Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen với chũ viết cho trẻ mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 16 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Dạy trẻ làm quen với chữ viết là một trong những nội dung quan trọng cho
trẻ mẫu giáo lớn. Đối với trẻ mẫu giáo lớn, làm quen với chữ viết giúp trẻ bước
đầu nhận biết được các chữ cái và phát âm chuẩn các chữ cái trong các từ trọn vẹn,
phát triển ở trẻ khả năng quan sát, so sánh và phát triển ngôn ngữ khi trẻ đã thuộc
và phát âm chuẩn các chữ cái thì trẻ sẽ dễ dàng làm quen với cách tô và viết chữ để
chuẩn bị vào lớp 1. Ngoài ra việc cho trẻ làm quen với chữ viết còn phát triển tư
duy trực quan hành động, tư duy trực quan hình tượng và đặc biệt là phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Khi trẻ làm quen với chữ viết, các cơ ngón tay, cơ bàn
tay của trẻ phải hoạt động nhiều hơn, qua đó cũng phát triển cơ thể trẻ.
Trên thực tế, việc dạy trẻ làm quen với chữ viết ở trường tôi còn bị hạn chế do
thiếu đồ dùng sáng tạo, do khả năng của giáo viên còn hạn chế nên chưa kích thích
được trẻ thích thú khi học. Chuyên đề Làm quen văn học - chữ viết đã được Sở
giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện trong nhiều năm qua đã chỉ rõ được tầm
quan trọng của chữ viết với trẻ. Trên cơ sở thực tiễn của lớp và qua những kinh
nghiệm đã tích luỹ được trong các măm dạy trẻ mẫu giáo lớn, tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy trẻ mẫu giáo lớn
làm quen với chữ viết” với mục đích đem đến cho trẻ những giờ làm quen với chữ
viết thật hấp dẫn và phong phú. Tôi mong rằng, những kinh nghiệm của tôi sẽ đạt
được kết quả cao trên trẻ và góp phần góp giáo viên thực hiện tốt chuyên đề cho trẻ
làm quen chữ viết.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Đặc điểm tình hình
Trường mầm non Mai Dịch đi vào hoạt động được 5 học kì. Trường có 10 lớp
trong đó có 4 lớp Mẫu giáo lớn với số cháu 210 trẻ, Nhà trường luôn quan tâm đến
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo
lớn số 9 với 54 trẻ. Trong quá trình thực hiện đề tài này lớp, tôi đã gặp những
thuận lợi, khó khăn sau:
1.1 Thuận lợi
- Ban Giám hiệu luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên về chuyên môn, cơ sở vật


chất, đồ dùng trang thiết bị dạy học, động viên sự sáng tạo của giáo viên, khích lệ
chị em ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
- Giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ trên chuẩn, sớm được tiếp cận với
các hoạt động giáo dục mầm non mới, được tham gia vào các lớp học bồi dưỡng
chuyên môn của Quận, của nhà trường, sang tạo trong cách dạy và làm đồ dùng, đồ
chơi. Cả hai giáo viên được phân công dạy lớp mẫu giáo lớn nhiều năm, được tiếp
thu, tích luỹ nhiều kinh nghiệm nên việc cho trẻ làm quen chữ viết có hiệu quả.
- Trẻ ngoan, đa số cháu đều học qua lớp mẫu giáo nhỡ. Qua khảo sát trẻ, tôi thấy
trẻ đã nghe, nói, hiểu thông thường, biết trả lời một số câu hỏi của cô đưa ra.
- Lớp có góc chuyên đề chữ viết đẹp, phù hợp, sáng tạo, kích thích được tính tò mò
và khám phá của trẻ. Có đủ diện tích cho trẻ hoạt động, là lớp điểm toàn diện của
nhà trường.
- Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ khi giáo viên tuyên truyền vận động, sưu tập đồ
dùng, đồ chơi phục vụ chuyên đề.
1.2 Khó khăn.
- Số cháu đông nên việc rèn luyện kỹ năng cá nhân làm ảnh hưởng đến việc tiếp
thu kiến thức.
- Chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ diễn ra thường xuyên, liên tục, để bám sát vào
các hoạt động trên thì giáo viên có ít thời gian làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo.
- Một số trẻ còn nói ngọng, phát âm không chuẩn nên có ảnh hưởng đến sự tiếp thu
kiến thức của trẻ.
- Để thực hiện tốt chuyên đề làm quen chữ viết, đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt,
sáng tạo trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục, tổ chức các hình thức giúp trẻ tích
cực hoạt động.
2. Các biện pháp
Dựa vào đặc điểm tình hình lớp, đặc điểm tâm lý nhận thức của lứa tuổi, tôi
mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy trẻ mẫu giáo lớn
làm quen chữ viết
2.1 Khảo sát kỹ năng nghe – nói - đọc - viết của trẻ
- Đây là bước đầu tiên nhằm xác định tình trạng của trẻ để giáo viên nắm

được kỹ năng nghe, nói, đọc viết của trẻ để từ đó có biện pháp thay đổi phù hợp
- Ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trẻ và thông qua các bài tập
để từ đó giáo viên đánh giá và có sự tác động đúng với từng trẻ.
- Công việc khảo sát trẻ, chúng tôi thường thực hiện vào tháng 10. Quá trình khảo
sát qua các hoạt động chung (kể chuyện, đọc thơ, hát, múa,…) và qua các hoạt
động hàng ngày (hoạt động góc, hoạt động chiều, …) để từ đó đánh giá từng trẻ
theo các kỹ năng.
+ Kĩ năng nghe: Trẻ nghe được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác
nhau. Độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc, các từ khái quát, từ trái
nghĩa. Nghe hiểu nội dung các câu đơn, câu ghép. Nghe hiểu thơ, ca dao, đồng
dao, tục ngũ phù hợp với trẻ. Nghe và làm theo từ 2 lời chỉ dẫn liên tiếp nhau trở
lên…
+ Kỹ năng nói: Trẻ có nói lắp, nói ngọng không? Trẻ có nói đủ câu, nói có
mạch lạc không? Trẻ biết bày tỏ tình cảm, nhu cầu và kinh nghiệm của bản thẩn rõ
ràng, dễ hiểu bằng các câu đơn, câu ghép khác nhau. Biết trả lời các câu hỏi về
nguyên nhân, so sánh: Tại sao? Có gì giống nhau? Có gì khác nhau? Do đâu mà
có? Đặt các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Làm gì? Sử dụng các từ biểu cảm, có
hình ảnh. Tự tin khi giao tiếp. Nói và thể hiện, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với
yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp. Đọc thơ, ca dao, đồng dao. Kể lại sự việc một cách
mạch lạc, rõ ràng, diễn cảm. Kể lại truyện đã được nghe một cách rõ ràng, diễn
cảm. Kể chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh, theo chủ đề, theo kinh nghiệm
bản thân.
+ Kỹ năng đọc: trẻ có biết cách giở sách, có biết đọc từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới? Có biết kể lại chuyện không? Có biết đọc thuộc bài thơ không? Tư thế
ngồi đọc ngay ngắn, đọc ngắt nghỉ sau các dấu; phân biệt phần mở đầu, kết thúc
của sách; đọc truyện qua các tranh vẽ; giữ gìn, bảo quản sách cẩn thận.
+ Kỹ năng viết: Trẻ có biết cầm bút đúng cách không? Có biết tô trùng khớp
lên các nét không? Tư thế ngồi viết ngay ngắn. Làm quen với cách viết tiếng Việt:
hướng viết từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới, hướng viết của các nét
chữ.

Qua khảo sát tôi thấy:

Nội dung
Giai đoạn 1
Tốt Khá TB Yếu
Kỹ năng nghe và hiểu
người khác nói. Nghe
và làm theo từ 2 lời
chỉ dẫn liên tiếp nhau
trở lên. Nghe hiểu nội
dung truyện kể, truyện
đọc…phù hợp với
trẻ…Biết liên hệ với
bản thân.
14/54
25,9%
20/54
37 %
16/54
29,6%
4/54
7,5%
Kỹ năng nói: Nói mạch
lạc rõ ràng, đủ câu,
không nói lắp, ngọng.
…Bày tỏ tình cảm, nhu
cầu, kinh nghiệm bản
thân rõ ràng, dễ hiểu.
Trả lời các câu hỏi về
nguyên nhân, so sánh.

Sử dụng các từ biểu
cảm, có hình ảnh. Tự
tin giao tiếp. Kể lại sự
việc 1 cách mạch lạc.
Đọc tho, ca dao…
13/54
24,1%
15/54
27,8%
15/54
27,8
11/54
20,3%
Kỹ năng đọc: biết cách
giở sách, đọc từ trái
sang phải, từ trên
xuống dưới…”Đọc”
sách qua các tranh vẽ.
Phân biệt phần mở đầu,
kết thúc của sách.
11/54
20,3%
19/54
35,1%
16/54
29,6%
8/54
15%
Kỹ năng viết: Trẻ biết
cách ngồi, cầm bút, để

vở, tô chữ đúng quy
trình…
9/54
16,2%
17/54
32%
18/54
33,3%
10/54
18,5%
Sau khi khảo sát trẻ, tôi thấy, những cháu giỏi về mặt này nhưng lại yếu về
mặt khác, từ đó, tôi có phương pháp dạy khác nhau với từng đối tượng trẻ.
2.2 Tạo môi trường học chữ viết phong phú
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình giáo dục trẻ. Để
trẻ được làm quen với chữ ở mọi góc trong và ngoài lớp, tôi luôn cố gắng tạo môi
trường chữ viết thật đẹp để cuốn hút ở trẻ. Ở lớp tôi, trang trí các góc chơi bằng
chính các sản phẩm của cô và trẻ. Riêng góc học tập – sách tôi luôn dành các mảng
tường mở với các bài tập sáng tạo, tái tạo để cho trẻ được tự do làm các bài tập
theo khả năng, sở thích của mình, tự in, tô vẽ các chữ trẻ đã học, được tự ghi tên
mình, tự vẽ các câu chuyện theo trí tưởng tượng sáng tạo và kể cho các bạn nghe.
Việc trang trí được tôi thực hiện theo chủ đề:
Ví dụ: Ở chủ điểm thế giới động vật, tôi thường trang trí ở các góc chơi như
sau:
- Góc xây dựng: cho trẻ làm các con vật và ghi tên các con vật để khi trẻ xây
dựng, trẻ sẽ xếp được các nhóm con vật theo nhóm và giới thiệu các sản
phẩm do mình làm ra.
- Góc học tập:
+ Cho trẻ vẽ tranh dán theo các câu chuyện.
+ Cho trẻ in chữ và tô màu xếp theo chữ mẫu, tên các con vật v.v
+ Trang trí tranh to và cho trẻ kể chuyện theo tranh.

+ Làm lịch hàng ngày
Ví dụ: Ở chủ điểm Thế giới thực vật:
+ Tôi cho trẻ viết chữ, xếp chữ hoặc gài chữ theo mẫu dưới các hình ảnh và
chữ mẫu của cô về các loại quả, cây, rau, hoa…
+ Cho trẻ tô chữ còn thiếu trong từ, sau đó nối với với từ dưới các hình ảnh
có sẵn hoặc nối chữ cái theo yêu cầu có trong từ dưới hình ảnh có sẵn với
các chữ cái in đậm
- Góc thiên nhiên: Các loại cây, tôi đều gắn tên để cho trẻ có thể ghép chữ xem
đây là cây gì.
- Trên các mảng tường, tôi có thể trang trí nhiều hình ảnh phù hợp với chủ
điểm và mỗi hình ảnh đều gắn tên gọi.
2.3 Dạy trẻ làm quen với chữ viết ở mọi lúc, mọi nơi.
Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen chữ viết, tôi
luôn cố gắng tranh thủ các hoạt động trong ngày để cho trẻ làm quen chữ viết
một cách hợp lí:
+ Giờ đón, trả trẻ: có thể gắn ảnh có tên của trẻ, cho trẻ gắn thứ ngày
tháng…xem tranh ảnh, đọc đồng dao.
+ Giờ hoạt động chung: Với tất cả các môn học khác, nếu có thể tôi đều lồng
ghép thêm các chữ cái.
+ Giờ hoạt động góc: các góc chơi đều có môi trường chữ cho trẻ tự tìm hiểu
như làm các bài tập gắn, đính , viết và gài chữ theo mẫu v.v…
+ Giờ hoạt động ngoài trời: cho trẻ xếp sỏi, hột, hạt thành các chữ.
+ Giờ ăn: giải thích các món ăn, nhận khăn thêu bằng tên trẻ.
+ Giờ ngủ: Trước khi ngủ có thể bật nhạc – ngâm thơ, kể chuyện cho trẻ
nghe.
+ Giờ hoạt động chiều: in, tô chữ rỗng, tìm cắt chữ trong báo, sách, lầm bộ
sưu tập.
2.4 Chú ý đến giáo dục cá nhân
- Việc giáo dục cá nhân có tác dụng tốt đến trẻ. Đặc biệt trong lĩnh vực cho
trẻ làm quen chữ viết, giáo dục cá nhân sẽ giúp cô giáo củng cố, bổ sung các kiến

thức, kĩ năng, cách phát âm, nhận mặt chữ, cách tô chữ đúng theo quy trình cho trẻ.
Trong quá trình dạy trẻ làm quen chữ viết, tôi luôn tìm hiểu khả năng, đặc điểm
tâm lý của từng trẻ. Từ đó xây dựng các biện pháp giáo dục phù hợp.
- Ở lớp có khoảng 10% trẻ còn chưa tự tin vào bản thân, ít giơ tay phát biểu,
cô có khuyến khích thì cũng không giơ tay, nói nhỏ. Do các cô thường sợ mất thời
gian thường thích gọi trẻ mạnh dạn trả lời lưu loát chứ ít quan tâm đến trẻ nhút
nhát. Vì lẽ đó mà cháu lại càng ít có cơ hội trả lời.
+ Biện pháp giải quyết: Tôi thường xuyên gần gũi, tâm sự và quan tâm đến
trẻ nhút nhát. Đặc biệt, tôi hay khen các cháu trước lớp khi cháu làm được việc tốt
dù rất nhỏ, động viên, khuyến khích cháu để giúp cháu đó mạnh dạn tham gia vào
các hoạt động và học tập, mạnh dạn phát âm các chữ cái khi cô hỏi. Tôi còn
thường xuyên nêu gương bạn tốt cho cháu noi theo. Thời gian này, tôi động viên
các cháu trả lời những câu hỏi dễ, khi trẻ đã mạnh dạn hơn, tôi cho trẻ trả lời
những câu hỏi ở mức độ khó hơn. Bên cạnh đó kết hợp với gia đình động viên
cháu tham gia nhiều hoạt động tập thể khác. Tranh thủ các cơ hội cho các cháu
được nói, phát hiện chữ cái đã học khi đi chơi…để trẻ mạnh dạn hon.
+ Kết quả thu được: Trẻ mạnh dạn hơn khi tham gia các hoạt động làm quen
với chữ viết cũng như các hoạt động khác.
- Trẻ hiếu động: Trẻ hiếu động thường rất hay nghịch ngợm và đùa nghịch
trong các giờ học không để ý khi cô giáo giảng bài. Điều đó dẫn đến trẻ không nhớ
được chữ cái, cấu tạo chữ, cách tô chữ…
+ Biện pháp giải quyết: Với những trẻ hiếu động, tôi thường hay cho trẻ
tham gia vào các hoạt động tĩnh nhưng có giới hạn thời gian, giờ học chú ý đến trẻ
hơn, hay gọi trẻ phát biểu, dùng nhiều hình thức hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ.
+ Kết quả thu được: Sau một thời gian tôi thấy trẻ ít nghịch đi và ham học
hơn, thích giúp đỡ bạn, thích tham gia vào các trò chơi học tập, nhớ được các chữ
cái, tô chữ đúng quy trình
2.5 Dạy trẻ làm quen với chữ viết bằng các trò chơi
Như chúng ta đã biết, trẻ mầm non “Học bằng chơi, chơi mà học”. Muốn trẻ
hiểu bài nhanh và nhớ lâu, nếu chúng được trực tiếp tham gia vào các hoạt động.

Tôi đã sưu tầm, sáng tác được một số trò chơi khi cho trẻ làm quen với chữ viết để
trẻ tăng hứng thú, cung cấp, củng cố kiến thức kĩ năng.
Ví dụ: Trò chơi giúp trẻ ghi nhớ các chữ đã học như:
+ Trò chơi: Đoán chữ:
Cách chơi: Trẻ nhắm mắt, cô lấy tay viết chữ lên tay trẻ. Cho trẻ đoán chữ gì.
+ Trò chơi: Cho trẻ dùng các bộ phận trên cơ thể mình tạo chữ vừa học
+ Trò chơi: Xếp chữ (gài chữ, viết chữ) thành các từ theo mẫu:
Chuẩn bị: Cô có các bức tranh, dưới tranh có từ chỉ hình ảnh đó
Cách chơi: Trẻ xếp các chữ cái rời thành từ giống mẫu có sẵn.
Luật chơi: Trong thời gian 1 bản nhạc, trẻ nào xếp (gài, viết) nhanh nhất là
người chiến thắng.
+ Trò chơi: Gạch chân chữ cái đã học.
Chuẩn bị: Các hình ảnh và từ dưới tranh.
Cách chơi: Có 2 – 3 đội chơi, mỗi đỗi sẽ gạch chân dưới các chữ cái đã học
theo yêu cầu của cô trong từ dưới tranh.
Luật chơi: Trong thời gian 1 bản nhạc, đội nào gạch được nhiễu chữ cái đúng theo
yêu cầu của cô là đội chiến thắng.
+ Vẽ hình ảnh có chữ đã học
Cách chơi: Cho trẻ tìm các chữ cái đã học có trong từ chỉ tên các loại rau, quả,
hoa, con vật…trẻ biêt sau đó phải vẽ lại hình ảnh đó.
Luật chơi: Trong thời gian quy định, trẻ phải vẽ được hình ảnh và nói được chữ cái
có trong từ chỉ hình ảnh đó.
- Thông qua các môn học khác lồng ghép các trò chơi.
Ví dụ: Trẻ học chữ qua giờ “làm quen văn học”:
Cách chơi: Khi cho trẻ chơi trò chơi ghép tranh để đoán xem đó là bức tranh vẽ về
nhân vật hoặc cảnh vật trong câu truyện nào, sau mỗi mảnh ghép có các chữ cái
khác nhau đã học, trẻ phải lấy mảnh ghép có chữ cái nào ghép vào đúng khoảng
trống trên bảng có chữ cái đó.
Luật chơi: Trong thời gian 1 bản nhạc, đội nào gắn nhanh và đúng tạo thành bức
tranh là đội chiến thắng. Trò chơi chơi theo luật tiếp sức.

Theo tôi, mỗi giáo viên cần chịu khó sưu tầm, sáng tác các trò chơi, biết vận
dụng các trò chơi ấy vào các giờ học ở mọi lúc, mọi nơi một cách phù hợp sẽ kích
thích trẻ ham học hỏi, thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo tìm tòi, trẻ sẽ hứng thú khi
đến lớp cũng như hứng thú tham gia trong các hoạt động.
2.6 Công tác tuyên truyền với phụ huynh
Trẻ đến trường được cô giáo dạy dỗ với nhiều nội dung làm quen chữ viết
thông qua các hoạt động với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên các kiến thức,
kĩ năng về chữ cái mà giáo viên cung cấp cho trẻ phải được ôn luyện tại nhà.Vì
vậy, để giúp trẻ học tốt thì cần có sự cộng tác giữa giáo viên và phụ huynh học
sinh. Vậy làm thế nào để tuyên truyền với phụ huynh một cách thuyết phục, đạt kết
quả, phối hợp với phụ huynh thật tốt? Đó là một công việc không đơn giản. Trong
công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh, tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
- Hàng ngày, giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập
của trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy thêm, cho trẻ ôn luyện.
- Lên kế hoạch, thông báo chương trình dạy trẻ ghi rõ nội dung dạy vào bảng treo
ngoài cửa lớp để phụ huynh theo dõi, ôn luyện thêm cho con ở nhà.
- Đánh vi tính với các nội dung trẻ đã được học ở lớp đưa cho phụ huynh về nhà
cùng tham khảo và dạy trẻ.
- Giới thiệu các loại sách vở có tính giáo dục tới phụ huynh.
- Trao đổi một số nhược điểm của trẻ về cách phát âm, nhận mặt chữ, cách tô, cầm
bút, để vở…để phụ huynh nắm được. Sau khi sử dụng các biện pháp tuyên truyền
tới phụ huynh, phụ huynh đã hiểu bản chất, tác dụng của vấn đề dạy trẻ, nắm bắt
được phương pháp dạy trẻ. Từ đó phụ huynh luôn luôn kết hợp chặt chẽ với giáo
viên để dạy trẻ.
3. Kết quả chung
Với những biện pháp trên, sau học kỳ I tôi thấy trẻ lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cụ
thể là:
Nội dung
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2
Tốt Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu

KN nghe, hiểu người
khác nói. Nghe, làm theo
từ 2 lời chỉ dẫn liên tiếp
nhau trở lên. Nghe hiểu
nội dung thơ, truyện. Biết
liên hệ với bản thân.
14/54
25,9%
20/54
37 %
16/54
29,6%
4/54
7,5%
32/54
59,2%
18/54
33,3%
4/54
7,5%
0
KN nói: mạch lạc rõ ràng,
đủ câu, không nói lắp,
ngọng. Bày tỏ tình cảm,
nhu cầu, kinh nghiệm bản
thân rõ ràng, dễ hiểu. Trả
lời các câu hỏi về nguyên
nhân, so sánh. SD các từ
biểu cảm có hình ảnh. Tự
tin giao tiếp. Kể lại sự

việc 1cách mạch lạc. Đọc
thơ, ca dao…
13/54
24,1%
15/54
27,8%
15/54
27,8
11/54
20,3%
28/54
51,8%
22/54
40,7%
4/54
7,5%
0
KN đọc: biết cách giở
sách, đọc từ trái sang
phải, từ trên xuống dưới.
”Đọc” sách qua các tranh
vẽ. Phân biệt phần mở
đầu, kết thúc của sách.
11/54
20,3%
19/54
35,1%
16/54
29,6%
8/54

15%
24/54
44,5%
20/54
37%
10/54
18,5%
0
KN viết: Trẻ biết cách
ngồi, cầm bút, để vở, tô
chữ đúng quy trình
9/54
16,2%
17/54
32%
18/54
33,3%
10/54
18,5%
26/54
48,2%
21/54
38,9%
7/54
12,9%
0
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Nguyên nhân thành công
Để giúp trẻ thuộc mặt chữ, nhận biết và phát âm đúng các chữ cái giáo viên
cần:

- Tìm hiểu đặc điểm riêng của từng trẻ bằng cách khảo sát trẻ đầu năm, theo dõi trẻ
ở các hoạt động trong ngày để tìm ra nguyên nhân, để có biện pháp giúp đỡ trẻ.
- Giáo viên nhiệt tình, chịu khó học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng cao
nghệ thuật lên lớp và sáng tạo về đồ dùng, trò chơi để gây hứng thú cho trẻ tham
gia vào hoạt động.
2. Bài học kinh nghiệm
Từ kết quả trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Nắm vững phương pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ viết, từ đó xây
dựng kế hoạch thực hiện chương trình.
- Giáo viên luôn học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra những hình thức,
những trò chơi mới, đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn để cuốn hút trẻ vào giờ học.
- Tạo môi trường học chữ viết phong phú, cuốn hút trẻ và vận dụng môi trường đó
để dạy trẻ trong các hoạt động.
- Học hỏi thêm kinh nghiệm, kiến thức từ chị em đồng nghiệp, từ sách báo, tài liệu,
các phương tiện thông tin đại chúng.
Với một số kinh nghiệm trên, tôi đã phổ biến cho các giáo viên trong khối
Mẫu giáo lớn của trường mình để chị em vận dụng vào lớp mình và đều đạt kết
quả cao.
Nhìn những trẻ đang dần lớn lên trong vòng tay của mình, sự hồn nhiên,
ngây thơ, đáng yêu của chúng luôn là nguồn động viên để tìm tòi, sáng tạo trong
quá trình dạy học để cho trẻ hứng thú, thích học và một phần tích luỹ kiến thức
bước đầu về một cách đọc - viết chuẩn bị tâm thế vững chắc cho trẻ vào lớp 1.
Hà Nội, ngày 03 tháng 4 năm 2009
Người viết
Lê Thị Kim Dung
PHÒNG GIÁO DỤC QUẬN CẦU GIẤY
TRƯỜNG MẦM NON MAI DỊCH
OOO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Mét sè biÖn ph¸p

d¹y trÎ MÉu gi¸o lín lµm quen ch÷ viÕt.
N¨m häc: 2008 - 2009
Người viết: Lê Thị Kim Dung
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị : Trường mầm non Mai Dịch.
CÇu GiÊy, th¸ng 4 n¨m 2009


×