Tải bản đầy đủ (.docx) (134 trang)

Sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.84 KB, 134 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1.Khả năng biết đọc, biết viết là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
năng lực của mỗi học sinh khi bước vào ghế nhà trường phổ thông. Là cơ sở
để học sinh lĩnh hội tri thức, trưởng thành trong học vấn và kĩ năng sống, sự
kiện biết đọc, biết viết làm thay đổi sâu sắc hoạt động ngôn ngữ và nhận thức
của trẻ em, giúp các em chuyển từ ngôn ngữ đời sống sang các cơ sở của
ngôn ngữ khoa học, tạo nhu cầu rèn luyện và sử dụng ngôn ngữ khoa học của
trẻ trong giao tiếp và trong cuộc sống hằng ngày.
Học đọc học viết là cả một quá trình lâu dài và phức tạp đối với hầu hết
các trẻ. Ngày nay, các nhà khoa học đều cho rằng thời thơ ấu và những năm
học mẫu giáo là giai đoạn quan trọng cần thiết để phát triển kĩ năng tiền đọc
viết cho trẻ , chuẩn bị cho trẻ học tập ở tiểu học. Vì vậy chúng ta cần chuẩn bị
khả năng tiền đọc viết cho trẻ trước khi trẻ học đọc, học viết chính thức ở lớp
một. Giáo dục mầm non không có nhiệm vụ dạy trẻ đọc viết nhưng chuẩn bị
khả năng tiền đọc viết lại là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đặc biệt là cuối tuổi mẫu giáo, khi trẻ bắt
đầu chuyển hoạt động chủ đạo từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập
và chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một. Nếu trẻ có những kinh nghiệm và sự
chuẩn bị cho việc học đọc, học viết thì sẽ tăng cơ hội học tập và mức độ sẵn
2




sàng học đọc, học viết ở tiểu học. Đây là nền tảng quan trọng giúp trẻ phát
triển các năng lực học tập sau này.
1.2. Phát triển khả năng tiền đọc viết bao gồm chuẩn bị cho trẻ một số
kiến thức, kĩ năng đa dạng, cần thiết chuẩn bị cho việc đọc và viết như cho trẻ
làm quen với hệ thống chữ cái tiếng Việt; cho trẻ làm quen với các biểu tượng
đơn vị ngôn ngữ: âm, tiếng, từ, câu; cho trẻ làm quen dần với hành vi đọc viết
: ngồi cầm bút viết, tô trên giấy, sử dụng các quy ước đọc viết…trẻ không
được phát triển kiến thức, kĩ năng tiền đọc viết này thì sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi bước vào tiểu học.
Để thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ, chúng ta không thể áp dụng
nội dung, phương pháp, hình thức tiếp thu chính quy như đối với học sinh
tiểu học. Thời kì sơ khai của sự nhận thức chỉ có thể thông qua sự tự thân trẻ
tác dụng với môi trường để thực hiện sự nhận biết với môi trường xung
quanh. Do vậy mà môi trường trẻ sống có chữ viết rất có giá trị giáo dục, các
yếu tố của môi trường đã mang sẵn tính tổng hợp, tính trực quan và hình
tượng. Chữ viết ở khắp mọi nơi xung quanh trẻ , trẻ có thể dễ dàng chú ý khi
thấy biển quảng cáo, nội quy, tranh truyện , khi xem ti vi...vì vậy mà ở trẻ dần
dần hình thành các biểu tượng chữ viết một cách tự nhiên. Vì lẽ đó, sử dụng
môi trường chữ viết xung quanh trẻ với mục đích giáo dục hướng tới sự phát
triển khả năng tiền đọc viết giúp trẻ thỏa sức, hứng thú khám phá môi trường
chữ viết xung quanh mình qua đó thúc đẩy khả năng tiền đọc viết của trẻ.
1.3.

Hiện nay, dạy trẻ đọc viết sớm đang là vấn đề có tính thời sự được

sự quan tâm của xã hội với hai luồng quan điểm chính đó là dạy trẻ đọc viết
trước tuổi đến trường tiểu học và luồng ý kiến cho rằng không nên dạy trẻ biết
viết, biết đọc sớm mà chờ tới khi trẻ vào lớp 1. Thực tế cho thấy, dạy trẻ đọc viết

sớm gây ra những tác hại ở trẻ như : trẻ chủ quan, chán học; cách cầm bút sai, tư
thế ngồi không đúng ...đa số trẻ học viết sớm đều không phải là học sinh giỏi. Ở

3


các trường mầm non, cũng đã bắt đầu quan tâm tới việc chuẩn bị khả năng tiền
đọc viết cho trẻ,nhưng chúng ta chỉ mới chú trọng cho trẻ làm quen với chữ cái
qua các hoạt động chung. Nhiều trường mầm non cũng đã bắt đầu sử dụng môi
trường chữ viết xung quanh để tổ chức các hoạt động thúc đẩy khả năng tiền
đọc viết cho trẻ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn. Một số giáo viên
nhận thức sai lầm rằng không cần phải phát triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ
mà chỉ cần cho trẻ học thông qua các giờ làm quen với chữ cái hoặc tập viết sớm
cho trẻ. Giáo viên chú ý tới việc chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt
động có chủ đích mà không chú ý tới việc tận dụng môi trường chữ viết xung
quanh trẻ để trẻ tương tác, hoạt động trải nghiệm hàng ngày với chữ viết. Giáo
viên chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động giúp trẻ trải
nghiệm với môi trường chữ viết xung quanh...
Vì những lí do nêu trên,chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài:“Sử dụng
môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc viết của trẻ 5 - 6
tuổi ở trường mầm non ”
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp sử dụng môi trường chữ viết thúc đẩy khả
năng tiền đọc viết của trẻ 5 – 6 tuổi, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ học đọc,
học viết chính thức khi vào lớp 1.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu: Quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo 5 -6 tuổi
3.2 Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp sử dụng môi trường chữ viết
nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi

4. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa ra các biện pháp khai thác và sử dụng môi trường chữ viết
phù hợp với trẻ ở trường mầm non thì giáo viên sẽ thúc đẩy khả năng tiền đọc

4


viết cho trẻ. Đây là cơ sở để trẻ học tập tốt tiếng việt ở trường tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm phát
triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
5.2. Thực trạng việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy khả
năng tiền đọc viết cho trẻ 5 -6 tuổi
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp sử dụng môi trường
chữ viết nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 -6 tuổi.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Trong giới hạn đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số
biện pháp sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc viết
cho trẻ 5 -6 tuổi ở trường mầm non.
- Địa bàn nghiên cứu: một số trường mầm non ở thành phố Hà Nội
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Đọc, phân tích, hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên
cứu. Phương pháp này nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho vấn đề nghiên cứu
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra:
- Sử dụng phiếu anket danh cho giáo viên mầm non nhằm tìm hiểu
nhận thức của giáo viên mầm non về việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm
thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 -6 tuổi
- Sử dụng các bài tập đo khảo sát thực trạng khả năng tiền đọc viết của

trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi.
7.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp giáo dục nhằm kiểm tra tính
khả thi của các biện pháp đó
7.2.3. Phương pháp quan sát
5


Quan sát môi trường chữ viết ở trường mầm non và quan sát cách tổ
chức, tiến hành các biện pháp chuẩn bị khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 – 6
tuổi của giáo viên.
7.3. Phương pháp xử lí kết quả nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu , kiểm
nghiệm kết quả nghiên cứu
8. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận về việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm
thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
- Làm rõ thực trạng việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy
khả năng tiền đọc viết của trẻ 5 -6 tuổi
- Xây dựng một số biện pháp sử dụng môi trường chữ viết thúc đẩy
khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 -6 tuổi ở trường mầm non nhằm giúp trẻ học
tập tốt hơn khi vào tiểu học.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm
thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 - 6 tuổi
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc đẩy
khả năng tiền đọc viết của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.

Chương 3: Một số biện pháp sử dụng môi trường chữ viết nhằm thúc
đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
Phần kết luận chung và kiến nghị sư phạm
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

6


B.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔI TRƯỜNG CHỮ VIẾT
NHẰM THÚC ĐẨY KHẢ NĂNG TIỀN ĐỌC VIẾT
CHO TRẺ 5 -6 TUỔI
1.1

Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Những công trình nghiên cứu về khả năng tiền đọc viết của trẻ
ở nước ngoài
Phát triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đặc biệt là giai đoạn
5-6 tuổi, khi trẻ chuẩn bị vào lớp 1. Sự phát triển khả năng tiền đọc viết của
trẻ ở giai đoạn trước khi đến trường phổ thông có ảnh hưởng sâu sắc đến việc
học tập của trẻ sau này ở trường phổ thông và các cấp học tiếp đó. Vì vậy, vấn
đề cho trẻ mẫu giáo làm quen với đọc viết được các nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu
Khoảng những năm 70-90 của thế kỉ XIX, các trường mẫu giáo của

Anh, Mỹ cấm việc cho trẻ làm quen với chữ viết và các khả năng liên quan tới
hoạt động đọc và viết. Nhưng tới năm 80 cuối thế kỉ XX, do chất lượng học
tập của học sinh lớp một không cao, một số người cho rằng có thể là do sự
7


chuẩn bị chưa tốt các kĩ năng khi học mẫu giáo, nên nhiều nơi ở Anh Mỹ đã
bắt đầu áp dụng chương trình chuẩn bị cho trẻ học đọc viết ở trường phổ
thông. Trong khi thực hiện chương trình họ nhận ra rằng việc cần thiết ở đây
là xây dựng cho trẻ một chương trình chuẩn bị khả năng đọc viết phải phù
hợp với lứa tuổi, sự hứng thú của trẻ và thực hiện mang tính tổng thể hơn là
việc cho trẻ nhận biết từng chữ cái riêng biệt.
Theo Sloan.P, Latham.S – các nhà giáo dục người Úc, chuyên gia về
đọc viết, Cutting.B – nhà giáo dục người Mỹ cho rằng: nếu chỉ chú trọng cung
cấp cho trẻ về khía cạnh cấu trúc của ngôn ngữ âm học và việc thuộc lòng
từng chữ cái riêng lẻ sẽ tạo cho trẻ thái độ học tập không đúng ví dụ như việc
học không cần phải tư duy suy nghĩ. Quá trình học của trẻ sẽ trở nên thụ
động, không sáng tạo, khô cứng, trẻ không còn hứng thú, say mê trong hoạt
động đọc và viết, chúng được thực hiện khi được yêu cầu. Hiện nay, đa số các
nhà giáo dục Mỹ, Úc đã ủng hộ chương trình đọc viết được xây dựng trên
quan điểm coi đọc và viết là hành vi trí tuệ.[3]
Dựa trên kết quả đánh giá khả năng đọc vào năm 1931 ở hạt Winnetka,
Bang Illimois – Mỹ (Morphett &Washburne, 1931, in McGill – Franzen,
1992). Người ta thấy rằng thời điểm kì diệu cho sự sẵn sàng học đọc là khi trẻ
được sáu tuổi rưỡi, kết quả này đã được ủng hộ quan điểm chung về sự "sẵn
sàng đọc" và ủng hộ quan niệm cho rằng trẻ trong quá trình phát triển tự nhiên
của mình sẽ học đọc. Như vậy các hoạt động sẵn sàng học đọc và quá trình
dạy chính thức trực tiếp là một phần của các lớp học mầm non. Các hoạt động
này bao gồm các bài tập phân biệt qua thị giác và thính giác, tìm các chữ cái
và âm thanh giống nhau, học tên các chữ cái và tập tô chữ.

Tuy nhiên, các nghiên cứu của Lay và Harste, Woodward và Burke
(1984) về sự phát triển đọc viết đã cho rằng sự phát triển đọc viết bắt đầu từ
sớm trước khi trẻ bắt đầu được học một cách chính thức. Clay trong bản luận

8


án tiến sỹ của mình đã nêu ra thuật ngữ " đọc viết ban đầu" để nói đến quá
trình liên tục và phát triển của việc hiểu và sử dụng ngôn ngữ viết từ khi ra
đời đến khi trở thành một người độc lập. Clay vào năm 1991, đã cho rằng " sự
chú ý vào các giá trị chính thức của chữ viết và sự liên hệ của chữ viết với âm
thanh là bước cuối cùng trong quá trình và đây không phải là điểm bắt đầu để
hiểu được ngôn ngữ viết là gì "[43]
Ngày nay, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề sớm dạy trẻ đọc viết
đang thu hút được sự quan tâm của xã hội, tiêu biểu là các tác giả Glenn
Doman và Janet Doman với cuốn sách "dạy trẻ đọc viết sớm", họ đã chứng
minh rằng trẻ nhỏ có khả năng học hỏi nhiều hơn cả những gì chúng ta tưởng
tượng. Glenn Doman đã đưa ra những công trình đặc biệt đáng chú ý khảo sát
tại sao trẻ từ 0 – 6 tuổi lại học tốt và nhanh hơn những đứa trẻ ở độ tuổi lớn
hơn. Cuốn sách đua ra những kĩ năng cơ bản giúp trẻ có khả năng đọc thông
viết thạo. Ông đưa ra các dẫn chứng chứng minh trẻ nhỏ muốn học đọc và có
thể học đọc, giai đoạn cho trẻ học đọc tốt nhất là 1 – 5 tuổi. Ông cho rằng đây
là giai đoạn mà bộ não của trẻ mở rộng và đón nhận mọi thông tin, trẻ sẽ tiếp
thu tất cả các thông tin mà không cần phải nỗ lực phân loại, trẻ có thể học đọc
rất dễ dàng và tự nhiên, đồng thời ở giai đoạn này trẻ cũng nên được tiếp cận
những thông tin cơ bản về ngôn ngữ viết. Cuốn sách giải thích cách bắt đầu và
mở rộng chương trình học đọc, cách tạo ra và sắp xếp các tài liệu cần thiết và
cách phát triển đầy đủ hơn tiềm năng học đọc của trẻ. Ông đã đưa ra 10 nguyên
tắc cơ bản dạy trẻ học đọc và 5 bước tiến hành dạy trẻ học đọc sớm đó là: đọc
các từ riêng lẻ, đọc các từ ghép, đọc cả cụm từ, đọc các câu và đọc cả quyển

sách và hướng dẫn chi tiết cách dạy cho các giai đoạn tuổi. [14]
Cuốn sách " Phương án không tuổi – phát triển ngôn ngữ từ trong nôi"
của giáo sư Phùng Đức Toàn cũng đang gây được nhiều sự chú ý của xã hội.
Đồng tình với quan điểm của Glenn Doman, ông cũng rất coi trọng việc dạy

9


chữ sớm cho trẻ. Ông cho rằng thời kì học chữ lí tưởng nhất bắt đầu từ giai
đoạn 0 – 6 tuổi, đặc biệt là giai đoạn từ 0 -3 tuổi, đây là thời kì trẻ có khả
năng học hỏi nhiều nhất, tiếp thu nhiều nhất. Dạy học đọc, học viết sớm có ý
nghĩa lớn trong việc khai thác tiềm năng tiềm ẩn trong đứa trẻ. Ông cho rằng,
một đứa trẻ không cần thiết phải đi theo con đường cũ học nói trước sau đó
mới học viết mà nên bắt đầu cả hai loại ngôn ngữ. Trẻ nhỏ học chữ diễn ra tự
nhiên cũng giống như tiếp thu những kích thích khác từ ngoài môi trường và
dần tới việc đọc. Đây là phương pháp tốt để trẻ nắm bắt được công cụ ngôn
ngữ thị giác một cách vô thức. Ông đưa ra ba hình thức dạy học ngôn ngữ thị
giác sớm: học chữ trong môi trường ngôn ngữ, học chữ qua trò chơi, học chữ
qua việc đọc. Đồng thời ông chỉ ra rằng dạy trẻ học chữ sớm thông qua các
trò chơi có thể sẽ thúc đẩy sự phát triển phẩm chất cá tính của trẻ như: phát
triển khả năng chú ý; rèn luyện khả năng quan sát; bồi dưỡng trí nhớ, phát
triển khả năng tư duy và khả năng tưởng tượng của trẻ; vun đắp tính cách
tốtđẹp và bồi dưỡng niềm yêu thích đọc sách; bồi dưỡng khả năng và thói
quen tự học. [34]
Gần đây, tiến sĩ Robert C.Titzer, một chuyên gia giáo dục trẻ em ở Mỹ
đã đưa ra phương pháp dạy đọc sớm cho trẻ thông qua bộDVD "Your baby
can read ".Titzer đã đưa ra những bằng chứng khoa học cho thấy rằng trong
những năm đầu đời, não bộ của trẻ phát triển nhanh và có những tiềm năng
lớn. Trong giai đoạn này, khi các giác quan thính giác, thị giác và xúc giác
được kích thích đúng phương pháp, trẻ sẽ phát triển tốt nhất tiềm năng trí tuệ

sẵn có. Tiềm năng của não bộ trẻ là cơ sở của các chiến lược giáo dục sớm,
trong đó có việc học ngôn ngữ sớm. Chính vì vậy tập đọc ngay từ thời thơ ấu
sẽ dễ dàng hơn nhiều so với bất kì giai đoạn nào khác. Ông đưa ra thời điểm
dạy trẻ đọc tốt nhất là 1-4 tuổi và theo phương pháp đọc đa giác quan –
phương pháp mà qua đó trẻ học bằng nhiều giác quan cùng một lúc .

10


Tóm lại, các công trình nghiên cứu nước ngoài cho thấy vấn đề chuẩn
bị khả năng tiền đọc viết cho trẻ rất được quan tâm. Các nhà khoa học đều
cho rằng trước khi trẻ bắt đầu học viết chính thức, chúng ta cần chuẩn bị cho
trẻ các kĩ năng của việc đọc viết. Ngày nay, có nhiều công trình nghiên cứu về
khả năng biết đọc, viết sớm của trẻ. Tuy nhiên, để trẻ có những khả năng như
thế, chúng ta không áp dụng dạy chữ cho trẻ giống như các phương pháp ở
tiểu học mà các nhà khoa học chủ trương đưa ra các phương pháp đảm bảo
tính hứng thú, đa dạng và linh hoạt: học chữ qua môi trường, qua các trò chơi,
phương pháp đọc đa giác quan…
1.1.2Những công trình nghiên cứu về khả năng tiền đọc viết của trẻ
ở trong nước
Ở nước ta các nhà giáo dục cũng rất quan tâm tới việc chuẩn bị khả
năng đọc viết sớm cho trẻ, coi đó là nhiệm vụ quan trọng để chuẩn bị cho trẻ
tới trường phổ thông.
Trong giáo trình " Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo"
của tác giả Nguyễn Xuân Khoa – 2003 nêu lên việc day đọc – viết là nhiệm
vụ của trường phổ thông nhưng trường mẫu giáo phải nhận nhiệm vụ chuẩn bị
cho trẻ vào trường phổ thông. Trong đó nhiệm vụ chủ yếu cho trẻ làm quen
với chữ cái.[22]
Giáo trình "Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non" tác giả Đinh Hồng Thái
( 2011) đưa ra nội dung chuẩn bị khả năng tiền – đọc viết tuổi mầm non,

trong đó nêu rõ nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ khả năng tiền đọc viết gồm:
-

Cho trẻ làm quen với hệ thống chữ viết tiếng việt

-

Cho trẻ làm quen dần với các biểu tượng đơn vị ngôn ngữ: âm, tiếng, từ,
câu…

-

Cho trẻ làm quen dần với hành vi đọc viết

11


Tác giả cũng đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy khả năng tiền đọc
viết cho trẻ gồm: Đọc truyện tranh, cho trẻ vẽ mô tả và tạo ra câu truyện từ
các bức vẽ, tạo môi trường chữ viết, tạo góc thư viện và góc viết.[34]
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết (1998) trong bài viết:“Chuẩn bị cho trẻ 5
tuổi vào trường phổ thông” có nêu rõ mục đích cho trẻ làm quen với chữ
không chỉ giúp trẻ nhận biết được mặt chữ để phát âm chính xác khi nói mà
còn tạo hứng thú cho trẻ học tập tiếng Việt, làm tiền đề cho việc học đọc học
viết ở lớp 1. Nội dung cho trẻ làm quen với chữ bao gồm việc cho trẻ nhận
biết và phát âm chữ cái tiếng Việt, dạy trẻ nhận biết các chữ cái thông qua
việc tri giác chữ viết bằng âm thanh, dạy trẻ nhận biết các kiểu chữ (in hoa, in
thường, viết thường); dạy trẻ làm quen với cách tách âm, ghép âm thông qua
việc cho trẻ làm quen với các kĩ năng ban đầu về tiền đọc viết: cách ngồi,
cách cầm bút, cách đọc, mở sách …[36]

Nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo,
trong đó có những đề tài nghiên cứu về khả năng tiền đọc viết của trẻ. Nổi bật
là luận án tiến sĩ giáo dục củaPhan Thị Lan Anh (2010), “Sử dụng trò chơi
nhằm phát triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi trong
trường mầm non ". Tác giả thống kê được một số công trình nghiên cứu về
khả năng tiền đọc viết trong và ngoài nước từ trước tới nay. Đặc biệt tác giả
đã đưa ra các trò chơi nhằm phát triển khả năng tiền đọc viết của trẻ. Tác giả
cũng xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá khả năng tiền đọc viết của trẻ 5 6 tuổi. Luận án có giá trị thực tiễn rất lớn. TS. Nguyễn Như Mai với đề tài
nghiên cứu khoa học" Đánh giá khả năng học đọc của trẻ 5-6 tuổi chuẩn bị
đến trường phổ thông" . Đề tài nghiên cứu cấp bộ của Bùi Kim Tuyến và
cộng sự về "Xây dựng nội dung và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo " có
đưa ra việc chuẩn bị một số kĩ năng về đọc viết cho trẻ mẫu giáo, trong đó là
biện pháp tạo môi trường chữ viết trong lớp học cũng như việc lập góc sách,

12


góc viết, góc làm sách…
Trong các kỉ yếu hội thảo và tạp chí giáo dục mầm non cũng có nhiều
bài viết nói về việc chuẩn bị học đọc, học viết cho trẻ. Tất cả đều nhấn mạnh
tầm quan trọng chuẩn bị cho trẻ học đọc viết trước khi tới trường phổ thông:
Tác giả Trần Trọng Thủy với bài viết "Trẻ em cần phải được chuẩn bị
cho việc vào lớp 1" trong kỉ yếu hội thảo khoa học 1995, ông cho rằng nhiều
công trình đã chứng minh trẻ mẫu giáo lớn đã có thể ọc đọc, viết, học tính và
giải được một số bài toán đơn giản. Vì vậy, trong việc chuẩn bị cho trẻ vào
lớp 1 cần dạy trẻ một số tri thức, kĩ năng riêng ngay từ mẫu giáo lớn.
Hà Nguyễn Kim Giang với bài viết “Phát triển hứng thú “đọc” cho trẻ
em tiền học đường ” trong tạp chí nghiên cứu giáo dục số 1/1995 đã nói đến vai
trò của sách đối với việc khơi dậy hứng thú “đọc” ở trẻ; Đặc điểm hứng thú đọc
sách của trẻ nhỏ đó là bắt chước mô phỏng, mang tính tập thể; Phương pháp phát

triển hứng thú đọc cho trẻ đó là lựa chọn sách, hướng dẫn trẻ tiếp xúc với tác
phẩm qua đó mà giáo viên kích thích hứng thú “đọc” độc lập cho trẻ.
Trần Thị Nga có bài viết "Khả năng tích hợp của việc dạy cho trẻ làm
quen với chữ viết" trong kỉ yếu hội thảo khoa học 2003. Tác giả cho rằng việc
cho trẻ làm quen với chữ viết phải được tiến hành một cách tích hợp và tự nhiên,
bắt đầu từ những ý tưởng, kinh nghiệm gần gũi và có ý nghĩa đối với trẻ.
Lê Thị Ánh Tuyết với bài " Cho trẻ làm quen với chữ viết – các quan
niệm và thực tiễn " trong tạp chí giáo dục mầm non số 1 – 2003 đã tập hợp
các ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề cho trẻ làm quen với chữ viết:
- Vấn đề cho trẻ làm quen với chữ viết, cũng như đối với việc chuẩn bị
học đọc, học viết cho trẻ mầm non cần được xem là một bộ phận của sự phát
triển ngôn ngữ ở trẻ. Cần xác định rõ yêu cầu đạt được trong việc cho trẻ mẫu
giáo làm quen với chữ viết trong mối quan hệ với sự phát triển các kĩ năng
nghe, nói, tiền biết đọc, biết viết.
- Việc chuẩn bị cho trẻ làm quen với chữ viết đòi hỏi phải có thiết kế
13


hoạt động tích hợp song bên cạnh đó cũng phải tính đến thời gian cho trẻ hoạt
động có tính chuyên biệt như trẻ trải nghiệm hoạt động đọc viết theo khả năng
riêng của mình.
- Cần xây dựng các phương tiện học liệu phù hợp góp phần thúc đẩy
khả năng tiền biết đọc, biết viết của trẻ như lô tô, bộ chữ, vở tập tô, tập sao
chép chữ…[21]
Nội dung chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non mới 2011 cũng
bắt đầu chú trọng đến việc chuẩn bị học đọc, học viết cho trẻ:
- Tư thế đọc - viết: ngồi, cầm bút.
- Lợi ích của việc đọc sách.
- Nghe đọc sách: nhận biết hướng đọc ( trái phải, trên xuống)
- Nhận biết mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết: người ta có thể viết y

hệt những gì nói, mỗi tiếng tương ứng 1 chữ,…
- Đoán chữ
- Nhận biết các ký hiệu thông thường trong cuộc sống (nhà VS, lối ra
vào, cầu thang…)
- GV tạo các biểu tượng ký hiệu riêng của trường như: lối lên - xuống
cầu thang (mũi tên), hãy im lặng ( ngón tay trên miệng), hãy lắng nghe,….
- Nhận biết hình thức chữ viết: in - viết, hoa - thường,khoảng cách, dấu
phẩy - chấm
- Hướng viết của chữ ( như đọc), quy trình viết 1chữ cái.
- Nhận biết, phát âm chữ cái và các dấu thanh trong chữ - từ có ý nghĩa
- Sao chép, đồ, tô chữ.
- Đọc và viết được tên của mình.
- Lựa chọn, xem, “đọc sách”: cầm,lật, phân biệt chỗ bắt đầu - kết thúc
- Nhận biết các bộ phận 1 cuốn sách: bìa sách, trang sách, tên sách,..
- Biết giữ gìn, bảo vệ sách ( sửa chữa sách hư hỏng….),

14


- Làm sách.[5]
Tóm lại, trước đây ở Việt Nam, các nhà sư phạm mới chỉ quan tâm chủ
yếu đến việc cho trẻ làm quen với chữ cái trước khi tới trường phổ thông.
Ngày nay, chúng ta cũng đã bắt đầu quan tâm hơn đến việc chuẩn bị khả năng
tiền đọc viết cho trẻ. Có nhiều công trình nghiên cho thấy sự cần thiết phải
chuẩn bị cho trẻ học đọc và viết trước khi tới trường phổ thông. Từ đó, đưa ra
được nội dung, và một số biện pháp phát triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ.
Chương trình giáo dục mầm non nước nhà cũng đã quan tâm bắt đầu tới việc
chuẩn bị kĩ năng tiền đọc viết cho trẻ. Với đề tài này, chúng tôi đưa ra một số
biện pháp sử dụng môi trường chữ viết xung quanh trẻ để tổ chức cho trẻ các
hoạt động nhằm phát triển khả năng tiên – đọc viết của trẻ. Tạo điều kiện

thuận lợi cho việc đọc viết chính thức khi trẻ vào lớp 1.
1.2 Cơ sở của việc sử dụng môi trường chữ viết nhằm phát triển
khả năng tiền đọc viết cho trẻ
1.2.1 Cơ sở sinh lý
Cơ sở sinh lý đươc coi là cơ sở tự nhiên của phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ nói chung và cũng là cơ sở để chúng ta đưa ra những biện pháp thúc
đẩy khả năng tiền – đọc viết của trẻ. Đặc điểm sinh lí của trẻ mẫu giáo (5 – 6
tuổi) là tiền đề vật chất cho sự phát triển khả năng tiền đọc viết của trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn nhanh về sức nặng . Nhịp điệu ở sự lớn lên
hàng năm ở thời kì này không đồng đều. Trẻ 5 – 6 tuổi cấu tạo và hoạt động
của các cơ quan và hệ cơ quan hoàn thiện dần. Sự phát triển cho thấy năng lực
làm việc của trẻ đã tăng lên. Các nhà sinh lí và giải phẫu học bộ não của trẻ 5
- 6 tuổi ≈ 1300 gam, chỉ kém một chút so với trọng lượng não của người lớn
(não người lớn ≈1400 gam). Với một tỉ lệ rưỡi tế bào thần kinh và hàng vạn tế
bào phụ trợ khác trong đại não. Đi đôi với việc tăng thêm khối lượng của bộ
não là sự hoàn thiện cấu tạo của bộ não. Hầu hết các đường dẫn truyền trong

15


bán cầu đại não đã mielin hóa, các thành phần tế bào của võ não đã tăng lên
về kích thước và tiếp tục phân hóa. Hoạt động phân tích tổng hợp của các bán
cầu đại não phát triển mạnh. Sự thành lập các đường liên hệ thần kinh tạm
thời diễn ra nhanh chóng hơn lứa tuổi 4 – 5 tuổi và sự phân hóa các tín hiệu
nhận thức cũng được phân hóa chính xác hơn. Trẻ đã biểu hiện năng lực trí
tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, qua suy nghĩ, qua quan sát, tập trung
chú ý, khả năng ghi nhớ, liên tưởng, tưởng tượng và khả năng giải quyết
những nhiệm vụ chơi, học, sinh hoạt của mình một cách sáng tạo. [42]
Phân tích về cơ sở sinh học của việc làm chủ vốn kinh nghiệm lịch sử
xã hội của thế hệ trước, não bộ người gồm hai bán cầu với những chức năng

không giống nhau. Nếu bán cầu não trái điều khiển hoạt động nhận thức và tư
duy logic thì bán cầu não phải lại hướng tới tư duy hình tượng. Mặt khác, sự
lớn khôn, phát triển trưởng thành của trẻ phụ thuộc vào hoạt động thích nghi
với môi trường và thế giới hiện thực theo cơ chế đồng hóa và điều ứng ở con
người. Cơ chế có mối liên hệ với hoạt động phản xạ diễn ra ở trẻ.
Phản xạ không điều kiện ổn định và có sẵn. Phản xạ có điều kiện là loại
phản xạ hình thành sau này trong quá trình sống của cá thể trẻ. Những phản
xạ này sẽ mất đi nếu không có điều kiện hình thành thuận lợi và sự củng cố
kịp thời. Phản xạ có điều kiện là hoạt động tín hiệu nhờ hai loại kích thích.
Kích thích cụ thể âm thanh, màu sắc, mô hình....gọi là tín hiệu thứ nhất. Còn
tín hiệu thứ hai có được ở trẻ nhờ những kích thích trừu tượng như : lời nói,
chữ viết, môi trường xã hội, con người...Đó chính là điều kiện không thể thiếu
để trẻ mẫu giáo hình thành và củng cố hệ thống tín hiệu thứ hai. Muốn mở
mang trí lực cho trẻ ở độ tuổi này cần phải hướng dẫn dạy bảo trẻ biết sử
dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Trước 7 tuổi là giai đoạn then chốt để rèn luyện
ngôn ngữ cho trẻ. Hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở sinh lý học của hoạt động
tư duy. Đối với trẻ mẫu giáo tư duy là quá trình phản ánh vào đầu óc trẻ

16


những sự vật khách quan bên ngoài. Nó có đặc điểm là đi từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lí tính, tức là sau khi sự vật được tích lũy vào não rất nhiều
nhận thức cảm tình nhờ suy luận những nhận thức cảm tính được khái quát
lên thành lí tính. Đối với con người từ thời thơ ấu đã hình thành hai lối tư duy
phổ biến là tư duy thu lượm và tư duy phát tán. Chúng có quan hệ với nhau và
dần dần tích tụ trong hình thức biểu đạt của tư duy nhờ ngôn ngữ phát triển.
Chỉ khi nào đứa trẻ sử dụng ngôn ngữ để tiếp thu tri thức đời sống trong sách
vở và để suy nghĩ thì lúc ấy mới thực sự có khái quát hóa suy luận và trừu
tượng hóa theo quy luật logic. Như vậy, vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai

được nâng lên cao trong việc thành lập và làm hiện lại những đường liên hệ
thần kinh tạm thời. Tuy nhiên, hệ thống tín hiệu thứ nhất có tầm quan trọng
lớn ở lứa tuổi này, cho nên việc tri giác đối tượng trực tiếp hoặc bắt chước sự
trình diễn trực quan các hành động nhằm làm cho kinh nghiệm của trẻ 5 – 6
tuổi thêm phong phú và giữ vai trò quan trọng.
Thể lực của trẻ phát triển, cấu tạo và hoạt động thần kinh tăng, kinh
nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống cho phép trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi bước
sang mối quan hệ đa dạng hơn với những người xung quanh, sang những hình
thức hoạt động phức tạp hơn, sang việc nhận thức sâu sắc hơn hiện thực xung
quanh.[ 8]
Nhờ có cơ quan phân tích mà con người nhận thức được thế giới xung
quanh. Tuổi mẫu giáo lớn đã có thể trả lời những câu hỏi thông thường về nội
dung trẻ nhận biết được nhờ giác quan, nhất là thị giác và thính giác. Cơ quan
phân tích thị giác là cơ quan nhạy cảm và quan trọng. Nó có khả năng thu
nhận tới 80-90% các thông tin từ ngoài vào não [42]. Trẻ có khả năng phân
biệt được một số màu trung gian, khả năng thu nhận và phân biệt kích thích
(màu sắc, hình dạng, kích thước...) ngày càng phong phú. Như vậy, nhờ cơ
quan phân tích thị giác mà trẻ tri giác được chính xác chữ cái, phát triển vốn

17


từ và là cơ sở đầu tiên để trẻ có thể thành công trong việc học đọc, viết.Cơ
quan phân tích thính giác cũng rất quan trọng trong việc hình thành và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là sự phát triển tai nghe, âm vị.
Tóm lại, việc phân tích cơ sở sinh lí có vai trò quan trong trong trong
quá trình chuẩn bị khả năng tiền – đọc viết cho trẻ. Có thể nói rằng phát triển
khả năng tiền đọc viết để trở thành người biết đọc biết viết có liên quan tới
những tiềm năng sinh học, nó gắng liền với sự trưởng thành về mặt thần kinh
của trẻ. Trẻ 5 - 6 tuổi não bộ gần hoàn thiện, các cơ quan phân tích thị giác,

thính giác, cơ quan hô hấp cũng đã dần ổn định. Tất cả đều tạo điều kiện thuận
lợi cho nhà giáo dục đưa ra biện pháp thúc đẩy khả năng tiền đọc viết của trẻ.
1.2.2 Cơ sở tâm lý
Mọi tác động giáo dục của nhà giáo dục đối với nhận thức của trẻ đều
phải dựa trên đặc điểm phát triển tâm lí nói chung và khả năng nhận thức nói
riêng theo từng lứa tuổi của trẻ. Để có những biện pháp thúc đẩy khả năng
tiền – đọc viết của trẻ trước hết nhà giáo dục cần hiểu rõ đặc điểm phát triển
nhận thức của trẻ.
* Đặc điểm chú ý của trẻ 5 – 6 tuổi
Ở giai đoạn này khả năng phát triển chú ý của trẻ phát triển mạnh mẽ.
Những sự thay đổi cơ bản của chú ý ở lứa tuổi này là chỗ trẻ bất đầu biết điều
khiển chú ý của mình, trẻ biết tự giác hướng chú ý của mình vào những đối
tượng nhất định, có nghĩa là chú ý có chủ định bắt đầu được hình thành. Khả
năng chú ý của trẻ bắt đầu được phát triển trên nền tảng có tính chủ động, biết
hướng vào ý thức của mình về các đối tượng cần cho vui chơi, học tập, lao
động...Theo A.V.Daparozet " Khả năng chú ý đó ở trẻ có thể kéo dài 37 – 51
phút nếu đối tượng đó hấp dẫn, có nhiều thay đổi, kích thích được sự tò mõ
ham hiểu biết của trẻ" [9]. Tuy nhiên, chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế.
Trẻ thường chú ý tới những đối tượng mà nó gây ra một kích thích mạnh, một
sự ngạc nhiên đối với trẻ. Do đó, chúng ta không thể xây dựng việc dạy học
18


cho trẻ trên những bài tập đòi hỏi trẻ phải liên tục tập chung chú ý một cách
căng thẳng. Việc sử dụng các yếu tố chơi, các dạng hoạt động sáng tạo mang
tính chất tìm tòi khám phá và việc thay đổi các hình thức hoạt động cho phép
duy trì chú ý ở trẻ ở mức cao.
Trẻ 5 – 6 tuổi nhạy cảm với ngôn ngữ. Trẻ hướng chú ý của mình tới
những đặc điểm ngôn ngữ: giọng điệu, cách pháp âm...sự chú ý của trẻ bắt
đầu tập trung vào các thuộc tính mới như: không gian, thời gian, tính chất vật

lí, hóa học, cơ học...
Trẻ có thể phân phối chú ý của mình lên nhiều đối tượng cùng một lúc
(2 – 5 đối tượng). Tuy nhiên khả năng phân phối chú ý này chưa bền vững, dễ
dao động đặc biệt là một trong những hành động qua quan sát tranh ảnh, mô
hình...[17] . Chú ý là một đặc điểm tâm lí vô cùng quan trọng đối với qua
trình nhận thức của trẻ. Đó là khâu đầu tiên, là cơ sở cho sự tiếp nhận thông
tin bao đầu để tiếp tục thực hiện các giai đoạn sau của quá trình nhận thức:
phân tich, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa...
* Đặc điểm cảm giác, tri giác của trẻ 5 -6 tuổi
Cảm giác và tri giác đó là hai bậc thang đầu tiên của nhận thức. Hoạt
động tri giác của trẻ phát triển mạnh cho phép trẻ định hướng những thuộc
tính, mối quan hệ bên ngoài của sự vật hiện tượng. Khả năng khái quát bắt
đầu được hình thành giúp trẻ hiểu được những thuộc tính và mối quan hệ đặc
trưng của các sự vật hiện tượng: màu sắc, hình dạng, kích thước, không gian
thời gian.
Trẻ 5 -6 tuổi cảm giác, tri giác ngày càng hoàn thiện và nâng cao. Cảm
giác của trẻ nhạy cảm hơn, chính xác hơn và có tính chất tự giác (độ nhạy
cảm của các giác quan tinh nhanh hơn). Đến cuối độ tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu
có khả năng quan sát có hệ thống những hiện tượng tự nhiên, xã hội xung
quanh. Không như lứatuổi trước khi quan sát trẻ thường tập trung vào những

19


đặc điểm bên ngoài đơn lẻ của đối tượng. Ở lứa tuổi này trẻ đã biết hướng sự
quan sát của mình vào những đặc điểm bên trong, những mối liên hệ sự vật
hiện tượng. Chất lượng quan sát cũng được nâng lên rõ rệt. Trong quá trình
quan sát trẻ biết huy động chính xác cơ quan cảm giác: mắt nhìn, tai nghe, tai
sờ, mũi ngửi. Cao hơn nữa trẻ biết trẻ biết phân tích, khái quát hóa, trừu tượng
hóa...trong qua trình quan sát. Trẻ bắt đầu có khả năng tri giác có kế hoạch, có

hệ thống các đối tượng xung quanh. Trẻ tri giác chính xác hơn, phân biệt các
đối tượng nhanh hơn. Tri giác của trẻ thường gắn liền với hoạt động của
chúng. Cho trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động thì tri giác của trẻ càng
phát triển và đạt kết quả tốt.[17][39]
* Đặc điểm phát triển trí nhớ
Ở trẻ 5-6 tuổi trí nhớ phát triển mạnh tuy nhiên trí nhớ không chủ định
vẫn chiếm ưu thế. Trẻ thường ghi nhớ những gì gây hứng thú , có sức hấp dẫn
,sinh động mang ấn tượng mạnh cho trẻ. Trí nhớ của trẻ giai đoạn này vẫn
mang đặc trưng của trí nhớ trực quan hành động. Những công trình nghiên
cứu của tâm lí học đã chỉ ra rằng : tổ chức cho trẻ tiếp xúc với sự vật hiện
tượng mà chúng tạo cho trẻ những cảm xúc mạnh mẽ, gây ấn tượng sâu sắc
làm trí nhớ của trẻ phát triển.
Trẻ ở lứa tuổi này, ghi nhớ những cái gì mà chúng hiểu hơn cái mà
chúng không hiểu về nó. Đặc biệt ngôn ngữ phát triển giúp cho trí nhớ của trẻ
có những bước phát triển rõ rệt. Cuối tuổi mẫu giáo bắt đầu hình thành trí nhớ
logic. Tuy vậy, trí nhớ máy móc vẫn có vai trò đáng kể trong cuộc sống của
trẻ.[17][39]
* Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
Trẻ 5 -6 tuổi có bước phát triển mới về tư duy. Để giải quyết các bài
toán thực tế trẻ đã huy động vốn kinh nghiệm của mình, biết phân tích, phán
đoán so sánh, khái quát để thu nhận thông tin sâu sắc hơn về sự vật, hiện

20


tượng, biết tìm hiểu mối liên hệ phụ thuộc giữa chúng. Trẻ giai đoạn này có cả
3 loại tư duy: tư duy trực quan hành động, tư duy trực quan hình tượng và tư
duy trừu tượng. Trong đó kiểu tư duy trực quan hình tượng chiếm ưu thế. Tuy
nhiên, kiểu tư duy trực quan hình tượng không đáp ứng được nhu cầu nhận
thức đang phát triển mạnh nên bên cạnh việc phát triển tư duy trực quan hình

tượng còn xuất hiện một kiểu tư duy mới – đó là tư duy trực quan sơ đồ một
kiểu tư duy mới của tư duy trực quan hình tượng. Kiểu tư duy này tạo ra cho
trẻ khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ
thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân trẻ. Sự phản ánh
những mối liên hệ khách quan là điều kiện cần thiết để lĩnh hội những tri thức
vượt qua ngoài khuôn khổ của việc tìm hiểu những sự vật riêng rẽ với những
thuộc tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát. Đây là một thành
tựu lớn của sự phát triển tư duy trẻ em. Nó cho phép trẻ đi sâu vào mối quan
hệ phức tạp của sự vật, hiện tượng và mở ra khả năng nhìn thấy bản chất của
sư vật, hiện tượng mà tư duy trực quan hình tượng không cho phép. Đây là
dạng trung gian qua độ để chuyển từ kiểu tư duy hình tượng đến một kiểu tư
duy mới khác về chất đó là tư duy logic. Nhờ có một số yếu tố của tư duy
logic được xuất hiện tạo cho trẻ khả năng khái quát hóa, phán đoán, suy luận
và hình thành được một số khái niệm đơn giản.[17][39]
Như vậy, các yếu tố như chú ý, tri giác, trí nhớ, tư duy....đều có ảnh
hưởng đến quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ nói chung và việc nhà giáo
dục chuẩn bị khả năng tiền đọc viết của trẻ nói riêng. Chẳng hạn, chú ý có chủ
định được cần đến để phân biệt sự khác biệt giữa các chữ cái và chia ra những
phần chi tiết của một từ để mã hóa hoặc giải mã chúng. Trẻ cần phải nhớ các
từ theo thứ tự khi chúng giải mã những từ tiếp theo trong một câu. Nếu trẻ
không tạo ra một sự chú ý có chủ định để ghi nhớ thì chúng không thể rút ra
một ý nghĩa gì của toàn bộ câu. Đọc và viết là việc sử dụng các kí hiệu, biểu

21


tượng, nếu trẻ không suy nghĩ một cách biểu trưng thì chúng không thể học
thao tác với các chữ cái, từ. Vì vậy, nhà giáo dục cần nắm vững đặc điểm lứa
tuổi của trẻ để có sự định hướng đúng đắn trong việc đưa ra nội dung, phương
tiện, biện pháp thúc đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ.

1.2.3 Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả
năng tiền đọc viết của trẻ. Trẻ mẫu giáo đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ
trong sinh hoạt hằng ngày, kĩ năng này rất quan trọng. Nó là nền tảng để trẻ
bước vào thế giới đọc viết. Vì vậy, đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 -6
tuổi là cơ sở không thể thiếu để nhà giáo dục đưa ra các phương pháp thúc
đẩy khả năng tiền đọc viết cho trẻ.
Thời kì mẫu giáo là thời kì trẻ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với
các hiện tượng ngôn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt
tốc độ khá nhanh và cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đều biết sử dụng
tiếng mẹ đẻ thành thục trong sinh hoạt hằng ngày.
Trẻ nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ. Ở tuổi mẫu
giáo cơ quan phát âm đã dần hoàn thiện nên trẻ phát ra những âm tương đối
chuẩn, kể cả những âm khó. Trẻ cũng biết sử dụng ngữ điệu phù hợp với nội
dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể.
Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn tích lũy được khá phong phú không những
chỉ về danh từ mà cả về động từ, tính từ, liên từ...Trẻ nắm được vốn từ trong
tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống hằng ngày. Cuối tuổi mẫu
giáo trẻ có thể sử dụng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ thành thạo, mặc dù quá trình đó
diễn ra một cách không có ý thức. Sự lĩnh hội ngôn ngữ còn được quyết định
bởi tính tích cực của bản thân trẻ em đối với ngôn ngữ. Những trẻ năng giao
tiếp, năng tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ thì không những hiểu được từ
ngữ nắm vững ngữ pháp một cách vững vàng mà trẻ còn "sáng tạo" ra những

22


từ ngữ, những cách nói chưa hề có trong ngôn ngữ của người lớn. Trẻ đã bắt
đầu hiểu nghĩa của từ và nguồn gốc của nó trong khi sử dụng.[39]
Ở giai đoạn tuổi này ngôn ngữ mạch lạc cũng bắt đầu phát triển mạnh.

Lúc này nhiều trẻ đã biết trình bày ý nghĩ của mình theo một trình tự hợp lý,
biết nhấn mạnh những điều chủ yếu để người xung quanh nghe hiểu được một
cách rõ ràng. Kiểu ngôn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
sự phát triển tư duy của trẻ. Muốn có ngôn ngữ mạch lạc thì những điều trẻ
định nói ra cần phải được suy nghĩ rõ ràng mạch lạc ngay trong đầu tức là cần
tư duy hỗ trợ. Mặt khác, chính ngôn ngữ mạch lạc là phương tiện làm tư duy
và nhận thức của trẻ phát triển
Tóm lại, ở tuổi mẫu giáo trẻ đã có khả năng nắm được ý nghĩa của từ
của từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát âm của người lớn, biết dùng
ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Trẻ nói đúng hệ thống ngữ pháp
phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương diện cú
pháp và về phương diện tu từ, nói năng mạch lạc, thoải mái. Đây là điều kiện
cần thiết để trẻ bắt đầu học đọc và viết. Bởi việc học đọc và viết ban đầu của
trẻ xuất hiện và phát triển trong sự phát triển của ngôn ngữ nói, qua giao tiếp
và trò chuyện.
1.3.Một số vấn đề lí luận về sử dụng môi trường chữ viết để phát
triển khả năng tiền đọc viết cho trẻ
1.3.1 Một số khái niệm cơ bản
1.3.1.1 Môi trường giáo dục
Quan niệm về môi trường giáo dục có nhiều ý kiến khác nhau, lúc đầu
người ta quan niệm môi trường giáo dục chỉ dựa vào đặc tính nào đó, khi
người ta nói đến môi trường giáo dục như là những điều kiện tạo ra những
xúc cảm nhất định về mặt tâm lý (Ksosnichi). Khi như là hệ thống các tình
huống trong đó con người đang thích nghi (J. Pieter )
Ngày nay, môi trường giáo dục có thể hiểu một cách rộng rãi như "là
23


một hệ thống gồm bất cứ nhân tố kích thích hay ảnh hưởng nào" hay là cũng
được quan niệm một cách hẹp hơn "coi đó là hệ thống gồm những nhân tố

kích thích có ý đồ, có những phương hướng nhằm đạt được mục tiêu giáo dục
nhất định" [24]
Theo từ điển giáo dục học môi trường giáo dục là "tập hợp những
không gian, những hoạt động xã hội và cá nhân, những phương tiện giao lưu,
những quá trình phối hợp lại với nhau và tạo điều kiện thuận lợi để đạt được
những kết quả giáo dục hiệu quả nhất "[39]
Từ những quan niệm trên ta có thể hiểu môi trường giáo dục gồm:
- Hệ thống các phương tiện, điều kiện vật chất mà nhà giáo dục lựa
chọn để tiến hành hoạt động giáo dục
- Có sự phối hợp điều hòa định hướng của các nhà giáo dục tới các mối
quan hệ xã hội, các phương tiện giao lưu, các đặc điểm phát triển tâm lí cá
nhân…nhằm hướng tới mục tiêu giáo dục.
1.3.1.2 Môi trường chữ viết
Là một bộ phận nằm trong môi trường giáo dục. Môi trường chữ viết
bao gồm tất cả các phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình học đọc,
học viết. Đó là sự sắp xếp, bố trí hợp lí chữ viết xung quanh không gian mà
trẻ học tập, vui chơi, sinh hoạt và nhằm nuôi dưỡng lòng ham muốn biết đọc,
biết viết.
Môi trường chữ viết bao gồm mối quan hệ thân thiện, cởi mở gần gũi
giữa trẻ với trẻ, trẻ với giáo viên. Giáo viên là người hướng dẫn, gợi mở,
khuyến khích trẻ khám phá chữ viết môi trường xung quanh, tích cực cho trẻ
hoạt động độc lập, cho trẻ trải nghiệm với việc học đọc, học viết ban đầu
thông qua tương tác với môi trường . Khuyến khích phát triển những kiến
thức, kĩ năng cần thiết để chuẩn bị cho việc học đọc, học viết sau này.
Môi trường chữ viết bao gồm:

24


- Sách, vở, giấy bút…những tài liệu, công cụ giúp trẻ tập đọc và tập viết .

- Tất cả đồ dùng, dụng cụ, đồ chơi, sản phẩm của cô và trẻ chứa đựng
chữ viết hoặc có tác dụng kích thích trẻ tham ra vào việc đọc, viết ban đầu.
- Không gian chứa đựng chữ viết: phòng ốc, hành lang, sân chơi, mảng
tường…ở trường mầm non
- Cách bố trí, sắp xếp chữ viết xung quanh môi trương hoạt động của
trẻ theo mục đích giáo dục.
- Cách tổ chức, sắp xếp góc thư viện, góc viết
-Mối quan hệ giữa cô và trẻ, trẻ và trẻ khi tham gia các hoạt động liên
quan tới việc đọc viết ban đầu.
1.3.1.3 Khái niệm đọc
Đọc là khả năng tách âm thanh ra khỏi kí hiệu ghi âm và chuyển chúng
thành cơ chế lời nói. Đối tượng của hành động đọc là các kí hiệu ghi âm, hoạt
động này bao gồm hai quá trình là: tách âm ra khỏi kí hiệu ghi âm và phát
ngôn. Quá trình phát ngôn có thể thành tiếng hoặc không thành tiếng (lời nói
to và lời nói thầm)
Theo từ điển Tiếng Việt, đọc là:
- Phát thành lời những điều đã được viết theo đúng trình tự
- Tiếp cận nội dung của một tập hợp kí tự, tiếp nhận nội dung của một
tập hợp kí hiệu bằng cách nhìn vào kí hiệu
- Thu lấy thông tin từ một thiết bị nhớ của máy tính (đĩa từ)
- Hiểu thấu bằng cách nhìn vào những biểu hiện bề ngoài (qua ánh mắt
đọc được cảm xúc)
Để hình thành được khả năng đọc của con người cần trải qua quá trình
lâu dài để hoàn thiện cả về mặt thể chất lẫn kĩ năng. T.G.Egorop chia việc
hình thành kĩ năng đọc thành 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Phân tích
Khi bắt đầu bước vào lớp 1 trẻ được học vần, đây chính là việc phân
25



×