
hội cũng được coi là một nhân tố cốt yếu. Để đảm bảo được điều đó, việc
quan tâm tới các đối tượng yếu thế trong xã hội là một trong những ưu tiên
hàng đầu. Một trong những đối tượng được an sinh xã hội hướng tới là người

khuyết tật (NKT).
Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc (2016) ước tính có khoảng 10-15%
dân số thế giới ( tức là khoảng 700 triệu cho đến 1 tỉ người) là NKT và 80%
trong số họ đang sống ở các nước đang phát triển. NKT chiếm 20% trong số
người nghèo nhất trên thế giới và rất khó khăn trong tiếp cận giáo dục, việc
làm, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ trợ giúp xã hội khác.
Tại Việt Nam, ước tính của tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2017 NKT
Việt Nam chiếm khoảng 8% dân số tương đương 8,6 triệu người. Tỉ lệ NKT
trên dân số dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng lên do những nguyên nhân xuất phát
từ ảnh hưởng hệ quả của quá trình phát triển xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi
trường, do bom mìn còn thất lạc sau chiến tranh…NKT phải đối mặt với rất
nhiều những khó khăn khi hòa nhập đời sống xã hội, một trong số đó là vấn
đề việc làm.
Nhằm hỗ trợ NKT phát huy khả năng của mình để đáp ứng nhu cầu của
bản thân, tạo điều kiện để vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động
kinh tế xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội, Thủ tướng chính phủ
đã phê duyệt đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012-2020. Theo đó mục tiêu đề
ra đến năm 2020, cả nước ta có 300.000 NKT trong độ tuổi lao động còn khả
năng lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp.
“Được lao động, được có việc làm” không chỉ là một trong những nhu
cầu cơ bản mà còn là quyền của mỗi con người. Việc làm cho NKT ngoài đem
lại thu nhập, tự chủ về kinh tế mà còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
NKT. Họ được tự khẳng định mình, hòa nhập cộng đồng, lạc quan, xóa tự ti
và mặc cảm.
Theo báo cáo tổng kết năm 2017 của hội NKT quận Cầu Giấy, chi hội
NKT phường Nghĩa Đô là chi hội có số lượng hội viên cao nhất quận Cầu
7


8


8

Giấy, chị hội gồm 48 thành viên, các thành viên có độ tuổi từ 18-55 chiếm
58% tổng số NKT và còn khả năng lao động là 52%. Có thể thấy, số lượng
NKT đa phần nằm trong độ tuổi lao động , tuy nhiên những hoạt động tạo
việc làm để đáp ứng nhu cầu cho NKT chưa nhiều. Do đó hoạt động hỗ trợ
việc làm cho NKT ở chi hội phường Nghĩa Đô đang trở thành vấn đề rất cần
thiết trong tình hình hiện nay.
Công tác xã hội (CTXH) ở Việt Nam vẫn là ngành còn non trẻ nhưng có
nhiều tiềm năng. Việc vận dụng các tri thức, phương pháp và kĩ năng CTXH
vào thực tiễn là hết sức cần thiết. Nó góp phần tích cực vào việc xử lý những
vấn đề và tình huống xã hội một cách có hiệu quả.
Chính vì những lý do trên đã gợi mở cho tôi đề tài: “Công tác xã hội
trong hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật tại phường Nghĩa Đô, Cầu
Giấy, Hà Nội” nhằm đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp giúp hoạt động
hỗ trợ tạo việc làm cho NKT đạt hiệu quả cao hơn nữa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT. Đồng
thời tìm hiểu thực trạng hoạt động CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT tại
địa bàn phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó
đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lí luận về NKT, CTXH trong hỗ trợ việc làm cho
NKT.
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng, những khó khăn, rào cản đối với NKT
trong quá trình tìm kiếm việc làm.
Đưa ra các giải pháp và khuyến nghị nhằm hỗ trợ NKT trong tìm kiếm,
hướng nghiệp và đào tạo việc làm phù hợp.

4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là: CTXH trong hỗ trợ việc làm
cho NKT tại phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
5. Khách thể nghiên cứu
Điều tra bằng bảng hỏi 48 NKT tại phường Nghĩa Đô.
8


9

9

Phỏng vấn sâu 2 thành viên trong ban lãnh đạo chi hội NKT phường
Nghĩa Đô và 5 người thân của NKT.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về thực trạng CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT.
Không gian: phường Nghĩa Đô, quận cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Thời gian: từ ngày 09/04/2018-30/04/2018.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tác giả chủ yếu sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
7.1.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản là phương pháp sử dụng kĩ
thuật chuyên môn nhằm thu thập và rút ra từ những nguồn tài liệu các thông
tin cần thiết cho việc nghiên cứu thực trạng CTXH trong hỗ trợ việc làm cho
NKT tại phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Các tài liệu được tập trung thu thập bao gồm: các văn bản, chính sách

của nhà nước về hỗ trợ việc làm cho NKT, các bài báo cáo tổng kết về công
tác hỗ trợ việc làm cho NKT của phường Nghĩa Đô, các bài viết, thông tin kết
quả nghiên cứu về CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT của các tác giả
khác.
Những nơi thu thập tài liệu: từ Ban lãnh đạo chi hội NKT phường
Nghĩa Đô, thư viện trường đại học Lao động Xã hội, các trang báo điện tử,
thông tin tài liệu trên internet.

7.2.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Bảng hỏi là một công cụ quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Đó là hệ
thống các câu hỏi được sắp xếp dựa trên cơ sở các nguyên tắc tâm lý, logic,
và theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể hiện
được quan điểm của mình với những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu và
người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá nhân đầu tiên đáp ứng yêu
cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu.
Cũng tuân theo những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng bảng hỏi,
tuy nhiên phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi có những yêu cầu tỉ mỉ
và chi tiết hơn như: tất cả các câu hỏi cần phải được diễn đạt sao cho khi đọc
9


10

10

lên ai cũng hiểu được ý nghĩ của nó và sẵn sàng cung cấp thông tin, việc trình
bày cũng phải rõ ràng, sạch đẹp để thể hiện sự tôn trọng đối với người được
nghiên cứu.

Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi trong phạm vi 48
NKT thuộc chi hội NKT phường Nghĩa Đô để thu thập thông tin phục vụ mục
đích nghiên cứu của đề tài.
7.3.

Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng để thu thập những thông tin
mang tính chiều sâu, những vấn đề chưa được đề cập, cần được làm rõ hơn
thông qua chia sẻ của những người được phỏng vấn. Thông qua quá trình
phỏng vấn, người nghiên cứu cũng có khả năng kiểm chứng mức độ tin cậy
của thông tin thu được và có thể dẫn dắt người được phỏng vấn theo định
hướng của nhà nghiên cứu, nhằm thu được những thông tin cần thiết cho đề
tài nghiên cứu.
Trong đề tài này, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 2 thành viên trong
ban lãnh đạo chi hội NKT phường Nghĩa Đô, 5 người thân của NKT để nắm
bắt được tình hình các đối tượng và tìm hiểu thực trạng hỗ trợ việc làm cho
NKT trên địa bàn phường, những khó khăn trở ngại trong quá trình thực hiện.

7.4.

Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng
nghiên cứu bằng cách quan sát lại các hành vi, cử chỉ và ghi chép lại những
nhân tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa với mục đích
nghiên cứu.
Trong bài khóa luận, phương pháp quan sát được sử dụng để quan sát
trực quan từ những hoạt động, hành vi của NKT, thực tế cơ sở vật chất và các
tương tác của NKT với môi trường xung quanh để có những thông tin bổ sung
thêm luận chứng cho kết quả nghiên cứu.


7.5.

Phương pháp vãng gia
Vãng gia là hoạt động đến thăm gia đình đối tượng có mục đích để nắm
bắt được tình hình, thực trạng đối tượng, những khó khăn mà đối tượng đang
gặp phải để từ đó có những đánh giá mang tính toàn diện hơn, kết hợp với
phương pháp quan sát giúp người nghiên cứu có thêm nhiều thông tin phục vụ
quá trình nghiên cứu của mình.

7.6.

Phương pháp thống kê toán học
10


11

11

Thống kê là khoa học về các phương pháp thu thập tổ chức, trình bày,
phân tích và xử lý số liệu. Thống kê giúp ta phân tích các số liệu một cách
khách quan và rút ra các tri thức, thông tin chứa đựng trong các số liệu đó.
Trên cơ sở này, chúng ta mới có thể đưa ra được những dự báo và quyết định
đúng đắn.
Sau khi có số liệu, sinh viên tiến hành thống kê tính toán, phân tích và so
sánh số liệu thu thập được nhằm mục đích phục vụ cho đề tài nghiên cứu,
đảm bảo đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính khoa học.
8. Kết cấu khóa luận
Bài khóa luận bao gồm 3 phần:
-


Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho
người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người
khuyết tật tại địa bàn phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

-

Phần kết luận, giải pháp và khuyến nghị

11


12

12

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ
TRỢ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1 Khái niệm người khuyết tật
1.1.1.1 Khái niệm
Theo Công ước quốc tế về quyền của NKT năm 2006 định nghĩa
“Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất,
tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác
nhau có thể cản trở đến sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội
trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội” .

Tại Trung Quốc, Luật về bảo vệ NKT ban hành năm 1990 định nghĩa:
người khuyết tật là người bị “mất khả năng về nhìn, nghe, nói hoặc thể chất,
mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật và các dạng
khuyết tật khác”.
Tại Đức, sách số chín của Bộ Luật Xã hội định nghĩa: người khuyết tật
là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lí tiến triển không bình
thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không
bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào
cuộc sống xã hội.
Ở Việt Nam hiện đang sử dụng khái niệm theo quy định tại khoản 1
Điều 2 Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 của Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/6/2010 như sau: “Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp khó khăn”. Theo quy định này thì NKT là những cá nhân có đủ các
điều kiện là: (i) Có khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy
giảm chức năng, (ii) các khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
suy giảm chức năng phải được biểu hiện ở một trong sáudạng tật và (iii)
khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng là nguyên nhân khiến
người đó gặp khó khăn khi tham gia lao động, sinh hoạt, học tập.
1.1.1.2 Phân loại người khuyết tật
12


13

13

Phân loại khuyết tật dựa trên các dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật.
Khái niệm dạng khuyết tật

Theo Điều 2 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 thì dạng
khuyết tật được hiểu là những biểu hiện thực thể bên ngoài của NKT và là căn
cứ để xếp loại các nhóm khuyết tật. Theo quy định dạng mức độ khuyết tật
hiện nay gồm 6 dạng như sau:
Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động
đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển;
Khuyết tật nghe nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói
hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế
trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói;
Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận
ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường
bình thường;
Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm
xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động
bất thường.
Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể
khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không
thuộc các dạng khuyết tật trên.
Khái niệm mức độ khuyết tật
Mức độ khuyết tật được hiểu là các tiêu chí hay căn cứ để xác định và
xếp loại mức độ khuyết tật của NKT theo mức độ khó khăn trong lao động,
học tập và sinh hoạt của NKT. Theo quy định hiện nay (Khoản 2 Điều 3, Luật
Người khuyết tật), thì mức độ khuyết tật được chia làm 3 mức độ như sau:
Khuyết tật đặc biệt nặng: mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát
hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá
nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà
cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.

Khuyết tật nặng: mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm
13


14

14

soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ
sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng
ngày mà cần có người theo dõi trợ giúp, chăm sóc.
Khuyết tật nhẹ: khuyết tật nhưng vẫn thực hiện các chức năng và hoạt
động bình thường.
1.1.1.3 Đặc điểm tâm lý người khuyết tật
Người khuyết tật mang trong mình sự mặc cảm, tự ti khi cơ thể không
được lành lặn giống như bao người bình thường khác. Họ rất dễ bị kích động,
khó kiểm soát phản ứng khi bị phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng. Đa phần
NKT đều cảm thấy số phận mình không được may mắn, là gánh nặng cho
người thân, gia đình. Do đó họ thường sống khép kín, ngại giao tiếp với mọi
người. Trong quá trình tương tác với mọi người trong gia đình, cộng đồng họ
thường có cảm xúc buồn, thất vọng và hay tự ái. Do đó khi tiếp xúc, giao tiếp
với NKT cần hết sức chú ý về cách cư xử, lời nói để tránh làm tổn thương
NKT.
Do tâm lý tự ti nên NKT đa phần không phát huy được khả năng của
bản thân, họ rụt rè, e ngại sự soi mói của xã hội, sợ đám đông, tự đánh giá
mình thấp hơn so với những người bình thường khác.
Sự khiếm khuyết ở một (hoặc vài chức năng) đã trở thành rào cản đối với
việc hoà nhập của NKT bởi nhu cầu của họ chưa được xã hội tính đến. Các
thiết kế công cộng thường chỉ dành cho những người có các chức năng được
thực hiện bình thường, do vậy NKT khó tiếp cận các dịch vụ giao thông, công

cộng, giáo dục, việc làm… và cuối cùng họ bị cô lập hoặc bị loại trừ khỏi
những sinh hoạt cộng đồng. Cũng từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng,
tiếp cận giáo dục… NKT bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn
và cơ hội việc làm cũng như thu nhập cũng thấp hơn. Vòng luẩn quẩn còn
được tiếp tục khi những khó khăn về vật chất lại dẫn đến những thiệt thòi về
tinh thần: NKT có thể bị coi là gánh nặng của gia đình, xã hội, bị coi thường,
bị ngược đãi hoặc bỏ mặc… Như vậy, tình trạng khuyết tật làm tăng nguy cơ
nghèo đói và sự nghèo đói lại làm tình trạng khuyết tật bị trầm trọng thêm.
Như vậy, chỉ khi nắm bắt được tâm lý NKT, NVXH mới tìm ra được
những cách thức can thiệp phù hợp vừa để tránh làm tổn thương NKT, vừa
giúp NKT hòa nhập cộng đồng, ổn định tâm lý, xây dựng cuộc sống tốt đẹp
hơn, góp phần củng cố nền an sinh nước nhà
14


15

15

1.1.1.4 Nhu cầu của người khuyết tật
Mỗi cá nhân NKT là một bức tranh hết sức đa dạng, phong phú về nhân
cách, có khả năng, nhu cầu và sở thích riêng. Tuy nhiên, điểm chung của họ là
đều có nhu cầu được tôn trọng, được đối xử bình đẳng, hòa nhập cộng đồng.
Và một trong những biểu hiện cụ thể là họ mong muốn có được việc làm phù
hợp để tự nuôi sống bản thân, không phụ thuộc vào ai.
Chỉ khi họ có thể tự tạo ra thu nhập, bản thân họ mới cảm thấy tự tin vì
mình không phải là người vô dụng và mình có khả năng nuôi sống bản thân
và những người xung quanh. Điều đó sẽ là động lực để NKT vươn lên trong
cuộc sống. Tuy nhiên không phải NKT nào cũng biết cách để tìm kiếm việc
làm, do đó họ rất cần được hỗ trợ. Có nhu cầu được tư vấn, học tập dạy nghề,

có việc làm ổn định.
Những định kiến từ xã hội, với suy nghĩ NKT là người vô dụng, là gánh
nặng của gia đình và xã hội. Những lời trêu trọc về hình dáng bên ngoài của
NKT càng làm cho họ cảm thấy mặc cảm về ngoại hình, chú trọng quá mức
đến khiếm khuyết trên cơ thể đó là nguyên nhân chính làm cản trở NKT có
cuộc sống tốt đẹp, nó là rào cản vô hình nhưng tàn nhẫn đẩy nhiều người ra
bên lề của cuộc sống.
Bất cứ một sự hỗ trợ nào đều phải xuất phát từ nhu cầu của đối tượng.
Nhận thấy được nhu cầu và vai trò to lớn của hỗ trợ việc làm cho NKT,
NVXH cần thực hiện nhiều biện pháp phù hợp để giúp đỡ NKT, giúp họ ổn
định được cuộc sống, bù đắp lại những thiệt thòi mà họ đang phải gánh chịu.
1.1.2 Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội (CTXH) được xem như là một nghề mang tính chuyên
nghiệp ở nhiều quốc gia từ gần thế kỷ nay. CTXH tồn tại và hoạt động khi
xuất hiện những vấn đề cần giải quyết như tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng
giới, và giúp đỡ những thành phần dễ bị tổn thương như trẻ mồ côi, người tàn
tật, trẻ đường phố, trẻ bị lạm dụng…Tuy nhiên ở Việt Nam, CTXH là một
ngành nghề còn khá mới mẻ, và nhiều người vẫn lầm tưởng CTXH là hoạt
động từ thiện. Để hiểu rõ hơn về CTXH, cần phải nắm được khái niệm
CTXH. Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về CTXH, dưới đây là những định
nghĩa của một số tác giả.
Từ điển bách khoa ngành CTXH (1995) định nghĩa “ CTXH là một khoa
học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả của con người, tạo ra những chuyển
15


16

16


biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân”.
Tại Đại hội liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế ở Canada năm 2004,
CTXH được định nghĩa với ý nghĩa tăng cường năng lực và phát triển, giải
phóng con người: “CTXH là hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự thay
đổi (phát triển) của xã hội. Bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn
đề xã hội ( vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội), vào quá trình tăng
cường năng lực và giải phóng tiềm năng của mỗi cá nhân, gia đình và cộng
đồng, CTXH giúp cho con người phát triển đầy đủ và hài hòa hơn, đem lại
cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân”.
Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004) : Định
nghĩa cổ điển công tác xã hội nhằm giúp cá nhân và cộng đồng Tự Giúp. Đó
không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh
của hệ thống thân chủ cá nhân nhóm và cộng đồng để họ tự giải quyết vấn đề
của mình.
Tóm lại, “Công tác xã hội có thể hiểu là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao
năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc
đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá
nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp
phần đảm bảo an sinh xã hội”[4,tr.28].
1.1.3 Khái niệm hỗ trợ việc làm
Khái niệm hỗ trợ:
Theo từ điển Tiếng Việt thì hỗ trợ là: Giúp đỡ nhau, giúp thêm vào: hỗ
trợ bạn bè, hỗ trợ cho đồng đội kịp thời.
Hỗ trợ về khía cạnh xã hội là sự tương trợ giữa người với người, những
người biết hỗ trợ cho những người chưa biết. Kẻ mạnh có thể hỗ trợ cho
những kẻ yếu thế để tạo ra mỗi quan hệ tốt đẹp cùng phát triển, tiến tới xã hội
văn minh hơn.
Hỗ trợ về khía cạnh kinh tế : Người có tiền sẽ hỗ trợ cho những người
không có tiền, người có tiềm lực kinh tế hỗ trợ cho những người có trí tuệ để

cùng nhau phát triển phục vụ mục tiêu chung.
Tóm lại, có thể hiểu hỗ trợ là sự giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người,
những người có khả năng lực và khả năng sẽ giúp đỡ những người yếu thế, sự
giúp đỡ ở đây có thể là về vật chất hoặc tinh thần nhằm tạo cho họ một cuộc
16


17

17

sống ổn định, góp phần thúc đẩy nền an sinh nước nhà.
Khái niệm việc làm
Theo ILO đã định nghĩa việc làm như sau: “Người có việc làm là người
đang làm những việc làm pháp luật không cấm, được trả tiền công hoặc lợi
nhuận, hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc người tham gia vào các
hoạt động tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận
tiền công hay hiện vật”.
Với những định nghĩa trên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc làm là
công việc hợp pháp mà người lao động tiến hành để nhận tiền công, tiền
lương hoặc hiện vật, hoặc để thu lợi nhuận cho bản thân để tạo ra các thu
nhập trực tiếp dưới dạng các sản phẩm cần thiết để nuôi sống bản thân và gia
đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
Như vậy, theo Điều 13 chương II Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc làm được quy định rõ: “Mọi hoạt động tạo
ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Khái
niệm này nhằm giải tỏa quan điểm cũ cho rằng chỉ làm việc trong khu vực
Nhà nước mới được coi là việc làm, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ
trong khu vực kinh tế quốc doanh mà cả khu vực ngoại quốc doanh và trong
gia đình cũng đều được coi là việc làm.

Từ 2 khái niệm trên tác giả đưa ra khái niệm về hỗ trợ việc làm là:
“Hỗ trợ việc làm là các hoạt động của Nhà nước, các tổ chức xã hội,
nhằm tạo ra các cơ hội, các hướng đi mới, giúp cho người lao động, mất việc
làm có được việc làm, đồng thời giúp cho người lao động có thể định hướng
được nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp phù hợp điều kiện, năng lực của bản
thân từ đó ổn định đời sống hạn chế tình trạng thiếu việc làm và thất
nghiệp.”
1.1.4 Khái niệm công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật
Tại Việt Nam, bên cạnh những hình thức trợ giúp NKT như can thiệp
sớm, giáo dục, phục hồi chức năng thì công tác dạy nghề và giải quyết việc
làm cho NKT cũng là một hình thức được đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện
thuận lợi từ phát triển hạ tầng cơ sở đến chính sách trợ giúp NKT tham gia
học nghề cũng như giáo viên dạy nghề. Luật Dạy nghề năm 2012 đã dành
toàn bộ chương VII quy định dạy nghề cho người tàn tật, người khuyết tật với
mục tiêu giúp đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao
17


18

18

động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống.
Với hỗ trợ việc làm : Để tăng khả năng tiếp cận chính sách của NKT
và thực thi chính sách tạo việc làm hiệu quả , bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà
nước, sự nỗ lực tự thân của NKT thì nhân viên xã hội bằng các phương pháp
của CTXH có thể thực hiện chức năng kết nối nguồn lực, vận động chính
sách, hỗ trợ pháp lý cho NKT. Nhân viên CTXH có thể kết nối với các đơn vị
có nhu cầu để sử dụng NKT vào làm việc thông qua các chương trình hợp tác,
dự án với các tổ chức trong và ngoài nước.

Tóm lại, theo tác giả nghiên cứu thì CTXH trong hỗ trợ việc làm cho
NKT là: “Nhân viên công tác xã hội sử dụng các phương pháp và kĩ năng
nghề nghiệp thông qua các hoạt động như hỗ trợ tâm lý, tư vấn giới thiệu
việc làm, hỗ trợ tìm kiếm việc làm…nhằm giúp người khuyết tật phát huy
được năng lực bản thân, có được việc làm phù hợp, ổn định cuộc sống, hòa
nhập cộng đồng.”
1.2 HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.2.1 Hoạt động hỗ trợ tâm lý
Tâm lý là hiện tượng tinh thần, là đời sống nội tâm của con người. Tâm
lý không phải là những gì cao siêu xa lạ mà chính là những gì con người suy
nghĩ, hành động, cảm nhận,.. hàng ngày.Tâm lý con người phong phú đa
dạng. Tâm lý có sức mạnh to lớn nó có thể giúp con người có thêm sức mạnh
để vượt qua khó khăn nhưng cũng là yếu tố khiến con người trở nên yếu đuối,
sống khép kín.
Người khuyết tật là một trong những nhóm đối tượng yếu thế, trong họ
luôn mang những mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh của bản thân nên rất cần được
hỗ trợ về tâm lý.
Hỗ trợ tâm lý cho NKT có thể hiểu là những hoạt động giúp cho NKT
cảm thấy thoải mái tinh thần hơn, trở nên vui vẻ, lạc quan, có cái nhìn tích
cực về cuộc sống, sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội, hòa nhập cộng
đồng.
Các biểu hiện thường gặp về tâm lý của NKT
Biểu hiện qua nhận thức:
-

NKT cho rằng mình bị người khác coi thường, kì thị, xa lánh.
Luôn có cái nhìn tiêu cực về cuộc sống, cảm thấy mình là người có số phận
18



19

-

19

bất hạnh.
Không tin vào khả năng của bản thân, nghĩ rằng mình là gánh nặng cho gia
đình, người thân.
Biểu hiện qua cảm xúc, tình cảm:

-

Dễ tự ái, hay xúc động
Hay cảm thấy cô đơn, buồn tủi.
Tự ti về chính bản thân mình.
Có những dự đoán bi quan và tiêu cực trong cuộc sống
Biểu hiện qua hành vi:

-

Dễ nổi nóng, cáu giận
Ít nói, không muốn giao tiếp với mọi người, sống khép kín.
Không muốn ra ngoài, không tham gia vào các hoạt động xã hội.
Không phát huy khả năng của bản thân, có thể có những hành động hủy hoại
bản thân.
Có rất nhiều những NKT còn mang gánh nặng tâm lý, chưa thực sự tự
tin và sẵn sàng học nghề hòa nhập cộng đồng thì nhiệm vụ của nhân viên
CTXH sẽ tham vấn tâm lý giúp họ ổn định trong suy nghĩ và mạnh mẽ đưa ra

quyết định cho bản thân.
Ngoài ra, NVXH còn tham vấn giúp cá nhân NKT nhìn nhận lại vấn đề
của mình, tự xem xét bản thân và thay đổi một cách hiệu quả nhất. Có những
NKT bẩm sinh họ đã chấp nhận số phận của mình là một NKT và cố gắng
vươn lên, còn những trường hợp là một người bình thường, không may gặp
tai nạn hoặc do bệnh tật tiềm ẩn khiến họ bị mất đi khả năng như mọi người
khác và họ trở thành NKT khiến họ bị khủng hoảng về tâm lý, không có đủ
mạnh mẽ để cố gắng hòa nhập cộng đồng. Như vậy hoạt động tham vấn tâm
lý là rất cần thiết trong hỗ trợ việc làm cho NKT, tâm lý phải ổn định thì mới
có thể thực hiện tốt các hoạt động khác, giúp họ nhìn nhận lại vấn đề, biết
chấp nhận và cố gắng thay đổi để tạo niềm tin vào cuộc sống làm lại bản thân,
không có những mặc cảm xã hội.
Phần lớn NKT thường tự ti mặc cảm nên ngại đi học. Đại đa số NKT
thường học nghề chưa đến nơi đến chốn vì gia đình hoặc không quan tâm đến
nhu cầu đi học và có việc làm của con, hoặc sợ con khổ, hoặc không tin con
mình có thể làm việc được. Những gia đình có người thân mới trở thành NKT
cũng trải qua những đau đớn và bối rối tương tự. Đặc biệt hơn, mất đi một
19


20

20

phần hay nguồn thu nhập chính từ người thân giờ đã trở thành khuyết tật, mất
cả một công lao động để phải chăm sóc cho NKT này, và những thay đổi
trong tâm tính của người mới bị khuyết tật làm cho sự khuyết tật trở thành
một sự khủng hoảng cho cả gia đình.
Mọi người, cả NKT lẫn các thành viên khác của gia đình, đều mệt mỏi
và thay đổi. Những bậc cha mẹ và các thành viên trong những gia đình này

thường không biết phải làm gì hoặc tìm đến ai khi cần. Và thái độ thương hại
hay tội nghiệp của những người thân quen càng làm cho họ đau khổ hơn. Họ
hết sức cần những hỗ trợ thích hợp để không cảm thấy đơn độc hay bị bỏ rơi
trong tình huống bất ngờ nhưng sẽ gắn bó lâu dài với cuộc sống của họ và cả
gia đình.
Người NVXH phải hiểu được cảm xúc và phản ứng của TC đối với sự
khuyết tật, ảnh hưởng của sự khuyết tật đối với gia đình của NKT, tác động
của sự khuyết tật đến vai trò và mối quan hệ của các thành viên trong gia
đình, và cả những rắc rối cá nhân hay vấn đề xã hội khác để từ đó tham vấn
cho NKT và gia đình, giúp họ lập kế hoạch cá nhân và sử dụng tối đa những
nguồn nội lực và ngoại lực sẵn có trong cộng đồng để có thể giải quyết vấn đề
đang gặp phải.
1.2.2 Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm
Tư vấn là hoạt động thu thập, xử lý thông tin, vận dụng kiến thức chuyên
môn, phát hiện vấn đề từ đó đề xuất những phương án, giải pháp để giải quyết
vấn đề. NVXH tư vấn cho NKT về các chính sách, chương trình dịch vụ của
Nhà nước về hỗ trợ việc làm cho NKT, những thủ tục vay vốn, cung cấp
những thông tin về cơ hội việc làm đồng thời, kết nối họ với các nguồn lực trợ
giúp như các trung tâm dạy nghề, các câu lạc bộ việc làm của NKT,..
Người khuyết tật có những hạn chế nhất định trong các chức năng vận
động, nghe, nhìn....ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề sao cho phù hợp với
bản thân. Rất nhiều NKT còn khả năng lao động và mong muốn có việc làm
nhưng họ chưa biết bắt đầu từ đâu và làm như thế nào, bối rối trong việc lựa
chọn việc làm sao cho phù hợp. Do đó, NVXH cần có những can thiệp giải
quyết vướng mắc trong việc chọn nghề gì phù hợp cho học viên, xác định
hướng tạo việc làm sau đào tạo cho họ như thế nào là tốt. NVXH sẽ có vai trò
tư vấn, khích lệ sự tham gia, tư vấn chọn nghề, hỗ trợ NKT tiếp cận được với
chính sách đào tạo nghề phù hợp với tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh và nhu
cầu nguyện vọng của họ.
20



21

21

Tuy nhiên NVXH vẫn luôn phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp, đó là không làm thay, không làm hộ thân chủ (TC) và dành quyết tự
quyết cho TC, NVXH chỉ đóng vai trò là chất xúc tác để tạo ra sự thay đổi của
TC, giúp TC giải quyết vấn đề của mình.
Giới thiệu việc làm được hiểu là một hoạt động cung cấp thông tin, đưa
ra những gợi ý nghề nghiệp phù hợp với bản thân NKT,đồng thời kết nối với
các cơ sở dạy nghề, đạo tạo việc làm nhằm mục đích hỗ trợ việc làm cho
NKT.
Từ việc tìm hiểu nhu cầu, mong muốn và khả năng của từng đối tượng,
NVXH sẽ giới thiệu họ đến các trung tâm đào tạo nghề để họ được đào tạo
học nghề, có cơ sở, nền tảng để phát triển nghề nghiệp sau này. Bởi có rất
nhiều NKT chưa biết đến các trung tâm đào tạo nghề, hoặc không biết các thủ
tục, làm như thế nào để vào được đó do đó họ rất cần được kết nối, giới thiệu.
Có những NKT họ có khả năng nhưng lại chưa biết phát huy những điểm
mạnh của bản thân, NVXH sẽ giúp họ tự tin thể hiện bản thân mình bằng việc
tham gia các hoạt động lao động hay tự tạo việc làm cho bản thân với các
công việc phù hợp với đặc điểm, khả năng, mong muốn của từng đối tượng.
Các công việc mà NKT thường hay được giới thiệu đó là may mặc, các nghề
thủ công như mây tre đan lát, hàng mã,tẩm quất massa cho người mù…đó đều
là những công việc giản đơn phù hợp với tình hình sức khỏe và trình độ của
NKT. Những NKT có điều kiện sẽ tự đứng lên kinh doanh đơn giản như mở
cửa hàng tạp hóa, kinh doanh nhỏ lẻ…Tất cả các hoạt động đó đều nhằm giúp
NKT có được việc làm, ổn định cuộc sống hòa nhập cộng đồng, sống vui
khỏe, có ích.

1.2.3 Hoạt động hỗ trợ tìm kiếm việc làm
Sau khi được giới thiệu vào các trung tâm đào tạo nghề, mặc dù đã được
đào tạo việc làm nhưng rất nhiều NKT vẫn chưa tìm kiếm được việc làm cho
mình. Hoặc có những NKT chưa có trình độ chuyên môn nhưng có mong
muốn có được việc làm, do đó cần thực hiện hoạt động hỗ trợ tìm kiếm việc
làm.
Với hoạt động này, NVXH còn đóng vai trò là người tuyên truyền, vận
động nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất khi nhận lao
động là NKT sẽ được hưởng những ưu đãi gì trong hoạt động sản xuất kinh
doanh (hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện môi trường làm việc phù hợp cho
21


22

22

NKT; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển
sản xuất kinh doanh; miễn hoặc giảm tiền thuê đất mặt bằng làm sản xuất
kinh doanh…) để nâng cao cơ hội việc làm cho NKT. Tuy nhiên, để NKT trở
thành người lao động bình thường đòi hỏi rất nhiều hỗ trợ để có thể đảm bảo
tiếp cận được thị trường lao động và các hoạt động dạy nghề và đào tạo nghề.
NVXH cần phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể hỗ
trợ NKT được tham gia hỗ trợ học nghề miễn phí, dạy nghề gắn với tạo việc
làm phù hợp cho NKT.
Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã có nhiều biện pháp xúc tiến
việc làm cho NKT như ban hành và thực thi nhiều chính sách ưu đãi, khuyến
khích các doanh nghiệp sử dụng lao động là NKT, hỗ trợ cơ sở sản xuất kinh
doanh của NKT, thành lập Quỹ Quốc gia về việc làm, triển khai nhiều chương
trình dự án tạo việc làm cho NKT tại một số địa phương như “Dự án xây

dựng hỗ trợ sinh kế cho NKT giai đoạn 2008-2010”, ngành Lao động-Thương
binh và Xã hội thường xuyên tổ chức các hội chợ việc làm , trong đó có khu
vực dành riêng cho NKT với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, cơ sở dạy
nghề. Do vậy, NKT có nhiều cơ hội việc làm hơn và số lượng có việc làm đã
tăng lên hàng năm.
NKT có khả năng lao động là một lực lượng không hề nhỏ trong xã hội.
NKT nếu được tạo điều kiện về môi trường làm việc, có công việc, có thu
nhập sẽ không trở thành gánh nặng cho xã hội, mà có thể mang lại những
đóng góp lớn cho cộng đồng.
Một số dạng tật của NKT gây khó khăn trong tiếp cận thông tin, mạng
lưới viễn thông cũng như nhiều hoạt động khác trong cuộc sống, dẫn tới NKT
không được tiếp cận thông tin đầy đủ, hạn chế cơ hội, nhìn nhận sự vật có thể
phiến diện, một chiều, mất đi cơ hội trong cuộc sống và cơ hội về xây dựng và
phát triển quan hệ xã hội; mất đi sự tự tin và tự chủ khi thực hiện giao tiếp xã
hội có thể dẫn tới tự ti, bế tắc khi giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Do đặc điểm của NKT ít giao tiếp, ít tham gia các hoạt động xã hội nên
việc cập nhật các tin tức, văn bản pháp luật còn hạn chế nên dễ đánh mất đi cơ
hội và quyền lợi của mình. NVXH với vai trò là người cung cấp các thông tin,
các chính sách ưu đãi của nhà nước về hỗ trợ việc làm cho NKT. Ví dụ như
chính sách vay vốn hỗ trợ sản xuất giúp NTK có nhu cầu tự tạo việc làm hoặc
hộ gia đình tạo việc làm cho NKT được biết và hưởng các chính sách ưu đãi
để sản xuất kinh doanh (chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm…).
22


23

23

Nhân viên xã hội cũng giúp cho các thành viên khác trong xã hội hiểu

rõ hơn về NKT và bản chất của sự khuyết tật để xã hội có cái nhìn đúng về
NKT và sự thiếu công bằng cơ hội mà họ luôn gặp phải, từ đó tác động đến
những người liên quan đến việc phát triển các chính sách cũng như những tổ
chức có những chương trình phát triển xã hội để những người này bao gồm sự
tham gia của NKT vào quá trình ra quyết định, cũng như tham gia giám sát và
lượng giá việc thực hiện những quyết định liên quan đến cuộc sống của chính
họ.
Phối hợp, vận động tìm nguồn lực, nguồn tài nguyên hỗ trợ cho NKT,
gia đình NKT. Xây dựng các chương trình kế hoạch hành động giúp đỡ NKT
và tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động, kế hoạch đã xây dựng. Đề xuất
ý kiến soạn thảo chính sách về NKT. Làm công tác biện hộ cho NKT khi
NKT không được hưởng những quyền lợi mà đáng ra họ được hưởng.
Tất cả những hoạt động đó đều nhằm hỗ trợ NKT tìm kiếm việc làm, có
thể khẳng định đây là một hoạt động quan trọng và ý nghĩa với NKT, do đó
những NKT có mong muốn tìm được việc làm đều rất quan tâm đến hoạt
động này.
1.3 MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HỖ TRỢ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.3.1. Yếu tố bản thân người khuyết tật
Có nhiều yếu tố từ bản thân NKT cản trở họ tiếp cận việc làm, đầu tiên
phải kể đến là yếu tố thể chất. NKT đa phần đều có sức khỏe không tốt, sự
khuyết tật một hoặc một vài bộ phận trên cơ thể khiến họ gặp khó khăn trong
di chuyển, sinh hoạt hàng ngày, thường xuyên ốm đau, bệnh tật khiến sức
khỏe yếu đi, không làm được những công việc nặng nhọc. Do đó việc tìm
kiếm một công việc phù hợp cũng gặp rất nhiều khó khăn. Có rất nhiều NKT
mong muốn được làm việc, được lao động không chỉ để tạo ra thu nhập mà
hơn hết còn khiến họ vơi bớt đi cảm giác buồn chán, cảm thấy bản thân có
ích. Tuy nhiên, do tình trạng sức khỏe khiến họ “lực bất tòng tâm”.
Tiếp nữa phải kể đến yếu tố về tâm lý NKT. Như đã phân tích ở trên,
NKT đa phần đều mang trong mình sự tự ti, mặc cảm chính điều đó đã khiến

họ không dám thể hiện bản thân, sống khép mình, hạn chế giao tiếp xã hội. Sự
tự kì thị của chính bản thân NKT càng làm cho họ có cái nhìn tiêu cực hơn
đối với cuộc sống. Họ e dè không muốn bước ra ngoài xã hội, lo sợ bị chê
23


24

24

cười, mỗi lần người khác nhìn vào họ lại nghĩ người khác đang có ý bàn tán
mình, soi mói khiến họ càng sống khép mình hơn. Đó cũng là nguyên nhân
khiến NKT không muốn bước ra ngoài xã hội tìm kiếm việc làm cho mình
mặc dù họ có khả năng, có sức khỏe.
Một yếu tố nữa là về trình độ của NKT, NKT đa phần đều có trình độ
học vấn chưa cao, chính điều này đã gây ra những cản trở trong việc tìm kiếm
việc làm. Trong khi xã hội đang ngày càng phát triển, trình độ học vấn con
người đang ngày càng nâng cao, yêu cầu tuyển dụng cũng đòi hỏi trình độ cao
hơn thì NKT dường như đang bị thụt lùi do đó họ rất cần được đào tạo nghề
để tìm kiếm việc làm.
1.3.2. Yếu tố gia đình người khuyết tật
Gia đình luôn luôn là chỗ dựa vững chắc nhất đối với mỗi người, đặc
biệt là NKT thì vai trò của gia đình càng quan trọng hơn khi đóng vai trò trực
tiếp chăm sóc NKT, là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Gia đình luôn là những
người gần gũi nhất và có ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ và hành động của
mỗi người.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn rất nhiều những NKT bị chính người
thân trong gia đình hắt hủi, xa lánh, kỳ thị, thậm chí là bị bỏ mặc. Sự nhận
thức không đúng đắn của những người này ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt
động của CTXH trong hỗ trợ việc làm cho NKT như họ không tạo điều kiện

để NKT tham gia các buổi tư vấn, giới thiệu việc làm bằng việc không đưa
đón, hỗ trợ vấn đề đi lại, hay không hợp tác cùng NVXH trong quá trình giúp
đỡ NKT.
Do đó, không chỉ làm việc với đối tượng mà còn phải làm việc với cả
gia đình họ. Một cá nhân không thể tách khỏi hệ thống tổng thể, gia đình có
vai trò vô cùng quan trọng, đó có thể là nguồn lực to lớn trong trợ giúp đối
tượng đồng thời cũng có thể là trở ngại khiến quá trình trợ giúp gặp khó khăn.
Do đó chúng ta hãy làm hết sức để tạo điều kiện cho gia đình hoàn thành vai
trò trong việc bảo đảm rằng những NKT được hưởng đầy đủ các quyền con
người và nhân phẩm, được phát triển đầy đủ với tư cách là những cá nhân
bình thường. Đó là thông điệp mà xã hội ngày nay luôn hướng đến nhằm góp
phần vào sự phát triển an sinh xã hội.
1.3.3 Yếu tố cơ sở vật chất
Đa phần những NKT đều gặp phải khó khăn khi tiếp cận các cơ sở vật
24


25

25

chất. Cuộc sống của họ luôn gặp khó khăn trong các vấn đề như di chuyển,
tiếp cận với các công trình công cộng. Ví dụ như đường đi không bằng phẳng,
gồ ghề, không phải mọi xe buýt đều được trang bị thiết bị nâng xe lăn, việc
chờ đợi thường là quá dài và không thật sự thoải mái. Hơn nữa, vào giờ cao
điểm nhiều NKT bị từ chối lên xe buýt với lý do xe quá chật, không có chỗ
cho xe lăn; Nhiều nhà vệ sinh công cộng không có buồng thiết kế riêng cho
người dùng xe lăn hoặc nếu có thường nằm ở các vị trí cuối và khó tiếp cận,
các thiết kế tại các công trình công cộng, văn phòng làm việc còn chưa thực
sự thân thiện với NKT như vị trí lắp đặt công tắc đèn, bậc thềm lên xuống,…

chính những điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hòa nhập cộng đồng,
tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất của NKT.
Không chỉ có vậy, để có thể hỗ trợ tạo việc làm cho NKT cần có nhiều
hoạt động, do đó cần có phòng ốc, địa điểm diễn ra các hoạt động, nguồn kinh
phí. Tuy nhiên vẫn còn đang gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề cơ sở vật chất
đó cũng là những hạn chế cần phải được khắc phục trong quá trình hỗ trợ
NKT tìm kiếm việc làm.
1.3.4 Yếu tố đội ngũ nhân viên xã hội
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho NKT rất
quan trọng vì vậy đây cũng là một trong những yếu tổ ảnh hưởng tới công tác
hỗ trợ việc làm.
Phát triển nghề CTXH trong cộng đồng là một trong những giải pháp
hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã hội, trợ giúp các nhóm đối tượng yếu thế
ngay tại địa bàn, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Do đó, để hướng tới
chuyên nghiệp hóa nghề CTXH thì việc phát huy năng lực, vai trò của đội ngũ
nhân viên là yêu cầu hết sức cần thiết.
Nhân viên xã hội là những người có kiến thức, kỹ năng, họ là cầu nối
giữa đối tượng với các nguồn lực hỗ trợ của xã hội và là người biết quan tâm
động viên TC vượt qua khó khăn để vươn lên trong cuộc sống. NVXH còn là
người giúp cho gia đình và cộng đồng hiểu rõ những nhu cầu và năng lực của
NKT từ đó tạo ra môi trường thuận lợi để NKT phát huy khả năng của mình.
Ngoài ra NVXH cần phải nắm rõ hệ thống các văn bản quy định chính sách
hỗ trợ cho NKT từ đó có thể cung cấp thông tin giúp NKT và gia đình nắm
bắt được, đáp ứng được quyền lợi mà mình được hưởng.
Tuy nhiên NVXH tại phường, xã còn hạn chế về số lượng và chất
lượng, chưa được đào tạo bài bản về chuyên ngành CTXH chưa nắm bắt được
25



×