Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Bài thu hoạch chính trị hè 2018 (3 mẫu bài thu hoạch bồi dưỡng chính trị hè 2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.69 KB, 47 trang )

BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ HÈ 2018 - Mẫu số 1
Câu 1. Hãy trình bày những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 26NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban chấp hành trung ương khóa XII về “tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Đồng chí tâm đắc nhất nhiệm vụ giải pháp nào? Vì sao?
Trả lời
* Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 26-NQ/TW ngày
19/5/2018
Ngày 19/5/2018 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Trong đó nêu rõ 8 nhóm giải pháp.
1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên
Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu tranh với
những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền,
nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây
dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc; kết hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập,


bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ
được đào tạo ở nước ngoài.
2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên


hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả
những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
Thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán
bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp
với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát
chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc
đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung.
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều,
theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so
sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực
hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân
chuyển cán bộ theo các hướng: Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công
chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm
vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng,
khu vực. Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập
ngoại ngữ. Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy
mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để
rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Thực hiện việc bố trí bí
thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo mục tiêu đề ra;
khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Uỷ
ban nhân dân, nếu có điều kiện. Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát
hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh


vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc
gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay
người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ thể:

Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp uỷ các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số
lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào
cũng phải có cấp uỷ viên. Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại
hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu
cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và
cam kết trách nhiệm thực hiện. Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải
kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp uỷ cấp dưới thì không giới thiệu để
bầu cấp uỷ cấp trên. Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ,
cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo
đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với
trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu...
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo
vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của đất nước. Xây dựng chính sách nhà ở
theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy
hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện
nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng.
Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong
công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả
khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và
tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng


những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới
thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương: Mở rộng việc thi
tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng. Người đứng đầu lựa

chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm
cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ theo một
quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm
về việc giới thiệu của mình. Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong
quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm
về quyết định của mình.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp
ứng yêu cầu trong thời kỳ mới
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách
nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để
xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng trang bị kiến thức về công tác cán bộ
cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp uỷ, người đứng đầu
các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước và nước
ngoài.
Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm,
khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất
lượng, hợp lý về cơ cấu.
Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ,
công chức, viên chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao sức chiến đấu của


lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; có chính sách ưu
đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên
các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính Đảng đối với cán bộ
trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là người đứng đầu; xây dựng quy định về

tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị
trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông, bình đẳng, nhất quán
trong hệ thống chính trị; liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công
chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh
tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
và tiến tới bỏ chế độ "biên chế suốt đời".
Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: Xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ. Địa phương, cơ quan, đơn vị phải thực hiện
nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định của cấp có thẩm quyền. Cơ quan sử dụng
cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả. Người đứng đầu chịu trách nhiệm
chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Bản thân cán bộ thực hiện nghiêm các quy
định, quy chế, cam kết của mình; báo cáo, giải trình trung thực và chịu trách nhiệm
khi có yêu cầu.
Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng,
thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ, có
sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu.
Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong, thăng quân hàm, nâng ngạch để
thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
Quân đội, Công an có đề án riêng để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc
và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.


4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy định và
đáp ứng yêu cầu, theo hướng:
Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử
thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có "sản phẩm" cụ thể, có triển vọng phát

triển.
Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ
năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng,
phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển
khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh
quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho
các chức danh cấp chiến lược.
Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào
các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng
đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội cho các nhiệm kỳ.
Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất
lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản
lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt. Chủ động chuẩn bị nhân
sự, xây dựng "hình ảnh" các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, các
đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện,
thử thách đối với Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán


bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các
ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
5. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy
quyền
Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế;

quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân
sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp
thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện
thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo
chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên.
Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai
trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Huỷ bỏ, thu hồi
các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ
chức, cá nhân sai phạm, không có "vùng cấm".
Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác định
rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi
đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt,
hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng


giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự
của cán bộ để hình thành văn hoá không chạy chức, chạy quyền.
6. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ
Thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội
ngũ cán bộ.

Thường trực cấp uỷ các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, phó bí thư,
uỷ viên ban thường vụ và cấp uỷ viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; đảng
viên công tác tại xã, phường, thị trấn sinh hoạt đảng tại chi bộ khu dân cư. Thực
hiện việc phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình nơi cư trú với các hình
thức phù hợp để gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở; đồng thời, qua đó để nhân
dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống.
Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân
giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người
dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một
cách phù hợp.
Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư
gửi đến cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua
các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
7. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm lo
xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự trong


sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người
đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp.
Nâng cao nhận thức, chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu
quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh chồng chéo,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán
bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đẩy mạnh cải cách hành chính; chuẩn hoá văn
bản pháp quy; tin học hoá, tự động hoá trong quản lý và điều hành.
Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng
đội ngũ làm công tác cán bộ "trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh
thông" đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiêm trị các hành vi tiêu cực
trong công tác cán bộ, nhất là việc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền.
Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các
cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ.
Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những chủ
trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về công tác tổ chức, cán
bộ.
8. Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại
hội Đảng toàn quốc
Xây dựng, hoàn thiện các văn bản liên quan đến công tác nhân sự đại hội phù
hợp với từng giai đoạn phát triển, nhất là Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp và
Phương hướng công tác nhân sự sát với tình hình thực tế.
Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề
chính trị của cán bộ; thực hiện việc bố trí, sắp xếp, điều động, luân chuyển, đề bạt,


bổ nhiệm cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện trên cơ sở quy hoạch để chuẩn bị tốt nhân
sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
Tổ chức các lớp cán bộ dự nguồn trong quy hoạch ở các cấp để bổ sung,
nâng cao kiến thức, hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phù hợp với từng nhóm
đối tượng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại
hội Đảng toàn quốc.
Ban thường vụ cấp uỷ từng cấp căn cứ tình hình cụ thể để sử dụng các cơ

quan chuyên môn một cách phù hợp trong việc tiến hành khảo sát, đánh giá nhân
sự theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội và các công việc cần thiết
khác có liên quan.
Đồng chí tâm đắc nhất nhiệm vụ giải pháp nào? Vì sao?
Thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên cần tập trung vào 2 trọng tâm và
5 đột phá:
Hai trọng tâm là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác
cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện
để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấp đi
đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời,
tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Năm đột phá là: Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục,
đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so
sánh với chức danh tương đương; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng,
thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; Thực hiện nhất quán
chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở
những nơi đủ điều kiện; Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực


cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo
cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; Hoàn thiện cơ chế
để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của
nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Câu 2. Hãy cho biết các phong cách làm việc của cán bộ Đảng viên theo
tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh? Hãy trình bày nội dung phong
cách đồng chí tâm đắc nhất?
Ở cơ quan, đơn vị đồng chí đã có những giải pháp như thế nào để thực
hiện tốt việc học tập làm theo phong cách làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh?

Trả lời
Các phong cách làm việc của cán bộ Đảng viên theo tư tưởng đạo đức
phong cách Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy” và đi đến kết luận: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Vì thế, Người rất quan tâm đến xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng, trong đó có xây dựng, rèn luyện phong cách công tác. Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong cách làm
việc, phong cách công tác của người cán bộ, đảng viên cần tập trung thực hiện các
nội dung sau:
1. Phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” - Hồ Chí Minh cho
rằng, đây là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng
ta thực hiện nguyên tắc “tập trung dân chủ” và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do”. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí
dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ,
đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như
vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó


được coi trọng, được khen ngợi thì những người đó càng thêm hăng hái làm việc.
Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh
thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ
quan, đoàn thể thêm gắn bó. - Người có tác phong dân chủ là người thực hành tốt
nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đó là cách “để phát huy trí tuệ và
kinh nghiệm của nhiều người”. Cán bộ không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải
thành thực lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh
thần cầu thị. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến,
cấp dưới nể trọng. - Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “Thực
hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Nếu người

cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc
thì họ theo lối “quan” chủ” là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn
thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị mà công
việc vẫn không chạy”. - Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ
có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân
chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt
Đảng là “tập trung dân chủ”.
2. Phong cách làm việc quần chúng - Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ
phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên tắc về
vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần
dân liệu cũng xong”. - Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi
quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng, phải thường
xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng, không
liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất
bại”. - Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” vì “trong
dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”.
Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí


của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận
quần chúng “chậm tiến”, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. - Phong cách
quần chúng là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực
thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực tiễn theo ý mình.
Theo Người, “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi
đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… - Phong
cách làm việc quần chúng của cán bộ, đảng viên còn bao gồm cả trong sinh hoạt.
Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng
điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc
trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện”. Khi

người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân
yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
3. Phong cách làm việc khoa học - Theo Hồ Chí Minh, cán bộ làm việc gì
cũng phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn vậy, người cán bộ
phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì
phải làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc
ấy”. Hết sức tránh chuyện vạch ra “chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết
thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian
của nhân dân. - Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết
giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong
một thời gian ngắn nhất. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng
cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải
quyết dứt điểm từng công việc. Không ôm đồm, làm quá nhiều việc, nhiều việc
không dứt điểm, không hiệu quả. - Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người
cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế
để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể
chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “bệnh cận thị - không trông xa, thấy rộng.
Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”. Người


cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu
dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách
làm việc khoa học. - Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có
cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý. Lại phải biết
cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được
việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái
gì… Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ vì “có kiểm tra… mới
biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Cán
bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”. - Phong
cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh

nghiệm cho lần sau và cho người khác. Người viết: “Công việc gì bất kỳ thành
công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng
rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán
bộ tiến tới”.
4. Phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm - Theo Hồ Chí Minh, trước
hết phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về
mọi mặt; phải cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm. Cần
nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải
không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm
để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa
mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết,
thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn
cảnh nào phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, để việc công lên trên, lên trước
việc tư. - Muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Với cán bộ, đảng viên,
sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt
tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh
đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn
thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên


phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi
đôi với làm để quần chúng noi theo. - Hồ Chí Minh yêu cầu ai cũng phải nêu gương
về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, “cán bộ gắng làm gương trong anh
em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”. Làm gương cả về ba mặt: tinh
thần, vật chất và văn hoá. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. - Để giáo dục bằng nêu gương
đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất xây dựng Đảng, xây dựng

các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Trong gia đình,
cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong
nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì
cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người
khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự
tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp nhân
dân nhìn vào đó mà noi theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, những
điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu. - Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng
viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn,
áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù
xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát
nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm.
Đó là tư tưởng đạo đức, phong cách nêu gương, tự giác, gương mẫu Hồ Chí Minh,
mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải tự giác làm theo.


BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ HÈ 2018 - Mẫu số 2
Họ và tên:………………………………….
Chức vụ:…………………………………...
Đơn vị công tác:…………………………...
Câu 1 - Nhận thức của cá nhân về thực trạng, nguyên nhân và mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp trong việc thực hiện Nghị quyết của Hội Nghị lần thứ sáu
hoặc Nghị quyết của Hội Nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khóa XII; chương trình hành động của Tỉnh ủy về việc thực hiện các nghị quyết
đó.
Nhận thức của cá nhân về thực trạng, nguyên nhân và mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp trong việc thực hiện Nghị quyết của Hội Nghị lần thứ sáu (khóa XII) qua
truyền hình trực tuyến từ ngày 30-31/08/2018.
Qua nghiên cứu, học tập bốn nghị quyết mà Hội nghị Trung ương Đảng lần

thứ 6 ban hành gồm: Nghị quyết về "một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả"; Nghị
quyết về "tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập"; Nghị quyết về "tăng cường công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới"; Nghị
quyết về "công tác dân số trong tình hình mới". Bản thân nhận thấy đây là những
quyết sách quan trọng của Đảng, đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn, hệ trọng của đất
nước, vừa cơ bản, vừa cấp bách và là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm mà
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra".
Thứ nhất: Nghị quyết “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”
Trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, gương
mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được
đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị
đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới.


Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ
chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chú
ý bảo đảm tính đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà
giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; đổi mới tích cực, mạnh mẽ, nhưng
không nôn nóng đi từ cực này sang cực khác, không bi quan khi đương đầu với
nhiều khó khăn, phức tạp; gắn đổi mới bộ máy tổ chức với đổi mới phương thức
lãnh đạo, với tinh giản biên chế và cải cách tiền lương; xử lý hài hoà mối quan hệ
giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống
chính trị ở nước ta phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong giai đoạn mới; trên
cơ sở đó xác định những công việc cần thiết và có thể triển khai thực hiện ngay. Rà
soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức;

chú ý quy định số lượng cấp phó tối đa của mỗi tổ chức phù hợp với đặc điểm của
từng cấp, từng ngành, từng địa phương.
Xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng đắn
trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài
vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sắp xếp, kiện toàn,
tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể
đảm nhiệm nhiều việc; một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm
chính, gắn với việc tái cơ cấu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; giảm tỉ lệ người phục vụ, nhất là khối hành chính.
Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa
Trung ương và địa phương. Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng
các quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu
quả; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc, đề cao trách nhiệm giải trình, xử lý;
xây dựng chế tài đủ mạnh; xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân, nhất là người
đứng đầu vi phạm, sai phạm.


Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin phục vụ lãnh đạo, điều hành; tinh giản tổ chức bộ máy,
biên chế. Thực hiện giao và quản lý chặt chẽ biên chế trên cơ sở phân loại tổ chức,
xác định rõ vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức.
Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ,
chính sách đãi ngộ phù hợp.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của Đảng với thanh tra
của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội,
các cơ quan dân cử. Tập trung ưu tiên triển khai ngay những việc đã rõ, đã chín, có
cả cơ sở lý luận và thực tiễn. Ví dụ, việc kết thúc hoạt động của các Ban Chỉ đạo
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; tổ chức, sáp nhập Đảng bộ Ngoài nước và
Đảng bộ Bộ Ngoại giao. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên
trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước. Cơ bản thực hiện mô

hình Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân; thực hiện Bí thư cấp
uỷ đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã những nơi có đủ điều
kiện.
Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi với xây dựng cơ chế kiểm
soát quyền lực và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Các Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ rà soát, chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ công cho doanh nghiệp, người
dân đảm nhiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương theo hướng
phân định rõ hơn tổ chức chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt.
Thứ hai: Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng, hiệu quả các đơn vị sự nghiệp công lập”
Cùng với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, công
việc này có tầm quan trọng không kém, được ưu tiên chỉ đạo thực hiện trong thời
gian tới. Nhà nước phải chăm lo bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản,
thiết yếu; nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp


nhân dân trên cơ sở tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước; giữ vững, phát huy
tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp của các đơn vị sự
nghiệp công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực mà khu vực ngoài
công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công; bảo đảm công bằng,
bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Trong quá trình
đổi mới, sắp xếp, phải bám sát đặc điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực, địa bàn,
đẩy mạnh xã hội hoá, nhưng không thương mại hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp
công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học công nghệ có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao gồm cả hình thức công ty cổ
phần.
Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công

lập. Chú ý rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại hình dịch vụ
sự nghiệp công và từng loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới, tăng cường
chế độ kế toán, hạch toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập, về cơ bản tương tự như đối với doanh nghiệp nhà nước.
Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động sự nghiệp do
Nhà nước giao với hoạt động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Ngân sách
nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu và các đơn vị sự
nghiệp công lập được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở
các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Khẩn trương
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên chức; rà soát, hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để khuyến khích, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tinh giản biên chế; đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các
đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản
trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.


Hội nghị TW 6 đã thảo luận, cho ý kiến về nhiều nội dung quan trọng, phức
tạp, nhạy cảm, tác động trực tiếp đến đời sống người dân, đó là: Giảm mạnh sự can
thiệp hành chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của
đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các
cấp trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp.
Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các Bộ, ngành,
địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
Kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm, sai phạm.
Thứ ba: Nghị quyết về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức
khoẻ nhân dân trong tình hình mới”
Việc bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ là trách nhiệm của mỗi người dân,
từng gia đình, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ
động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị

- xã hội, trong đó ngành Y tế là lực lượng nòng cốt hàng đầu.
Nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của các bệnh viện và cơ sở y tế công
lập trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm các dịch vụ cơ bản cho đông
đảo nhân dân, đồng thời khuyến khích cung cấp dịch vụ theo yêu cầu. Tập trung ưu
tiên đầu tư từ ngân sách và có cơ chế, chính sách phù hợp huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực xã hội để phát triển y tế và các dịch vụ liên quan đến bảo
vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Không ngừng phấn đấu nâng cao sức khoẻ, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng
cuộc sống của người Việt Nam; bảo đảm mọi người dân đều được bảo vệ, chăm sóc,
nâng cao sức khoẻ; bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc tham gia và hưởng
thụ bảo hiểm y tế và các dịch vụ có liên quan.
Phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng; xây dựng nền y
tế công bằng, nhân văn, hiệu quả, chất lượng và hội nhập. Phát triển cân đối, đồng
bộ giữa y tế phổ cập và y tế chuyên sâu, giữa dân y và quân y, gắn kết y học cổ


truyền với y học hiện đại. Thực hiện phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là
then chốt; y tế cơ sở thực sự là nền tảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống các cơ sở y tế hiện có của Nhà nước, bao gồm cả dân, quân y,
gắn với khuyến khích hợp tác công - tư, phát triển lành mạnh y tế ngoài công lập;
xây dựng hệ thống y tế rộng khắp, gần dân, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần chủ động, tích cực, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn dân tham
gia rèn luyện thân thể; cải thiện điều kiện sống, lối sống và làm việc; bảo vệ môi
trường sinh thái và vệ sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên luyện tập thể dục, thể
thao, sinh hoạt điều độ, lành mạnh. Tăng cường y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ
gắn với đổi mới, phát huy vai trò của hệ thống y tế cơ sở, góp phần khắc phục tình
trạng quá tải các bệnh viện, nhất là tuyến trên.
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; nâng cao y đức; phát triển ngành
dược và thiết bị y tế, bảo đảm đủ thuốc tốt và thiết bị bảo đảm chất lượng. Chăm lo

phát triển nguồn nhân lực và khoa học ngành Y. Nâng cao năng lực nghiên cứu,
triển khai ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật y tế, dược, sinh học.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tài chính y tế, đặc biệt là sớm thực hiện bảo
hiểm y tế toàn dân; đổi mới phương thức chi ngân sách nhà nước cho y tế; đổi mới
cơ chế về giá, phí dịch vụ phù hợp, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng thương mại hoá dịch vụ khám, chữa bệnh.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế gắn với chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế.
Thứ tư: Nghị quyết về “Công tác dân số trong tình hình mới”
Những năm qua, nước ta có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Cơ cấu dân số, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực. Nước
ta bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào


khoảng năm 2020 - 2030 với số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70%
dân số.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tầm vóc, thể lực của người
Việt Nam từng bước được cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng đáng kể (từ 65,3 tuổi
lên 73,4 tuổi). Dịch vụ dân số - kế hoạch hoá gia đình được mở rộng, chất lượng
ngày càng cao. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá, đô thị hoá, công nghiệp hoá dưới
tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và biến đổi khí hậu, thay đổi
về điều kiện, lối sống, môi trường sống, làm việc và môi trường sinh thái đã và
đang dẫn đến những thay đổi nhanh chóng về mô hình gia đình, kết hôn, ý thức và
khả năng sinh sản, tăng nhanh quá trình di cư...
Chính sách hạn chế mức sinh của ta kéo dài, rộng khắp cả nước bắt đầu bộc
lộ những hệ luỵ cần sớm được khắc phục. Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy,
cách làm để giải quyết toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả các vấn đề về dân số. Phấn
đấu duy trì ổn định vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ giới tính khi sinh về mức
cân bằng tự nhiên; duy trì và tận dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích
ứng với già hoá dân số, nâng cao chất lượng dân số, phân bố dân số phù hợp với
quá trình phát triển.

Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang
dân số và phát triển; chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất
lượng dân số và đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Coi công tác dân số và phát triển là nhiệm vụ của
toàn dân; đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển bền vững; Nhà nước
ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá; tranh thủ sự hợp tác, hỗ
trợ của quốc tế, bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm
quyền và trách nhiệm trong việc sinh và nuôi dạy con tốt để duy trì mức sinh thay
thế trên phạm vi cả nước với quy mô dân số hợp lý (khoảng 104 triệu người vào
năm 2030). Tập trung ưu tiên vận động sinh ít con hơn ở vùng có mức sinh cao;


duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có
mức sinh thấp. Ngăn ngừa tư tưởng, tâm lý không hạn chế số lần sinh con đang nổi
lên những năm gần đây. Đổi mới nội dung tuyên truyền vận động về công tác dân
số và phát triển. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách; phát triển mạng lưới và
nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ dân số, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
 Chương trình hành động của Tỉnh ủy về việc thực hiện các nghị quyết đó.
Chương trình số 26-CTr/TU, ngày 12-3-2018 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng, thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25-10-2017
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự
tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và của
toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về y tế và các lĩnh vực
ảnh hưởng đến sức khoẻ, như: môi trường, thể dục, thể thao, văn hoá,… vào các

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp. Thường
xuyên lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch
bệnh, tình hình cung ứng thuốc cho các cơ sở y tế; việc thực hiện các chế độ, chính
sách về y tế và các lĩnh vực liên quan đến sức khoẻ.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể tăng cường công tác phối hợp với các ngành,
các cấp có liên quan trong thực hiện công tác giáo dục, thông tin, tuyên truyền về
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ; tuyên truyền, vận động người dân
tham gia bảo hiểm y tế toàn dân và thực hiện các quy định về phòng dịch, phòng và
chữa bệnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để huy
động các tổ chức xã hội, tôn giáo tham gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ


nhân dân theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt công tác giám sát và phản biện
xã hội, trước hết là trong bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
2- Nâng cao sức khoẻ nhân dân
Các cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức, thay đổi hành
vi, đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi người dân
về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân; xây dựng và tổ chức
thực hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc người
Việt Nam, quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, phấn đấu tất cả người dân trong
tỉnh đều được bảo vệ, nâng cao sức khoẻ.
Phát huy hiệu quả các thiết chế văn hoá, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá,
thể dục, thể thao, các phong trào rèn luyện thân thể, vệ sinh phòng bệnh, y tế học
đường, tạo điều kiện, môi trường sinh hoạt, vui chơi lành mạnh,... Tăng cường
tuyên truyền, vận động xây dựng nếp sống văn minh, xoá bỏ các tập tục lạc hậu ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ.
3- Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh; xây dựng

phương án phòng, chống, hạn chế xảy ra dịch bệnh; đẩy mạnh công tác tuyên truyền
vệ sinh phòng bệnh; vận động nhân dân thực hiện tiêm chủng đối với các bệnh có vắc
xin phòng ngừa; chú trọng dự phòng, nâng cao năng lực sàng lọc, phát hiện sớm và
kiểm soát bệnh tật; quản lý, điều trị các bệnh không lây nhiễm, bệnh mãn tính, chăm
sóc dài hạn tại y tế cơ sơ. Đẩy mạnh kết hợp quân dân y, kết nối y tế cơ sở với các
phòng khám tư nhân, phòng chẩn trị đông y và các loại hình y tế hợp pháp khác.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cơ sở để thực
hiện tốt vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe. Triển khai đồng
bộ hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý trạm y tế, tiêm chủng, quản lý bệnh
tật, hồ sơ sức khỏe người dân gắn với quản lý, thanh toán bảo hiểm y tế. Có cơ chế,


lộ trình phù hợp, từng bước thực hiện để tiến tới mọi người dân đều được theo dõi,
quản lý sức khỏe, khám và chăm sóc sức khỏe định kỳ.
Chú trọng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, đặc biệt ở vùng sâu,
vùng khó khăn, vùng đông đồng bào dân tộc. Quan tâm chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả chiến tranh và các đối
tượng ưu tiên; phát triển mô hình chăm sóc người cao tuổi phù hợp.
4- Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng
Phát triển hệ thống khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng hoàn chỉnh ở tuyến
tỉnh, bên cạnh Bệnh viện Quân dân y và các bệnh viện chuyên khoa. Hoàn thiện hệ
thống phác đồ, quy trình, hướng dẫn điều trị thống nhất giữa các tuyến. Tiếp tục
phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh, lộ trình liên thông, công nhận kết quả xét
nghiệm giữa các cơ sở khám, chữa bệnh gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ và có
chính sách khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ y tế ngay tại tuyến dưới. Nâng
cao chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh, tăng cường giường bệnh và phát huy
hiệu quả hoạt động của bệnh viện đa khoa tuyến huyện để giảm tải Bệnh viện Đa
khoa tỉnh.
Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển y học cổ truyền, tăng cường
kết hợp y học hiện đại trong phòng bệnh, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng,

nâng cao sức khỏe.
Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế tuyến huyện, xã. Chủ động tiếp nhận và thực hiện
việc chuyển giao kỹ thuật, công nghệ từ các bệnh viện tuyến trên, nhằm nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn trong các hoạt động khám, chữa bệnh cho y tế cơ sở.
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
tài chính tại các bệnh viện và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
các dịch vụ y tế, bệnh viện tư nhân,…
5- Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế


×