Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.31 KB, 23 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành đợc Khóa học này, trớc
hết tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm
Đào tạo nghiệp vụ và Bồi dỡng cán bộ công
chức - Trờng Đại học Tài nguyên và Môi trờng
Hà Nội, tập thể các giảng viên Học viện
Hành chính quốc gia đã giảng dạy và hớng
dẫn tôi trong thời gian tôi tham gia khoá học
này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự góp
ý chân thành của các đồng nghiệp, các cán
bộ Cục Kiểm soát quản lý và sử dụng đất
đai - Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài
nguyên và Môi trờng đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi thực hiện tình huống này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Toàn Hóa


LỜI NÓI ĐẦU

Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia, là tư liệu sản
xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được của ngành sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, là môi trường sống và là nền tảng để xây dựng các cơ sở kinh tế, khu
dân cư, các công trình văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia.
Đồng thời đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong
không gian. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu
mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Chính vì
vậy, đất đai cần được quản lý một cách hợp lý, sử dụng một cách có hiệu quả,
tiết kiệm và bền vững.


Điều 53 Hiến pháp năm 2013 (đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm
2013) quy định “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước
đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý”; Khoản 1, Điều 54 Hiến pháp năm 2013 khẳng
định “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”. Tại Điều 5 Luật Đất đai số
45/2013/QH13 (được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013 tại kỳ
họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2014) cũng tiếp tục
khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
theo quy định của Luật này”.
Với nhu cầu phát triển và hội nhập, Nhà nước cần phải thực hiện thu hồi
đất để thực hiện đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu đô thị,
cơ sở hạ tầng và phục vụ cho mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng. Tuy nhiên, vấn đề thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức
tạp bởi động chạm đến quyền và lợi ích của nhiều chủ thể và gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng như giảm sút đáng kể diện tích đất nông nghiệp, người dân bị
mất đất, mất việc làm, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Việc giải quyết không tốt
các mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào quá trình thu hồi đất là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện về đất đai ngày càng tăng nhanh và
vô cùng phức tạp làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, gây mất ổn định về
chính trị và trật tự an toàn xã hội.


Là học viên của lớp “Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình
chuyên viên chính”, vận dụng những kiến thức từ thực tế công việc tại nơi công
tác và những kiến thức đã tiếp thu từ quý Thầy Cô, học viên mạnh dạn lựa chọn
đề tài “Giải quyết việc công dân không chấp hành quyết định thu hồi đất

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” để thực hiện tiểu luận tình huống.
Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước là bài kiểm tra cuối khoá nhằm
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào điều kiện thực tiễn của hoạt
động quản lý nhà nước hiện hành. Thông qua đó, các học viên có vai trò như là
người cán bộ, công chức có chức năng, thẩm quyền đưa ra phương hướng xử lý
phù hợp với điều kiện thể chế, phong tục tập quán Việt Nam, phong tục từng
vùng, miền. Song, những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý nhà nước
không đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy
đủ khả năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của
từng vấn đề… làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng do thời gian ngắn, kinh nghiệm bản thân có
hạn, nên bài viết này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong được sự
đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô và các học viên khác để bài viết được hoàn
chỉnh hơn.

2


PHẦN 1.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về giao đất nông nghiệp ổn
định đến hộ gia đình, cá nhân theo Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm
1993 của Chính phủ ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Năm 1994, Ủy ban nhân dân huyện ĐA, thành phố HN đã chỉ đạo Ủy ban nhân
dân xã VN lập hồ sơ để thực hiện giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp đến hộ gia đình, cá nhân. Trong quá trình tổ chức thực
hiện, Ủy ban nhân dân xã VN được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền đã tổ chức
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài thuộc xứ

đồng D cho các hộ gia đình, cá nhân đồng thời trình Ủy ban nhân dân huyện ĐA
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến từng hộ gia đình, cá nhân để sản
xuất nông nghiệp. Trong đó, hộ gia đình ông Hoàng K có hộ khẩu thường trú tại
thôn PT, xã VN, huyện ĐA, thành phố HN được Nhà nước giao 3.000 m 2 đất
nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Việc giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân để sản xuất nông nghiệp đã
được Ủy ban nhân dân huyện ĐA và Ủy ban nhân dân xã VN giao đất tại thực
địa có sự chứng kiến của các ngành có liên quan của huyện và xã. Gia đình ông
K đã sử dụng đất ổn định, đúng mục đích từ đó cho đến nay, không để xảy ra
tranh chấp, khiếu kiện gì.
Theo quy hoạch sử dụng đất huyện ĐA đến năm 2020 (Điều 35 Luật Đất
đai số 45/2013/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013 tại
kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2014 quy định:
“…quy hoạch sử dụng đất cấp huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của
cấp xã”) được cấp có thẩm quyền xét duyệt, khu đất tại xứ đồng D nằm trong
quy hoạch đất sử dụng vào mục đích công cộng được quy định tại Điểm e
Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai “Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất
giao thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng
hải, hệ thống đường sắt, hệ thống đường bộ và công trình giao thông khác);
thủy lợi; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt
cộng đồng, khu vui chơi, giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất
công trình bưu chính, viễn thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất
công trình công cộng khác”.
3


Đến năm 2015, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, Ủy ban nhân dân thành phố HN đã ban hành quyết định
thu hồi đất (trong đó có 3.000m2 đất nông nghiệp của hộ gia đình ông K) để giao
cho Công ty X xây dựng nhà máy xử lý chất thải. Tuy nhiên, ông K (người đang

được Nhà nước giao quyền sử dụng phần diện tích đất nông nghiệp nói trên) đã
từ chối việc trả lại đất cho Nhà nước và không chấp hành quyết định thu hồi đất
của Ủy ban nhân dân thành phố HN với lý do việc xây dựng nhà máy xử lý chất
thải có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Nhằm làm rõ hơn vấn đề, chúng ta phân tích nguyên nhân và hậu quả để
có được định hướng chung trong việc đưa ra giải pháp xử lý cho thích hợp.

4


PHẦN 2.
PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

2.1. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
2.1.1. Nguyên nhân
a) Về khách quan
Do quá trình đô thị hóa, phát triển các Trung tâm thương mại, khu công
nghiệp, nhà cao tầng… đòi hỏi phải sử dụng nhiều loại quỹ đất. Theo đó, giá trị
đất nông nghiệp cũng ngày một tăng lên, dẫn đến phát sinh các hộ gia đình, cá
nhân được giao sử dụng đất nông nghiệp thường đòi hỏi việc bồi thường hỗ trợ
và tái định cư với giá cao (sát giá thị trường hoặc theo giá thị trường), không
chấp nhận đơn giá bồi thường theo quy định của Nhà nước.
Thủ tục hành chính rườm rà, khó hiểu, việc tuyên truyền pháp luật ở cơ
sở chưa tốt dẫn đến người dân chưa hiểu hết trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa
vụ của mình.
b) Về chủ quan
Cán bộ, công chức là người thực thi chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế công tác không phải tất cả cán bộ, công chức
đều hiểu và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, một
cách đúng đắn, phù hợp với chức trách nhiệm vụ được giao.

Người dân do thiếu hiểu biết về pháp luật nhưng chưa được giải thích
ngay từ cơ sở; cán bộ quản lý hành chính nhà nước không nắm chắc các quy
định của pháp luật.
2.1.2. Hậu quả
Việc tổ chức giao đất cho Công ty X để xây dựng nhà máy xử lý chất thải
không thực hiện được, gây lãng phí tiền của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền lợi
của doanh nghiệp cũng như của nhân dân trên địa bàn.
Nguy cơ phá vỡ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện ĐA đến năm
2020, có khả năng dẫn đến tình trạng dự án “treo”. Dễ tạo ra phản ứng “dây
chuyền” đối với các hộ dân cũng có đất bị thu hồi để thực hiện dự án này nếu
không thực hiện tốt việc thu hồi đất của hộ gia đình ông K.
5


2.2. Xác định yêu cầu mục tiêu khi xử lý tình huống
2.2.1. Mục tiêu chung
Trong giao đoạn hiện nay, cần ưu tiên cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Song cần chú ý quan tâm đến giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo đảm sự
ổn định và phát triển bền vững, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất bị thu hồi.
- Giảm tối đa các mức thiệt hại kinh tế (nếu có), bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của công dân.
- Giải quyết hài hòa giữa các lợi ích trước mắt và lâu dài, các lợi ích kinh
tế - xã hội và tính pháp lý.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo kỷ cương pháp luật.
- Phát huy vai trò trách nhiệm, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
của cán bộ công chức các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trong việc thực
thi nhiệm vụ và bảo đảm thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước.
2.2.2. Mục tiêu của việc xử lý tình huống
- Xử lý tốt tình huống trên cũng là việc làm của chính quyền hướng tới
phục vụ nhân dân.

- Giải quyết vấn đề thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư theo đúng quy định của pháp luật đất đai.
- Đảm bảo hài hòa giữa tính pháp lý, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
- Bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích chính đáng của cơ quan Nhà nước, tổ
chức và công dân.
- Nâng cao trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý
đất đai và trong việc thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án trong phạm vi thẩm
quyền của mình.
- Phổ biến, tuyên truyền pháp luật sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân,
góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân mà ở đó
Hiến pháp, Pháp luật phải được triệt để tuân thủ và chấp hành.
2.3. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
2.3.1. Đề xuất các phương án xử lý
Như đã phân tích ở trên, phương án giải quyết tình huống đã đặt ra như sau:
a) Phương án 1: Giả thuyết
Nếu mọi công dân đều được tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
đến nơi đến chốn, người dân có sử hiểu biết sâu sắc về pháp luật thì sẽ không
6


xảy ra việc chống đối, từ chối việc trả lại đất cho Nhà nước và không chấp hành
quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
b) Phương án 2: Vận động, thuyết phục
Phương án này áp dụng đối với các trường hợp đơn giản, tính chất mức độ
sự việc không nghiêm trọng. Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng vận động, thuyết phục để hộ gia đình ông K chấp
hành quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Ưu điểm: Đơn giản, ít tốn kém, nâng cao trách nhiệm của Ủy ban nhân

dân cấp xã và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc
thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án trong phạm vi thẩm quyền của mình.
- Nhược điểm: Phải xây dựng được các tổ chức đoàn thể đủ mạnh, uy tín,
có kiến thức, có hiểu biết về pháp luật thì mới vận động, thuyết phục và giải
quyết có tình có lý, hài hòa.
c) Phương án 3: Các cơ quan chuyên môn cùng cấp sẽ giúp Ủy ban nhân
dân huyện ĐA đề ra biện pháp hợp lý, đúng pháp luật
Kiên quyết cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình
ông K để giải phóng mặt bằng đúng thời gian, đúng quyết định thu hồi đất của
UBND thành phố HN. Đồng thời bồi thường cho hộ gia đình ông K theo quy
định của pháp luật hiện hành.
- Ưu điểm:
+ Các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,công cộng được
thực hiện theo đúng tiến độ, kế hoạch đề ra.
+ Thực hiện đúng kỷ cương, phép nước. Thể hiện được tính nghiêm minh
của Pháp luật và quyền lực của Nhà nước.
- Khuyết điểm: Nếu xử lý không khéo thì đây là cơ hội phát sinh cho tiêu
cực, nhũng nhiễu. Dễ làm cho sự việc bùng nổ theo chiều hướng gia tăng sự
chống đối của người dân trong vùng thực hiện dự án, tạo tiền đề cho các cuộc
khiếu kiện kéo dài. Đặc biệt đối với dự án của các Doanh nghiệp tư nhân, Công
ty TNHH... làm chủ đầu tư.
2.3.2. Lựa chọn phương án xử lý
Phân tích các phương án giải quyết tình huống nêu trên:
- Phương án 1: Đây là giả thuyết, không thể có trong thực tế do vậy không
thể lựa chọn phương án này.
7


- Phương án 2: Phương án này dễ dàng thực hiện, đúng quy định của pháp

luật. Tuy nhiên, có thể không đạt được mục tiêu đề ra nếu hộ gia đình ông K vẫn
tiếp tục chống đối, không chấp hành quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Phương án 3: Đảm bảo việc thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
để thực hiện dự án đúng thời gian, tiến độ, kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, nếu lựa
chọn phương án này thì chưa thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục về thu hồi đất vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng.
Từ những phân tích trên và những ưu, nhược điểm của các phương án xử lý
tình huống, tôi lựa chọn phương án 2 kết hợp với phương án 3, cụ thể như sau:
Tại Điểm d, Khoản 3, Điều 69 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (được
Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa
XIII, có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2014) về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng quy định:
“Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất
thu hồi thực hiện.
Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng
không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại
Điều 71 của Luật này.”.
Do vậy, Ủy ban nhân dân xã VN, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
VN và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cần phải tổ chức
vận động, thuyết phục để hộ gia đình ông K thực hiện quyết định thu hồi đất của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó, cần chú trọng đến việc tuyên
truyền, vận động cho hộ gia đình ông K hiểu việc thu hồi đất (trong đó có

3.000m2 đất nông nghiệp của hộ gia đình ông K) để giao cho Công ty X xây
dựng nhà máy xử lý chất thải là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất huyện ĐA
đến năm 2020. Đồng thời, cần tuyên truyền, vận động cho hộ gia đình ông K
biết việc thu hồi đất để giao cho Công ty X xây dựng nhà máy xử lý chất thải do
8


Nhà nước thực hiện theo quy định tại Điều 62 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 về
thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng:
“Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng trong các trường hợp sau đây:
1. Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư mà phải thu hồi đất;
2. Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định
đầu tư mà phải thu hồi đất, bao gồm:
a) Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
khu kinh tế; khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA);
b) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng
ngoại giao; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp
hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp
công cấp quốc gia;
c) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia gồm giao thông,
thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa
xăng dầu, khí đốt; kho dự trữ quốc gia; công trình thu gom, xử lý chất thải;
3. Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà
phải thu hồi đất bao gồm:
a) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh

được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình
sự nghiệp công cấp địa phương;
b) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao
thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô
thị; công trình thu gom, xử lý chất thải;
c) Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng
dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây
dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục
vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng;
d) Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh
trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến
9


nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng;
đ) Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép,
trừ trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than
bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác
tận thu khoáng sản.”.
Sau khi tuyên truyền, vận động cho hộ gia đình ông K chấp hành quyết
định thu hồi đất để để giao cho Công ty X xây dựng nhà máy xử lý chất thải, nếu
gia đình ông K chấp hành thì việc thực hiện thu hồi đất hoàn thành, tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ
trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê
duyệt cho hộ gia đình ông K theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu hộ gia đình ông K tiếp tục có hành vi chống đối, không chấp hành
quyết định thu hồi đất thì Ủy ban nhân dân huyện ĐA xem xét ban hành quyết
định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất và tổ chức thực hiện quyết định
cưỡng chế theo quy định tại Khoản 3, Điều 71 Luật Đất đai số 45/2013/QH13:

“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện
quyết định thu hồi đất và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.”.
Ban thực hiện cưỡng chế được quy định cụ thể tại Khoản 3, Điều 17 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Đất đai số 45/2013/QH13:
“ Thành phần Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất gồm:
a) Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là trưởng
ban;
b) Các thành viên gồm đại diện các cơ quan tài chính, tài nguyên và môi
trường, thanh tra, tư pháp, xây dựng cấp huyện; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có đất và một số thành viên khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện quyết định.”.
Tuy nhiên,việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất cần phải đảm
bảo đúng theo quy định tại Khoản 2, Điều 71 Luật Đất đai số 45/2013/QH13:
“Cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ
các điều kiện sau đây:

10


a) Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi
Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất
thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động,
thuyết phục;
b) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm
yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi;
c) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực
thi hành;

d) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện
quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế
hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập
biên bản.”.
Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất được quy định cụ thể tại
Khoản 4, Điều 71 Luật Đất đai số 45/2013/QH13:
“Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất:
a) Trước khi tiến hành cưỡng chế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
quyết định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế;
b) Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị
cưỡng chế; nếu người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập
biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất
sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế
thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế;
c) Ban thực hiện cưỡng chế có quyền buộc người bị cưỡng chế và những
người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi
khu đất cưỡng chế; nếu không thực hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách
nhiệm di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi
khu đất cưỡng chế.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện
cưỡng chế phải lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định
của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản.”.
và Khoản 5, Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai số
11


45/2013/QH13 quy định: “Khi thực hiện cưỡng chế thu hồi đất mà người bị

cưỡng chế từ chối nhận tài sản theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 71 của
Luật Đất đai thì Ban thực hiện cưỡng chế giao tài sản cho Ủy ban nhân dân cấp
xã bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật.”.
Khoản 5, Điều 71 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 quy định trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất:
“Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng
chế thu hồi đất:
a) Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc
cưỡng chế, giải quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo quy định của
pháp luật về khiếu nại; thực hiện phương án tái định cư trước khi thực hiện
cưỡng chế; bảo đảm điều kiện, phương tiện cần thiết phục vụ cho việc cưỡng
chế; bố trí kinh phí cưỡng chế thu hồi đất;
b) Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm chủ trì lập phương án cưỡng
chế và dự toán kinh phí cho hoạt động cưỡng chế trình Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền phê duyệt; thực hiện cưỡng chế theo phương án đã được phê duyệt;
bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
Trường hợp trên đất thu hồi có tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải
bảo quản tài sản; chi phí bảo quản tài sản đó do chủ sở hữu chịu trách nhiệm
thanh toán;
c) Lực lượng Công an có trách nhiệm bảo vệ trật tự, an toàn trong quá
trình tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất;
d) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi có trách nhiệm phối hợp
với cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện việc giao, niêm yết công khai
quyết định cưỡng chế thu hồi đất; tham gia thực hiện cưỡng chế; phối hợp với
tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng niêm phong, di chuyển
tài sản của người bị cưỡng chế thu hồi đất;
đ) Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan chịu trách nhiệm phối
hợp với Ban thực hiện cưỡng chế thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất khi Ban
thực hiện cưỡng chế có yêu cầu.”.
và Khoản 4, Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm

2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai số
45/2013/QH13 quy định:

12


“Lực lượng Công an căn cứ vào phương án cưỡng chế thu hồi đất để xây
dựng kế hoạch bảo vệ trật tự, an toàn trong quá trình tổ chức thi hành quyết
định cưỡng chế thu hồi đất.”.
Việc thực hiện cưỡng chế thu hồi đất cần phải đúng trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật và cần phải được lập thành hồ sơ về cưỡng chế thu hồi
đất theo quy định tại Khoản 2, Điều 11 Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày
02 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao
đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất (có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 17 tháng 7 năm 2014):
“ Hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế thu hồi đất do Phòng Tài nguyên và Môi trường lập gồm:
a) Quyết định thu hồi đất;
b) Văn bản đề nghị cưỡng chế thu hồi đất của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng;
c) Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi về quá trình vận
động, thuyết phục người có đất thu hồi theo quy định nhưng không chấp hành
việc bàn giao đất cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
d) Tờ trình kèm theo dự thảo quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo Mẫu
số 11 ban hành kèm theo Thông tư này.”.

13


PHẦN 3.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
Khoản 3, Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước thu hồi đất
do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng…”. Căn cứ Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai số 45/2013/QH13
(Luật Đất đai năm 2013) đã quy định chi tiết các trường hợp thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh (Điều 61) và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 62), qua đó đã thể hiện 02 quan điểm lớn:
Thứ nhất, trong điều kiện cần thiết Nhà nước phải thu hồi đất để thực hiện
các dự án vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm
bảo sự phù hợp với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng tình hình hội nhập kinh
tế quốc tế và đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ hai việc quy định Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát
triển kinh tế - xã hội gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, lợi ích
chung của cộng đồng nhằm kiểm soát chặt chẽ việc thu hồi đất cũng như hạn
chế các hành vi lợi dụng, lạm quyền trong thu hồi đất. Ngoài ra, Khoản 3, Điều
54 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định “…Việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” nhằm khẳng định một
cách rõ ràng nguyên tắc công khai, minh bạch và dân chủ trong công tác thu hồi
đất thông qua các quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất.
Bên cạnh những quy định về quyền của Nhà nước, Luật Đất đai năm 2013
cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo hộ các quyền của
người sử dụng đất, như bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp
pháp của người sử dụng đất; có chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất… đồng thời để thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà
nước đối với quyền sử dụng đất của người sử dụng đất, vừa tạo cơ sở pháp lý

vững chắc để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai
phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai, Khoản 2, Điều 54 Hiến pháp năm
2013 quy định “…Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ”.
14


Hiện nay, Đất đai là một vấn đề phức tạp liên quan đến quyền và lợi ích của
người dân, của các đối tượng xã hội, liên quan đến nhiều loại chính sách pháp
luật mang tính lịch sử. Vì vậy, công tác quản lý Nhà nước về đất đai của Ủy ban
nhân dân các cấp và giữa các ngành cần có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ.
Mọi công việc liên quan đến cơ quan hành chính Nhà nước cần phải bảo đảm
tuân theo các quy định của pháp luật. Đặc biệt là lĩnh vực đất đai cần có sự tập
trung thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo chức năng quản lý giữa các cấp
các ngành.
Chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước ta được
đông đảo nhân dân ủng hộ. Các công trình công cộng, các khu công nghiệp…
được mọc lên ở cả các vùng sâu, vùng xa đang từng bước mang lại cho các vùng
đó diện mạo mới, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân địa phương, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn
với thành thị, giữa miền ngược với miền xuôi.
Trong quá trình đó các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước các cấp có
vai trò quan trọng trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để thực hiện các dự án đầu tư. Việc giao
đất cho các doanh nghiệp thực hiện dự án phát triển kinh tế phải bảo đảm đúng
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt và phải
công khai để nhân dân được biết.
Đối với các trường hợp ngoan cố chống đối quyết định của cấp có thẩm
quyền cần phải tổ chức cưỡng chế hành chính, nhưng phải thu thập đầy đủ hồ sơ
và phải lập hồ sơ cưỡng chế theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể:
Chính quyền địa phương phải làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công bố

mọi chế độ chính sách bồi thường, mọi khoản người dân được hưởng theo quy
định. Nếu người dân không thi hành thì lập hồ sơ xử lý vi phạm hành chính và tổ
chức cưỡng chế theo quy định.
3.2. Kiến nghị
* Một là: Cần tiếp tục tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật một cách sâu rộng đến quần chúng nhân dân và đến tận cơ sở; làm
cho mọi người thông hiểu pháp luật, tránh tình trạng kém hiểu biết pháp luật dẫn
đến vi phạm pháp luật. Cần đặc biệt chú trọng đến những nơi kinh tế còn khó
khăn vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn độc canh, những điểm còn nhiều yếu
kém về văn hoá, giáo dục… còn nhiều phong tục lạc hậu, ít hiểu biết về pháp
luật…. Thực hiện “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Giáo dục
15


pháp luật cho công dân phải được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi.
Các bộ luật cơ bản của nước ta phải được đưa vào thành môn học ngoại khóa
cho học sinh phổ thông và tổ chức sinh hoạt theo tình huống tháng hoặc
tuần/lần; sắm vai hoặc phiên tòa giả định sao cho thật sự thu hút, vui, dễ nhớ. Để
sau này các em có một số kiến thức cơ bản, không chỉ góp phần nào cho sự hiểu
biết về pháp luật của bản thân mà còn tham gia thuyết phục cho người thân trong
gia đình cũng như ngoài xã hội.
* Hai là: Quản lý nhà nước được thực hiện theo pháp luật là cơ sở chủ
yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, mọi vấn đề thuộc về quản lý phải
tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi
phạm. Cần tăng cường cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp và cụ
thể đổi mới, nâng cao trách nhiệm hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước,
đồng thời nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức phù hợp với quá
trình phát triển kinh tế xã hội. Tiến hành thường xuyên việc đánh giá đội ngũ
cán bộ công chức nếu không có trình độ hiểu biết, không đủ tiêu chuẩn, nghiệp
vụ phải tiếp tục đào tạo bồi dưỡng hoặc điều sang làm công tác khác.

* Ba là: Cần đề ra các chính sách phát triển đất nước một cách kịp thời
đồng bộ có chiến lược, bước đi cụ thể qua từng thời kỳ phải phù hợp sát với thực
tế. Đặc biệt là tăng cường xây dựng hệ thống pháp luật một cách hoàn chỉnh,
toàn diện tránh chồng chéo, bất cập và có tính khả thi cao.
* Bốn là: Cần quy định rõ về năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của
những cán bộ làm công tác chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của công việc,
giải quyết phải thấu tình đạt lý luôn có tính thực thi, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân, lập lại kỷ cương cho xã hội.
* Năm là: Thường xuyên tạo điều kiện nâng cao trình độ về mọi mặt nhất
là kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ từ cơ sở đến thành phố, tỉnh… những
người thường xuyên trực tiếp làm việc với người dân.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013 (đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013).
2. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2013 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2014).
3. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Đất đai số 45/2013/QH13.
4. Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất, thu hồi đất.
5. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước (chương trình
chuyên viên chính).

17



MỤC LỤC


Căn cứ Hiến pháp, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về quyền,
trách nhiệm của Nhà nước và quản lý nhà nước đối với đất đai, gồm: Quyền của
Nhà nước trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn
mức sử dụng đất; thời hạn sử dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất và công
nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; quyết
định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết; quyết định giá đất và chính
sách thu, chi tài chính về đất đai… Luật quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai là Quốc
hội, Chính phủ, HĐND và UBND các cấp.

Bên cạnh những quy định về quyền của Nhà nước, Luật Đất đai năm 2013
cũng quy định rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo hộ các quyền của
người sử dụng đất, như bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp
pháp của người sử dụng đất; có chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất… Nhà nước có trách nhiệm xây dựng, cung cấp thông tin
đất đai và bảo đảm quyền tiếp cận của tổ chức, cá nhân đối với hệ thống thông
tin đất đai. Đồng thời để thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà nước đối với
quyền sử dụng đất của người sử dụng đất, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để
tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực
hiện pháp luật về đất đai, khoản 2 Điều 54 Hiến pháp quy định “Quyền sử dụng
đất được pháp luật bảo hộ”.

Về khoản 3 Điều 54 Hiến pháp quy định “Nhà nước thu hồi đất do tổ
chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công

cộng”. Căn cứ Hiến pháp, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định chi tiết các trường


hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 61) và thu hồi đất để
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 62), qua đó đã thể
hiện 02 quan điểm lớn. Thứ nhất, trong điều kiện cần thiết Nhà nước phải thu
hồi đất để thực hiện các dự án vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh
tế - xã hội nhằm đảm bảo sự phù hợp với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
tình hình hội nhập kinh tế quốc tế và đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, xã hội
của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai việc quy định Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn trực tiếp với các mục
tiêu vì lợi ích quốc gia, lợi ích chung của cộng đồng nhằm kiểm soát chặt chẽ
việc thu hồi đất cũng như hạn chế các hành vi lợi dụng, lạm quyền trong thu hồi
đất. Ngoài ra, khoản 3 Điều 54 quy định “việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” nhằm khẳng định một
cách rõ ràng nguyên tắc công khai, minh bạch và dân chủ trong công tác thu hồi
đất thông qua các quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất; trình tự, thủ
tục thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn đảm
bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất cũng như
đảm bảo những quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi được Nhà nước trao
các quyền và nghĩa vụ tại Khoản 2, Điều 54.

Để Hiến pháp thực sự đi vào cuộc sống, ngoài việc tổ chức tuyên truyền,
phổ biến; các ngành, các cấp cần căn cứ vào nội dung của Hiến pháp và chức
năng, nhiệm vụ của ngành, đơn vị xây dựng kế hoạch hành động cụ thể và tổ
chức thực hiện tuyên truyền rộng rãi; mở chuyên mục, đăng tin, bài viết, chuyên
đề trên các báo, trang thông tin điện tử của tỉnh, địa phương và Website của từng
đơn vị.


Luật Đất đai năm 87 ngày 29 tháng 12 năm 1987 . Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là

2


địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ,
nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay.
Để nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường, đưa
việc quản lý và sử dụng đất đai vào quy chế chặt chẽ, khai thác tiềm năng của đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả, triệt
để tiết kiệm đất, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, từng bước đưa nông nghiệp,
lâm nghiệp lên sản xuất lớn, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ Điều 19, Điều 20 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Thực hiện việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức ngành tài nguyên và
môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Học viện Hành chính
quốc gia tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên
viên cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý hành chính nhà nước tại Trung
tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia.
Qua thời gian gần ba tháng học tập, được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước chương trình chuyên viên, được quý Thầy, Cô của Học viện Hành chính
Quốc gia truyền đạt những kiến thức và kỹ năng về quản lý hành chính nhà nước
gồm những nội dung:
- Nhà nước và pháp luật;
- Hành chính nhà nước và công nghệ hành chính;
- Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người cán bộ, công
chức trong việc thực thi nhiệm vụ tại đơn vị đang công tác. Qua 26 chuyên đề đã
giúp cho học viên nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mới trong
công tác quản lý nhà nước. Đồng thời cũng nhận thức được rằng muốn đạt được

hiệu quả cao trong công tác quản lý, cần phải nhạy bén, nắm chắc được các văn
bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật, vận dụng sáng tạo, kết hợp
linh hoạt với thực tiễn cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến nhiệm
vụ được giao. Vận dụng những kiến thức đã tiếp thu từ quý Thầy Cô, học viên
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Giải quyết việc công dân không chấp hành
quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” để thực hiện

3


tiểu luận cho chương trình “Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương
trình chuyên viên”.
Thực tiễn cho thấy trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, việc
giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân đúng cấp, đúng thẩm quyền
và kịp thời không những đảm bảo được lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng
của công dân mà còn góp phần ổn định trật tự - an ninh xã hội. Qua đó, góp
phần vào việc ngăn chặn và bại trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí của công và các
tệ nạn xã hội khác, xây dựng được khối đại đoàn kết trong nhân dân, tạo được
niền tin của nhân dân đối với hệ thống bộ máy hành chính nhà nước. Mặt khác,
thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời sẽ giảm thiểu tình trạng
khiếu nại vượt cấp. Đồng thời, các cấp, các ngành kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn
những sai sót, lệch lạc, những yếu kém trong công tác quản lý hành chính, kiến
nghị với cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi chế độ chính sách, pháp luật cho
phù hợp với thực tiễn cuộc sống, xử lý nghiêm minh những người sai phạm hoặc
tránh né trách nhiệm.
Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước là bài kiểm tra cuối khoá nhằm
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào điều kiện thực tiễn của hoạt
động quản lý nhà nước hiện hành. Thông qua đó, các học viên có vai trò như là
người cán bộ, công chức có chức năng, thẩm quyền đưa ra phương hướng xử lý
phù hợp với điều kiện thể chế, phong tục tập quán Việt Nam, phong tục từng

vùng, miền. Song, những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý nhà nước
không đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy
đủ khả năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của
từng vấn đề… làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng do thời gian ngắn, kinh nghiệm bản thân có
hạn, nên bài viết này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong được sự
đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô và các học viên khác để bài viết được hoàn
chỉnh hơn.

4



×