BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM GẠCH XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN GỐM XÂY DỰNG THANH SƠN
Chương trình: Điều hành cao cấp-EMBA
NGUYỄN THỊ MINH NGỌC
Quảng Ninh, năm 2018BỘ GIÁO DỤC VÀ DÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM GẠCH XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN GỐM XÂY DỰNG THANH SƠN
Ngành: Quản trị kinh doanh
Chương trình: Điều hành cao cấp- EMBA
Mã số: 60340102
Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Minh Ngọc
Người hướng dẫn: TS Nguyễn Văn Cảnh
Quảng Ninh, năm 2018
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả trong luận
văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác trước
đó.
Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
5
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian khảo sát, nghiên cứu thực tế tại Công ty cổ phần gốm xây dựng
Thanh Sơn, Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn
Văn Cảnh và các thầy cô giáo Khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Ngoại
thương, tập thể ban lãnh đạo và các phòng ban, phân xưởng Công ty cổ phần gốm
xây dựng Thanh Sơn cùng nhiều ý kiến đóng góp của các PGS, TS và nhiều nhà
khoa học kinh tế khác.
Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Nguyễn Văn Cảnh đã nhiệt
tình hướng dẫn trong suốt quá trình làm luận văn.
Học viên xin chân thành cảm ơn các giảng viên tại trường Đại học Ngoại
thương, các bạn bè đã giúp đỡ trong suốt quá trình học tập nghiên cứu tại trường
cũng như quá trình hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn tập thể Ban lãnh đạo và các phòng ban, phân xưởng Công ty cổ
phần gốm xây dựng Thanh Sơn đã giúp học viên hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 9 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Ngọc
6
MỤC LỤC
7
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BQ
DTT
DN
NLSX
VLXKN
VLXD
SXKD
TS
WEF
CTG
Chữ viết đầy đủ
Bình quân
Doanh thu thuần
Doanh nghiệp
Năng lực sản xuất
Vật liệu xây không nung
Vật liệu xây dựng
Sản xuất kinh doanh
Tài sản
Diễn đàn kinh tế
Công ty Cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn
8
DANH MỤC CÁC BẢNG - HÌNH VẼ
BẢNG
HÌNH VẼ
9
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Để thực hiện đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây
dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn”, học viên đã tổng quan tình
hình nghiên cứu về đề tài, qua đó nhận thức được sự cần thiết của việc tăng cường
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng (gạch tuynel) tại Công ty.
Đồng thời đề tài sử dụng các phương pháp: nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu kết hợp
lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa, thống kê, so sánh để có
những dữ liệu hữu ích giúp phân tích các nội dung nghiên cứu về năng lực cạnh
tranh sản phẩm gạch của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn, từ đó đưa ra
giải pháp để hoàn thiện vấn đề này cho Công ty.
Từ các khái niệm và tiêu chí rút ra được, học viên đã khái quát về quá trình
hình thành và phát triển của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn với những
thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và thực trạng về năng lực
cạnh tranh của Công ty, qua đó đánh giá được những kết quả đạt được, thuận lợi,
khó khăn, hạn chế và những nguyên nhân của các hạn chế đó, thấy được điểm
mạnh, điểm yếu và đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm gạch xây dựng của
Công ty.
Từ thực trạng tìm hiểu được, học viên nêu ra định hướng và một số giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạch tranh sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ phần
gốm xây dựng Thanh Sơn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc nghiên cứu, thu thập tài liệu, nhưng do
trình độ năng lực cũng như kinh nghiệm chưa đầy đủ nên chắc chắn đề tài thực hiện
còn nhiều thiếu sót. Học viên rất mong nhận được sự góp ý từ tập thể các thầy cô
giáo, bạn bè đồng nghiệp, Ban lãnh đạo Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn
cùng những người quan tâm đến đề tài nghiên cứu của luận văn này.
10
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển, toàn cầu hóa đã trở thành môi trường của
các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều
kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, các ngành kinh tế nói chung và ngành vật liệu xây dựng nói riêng của Việt
Nam sẽ có nhiều cơ hội, phát triển mở rộng thị trường… tuy nhiên cũng phải chịu
một môi trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt hơn từ các nhà sản xuất, kinh
doanh đầy tiềm năng của nước ngoài.
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch tổng thể vùng đô thị đến năm
2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo kế hoạch này, số lượng thành phố, thị xã, thị
trấn của Việt Nam dự kiến tăng từ mức 813 đô thị (năm 2017) đến mức lên 1000
vào năm 2025, giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2050 chuyển dần sang phát triển
mạng lưới theo đô thị. Kế hoạch tổng thể này nhấn mạnh tầm quan trọng của phát
triển cơ sở hạ tầng đã mang lại triển vọng lâu dài cho ngành xây dựng nói chung và
ngành sản xuất vật liệu xây dựng nói riêng.
Khi áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ thì khả năng rủi ro ngày càng cao
và có ảnh hưởng vô cùng lớn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Các ảnh hưởng đó thể hiện nhiều mặt như: chiến
lược về chính sách giá cả hàng hóa, hệ thống kênh phân phối, dịch vụ hậu mãi… Do
đó buộc doanh nghiệp tham gia nền kinh tế thị trường phải có những giải pháp thích
hợp, kịp thời và chính xác để tồn tại, phát triển. Để đưa ra được giải pháp cạnh tranh
có hiệu quả là một công việc mất nhiều thời gian và vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi
phải xem xét lại nhiều yếu tố cũng như đánh giá lại hiệu quả thực hiện của các
phương pháp đã đề ra. Tuy nhiên trên thực tế, năng lực cạnh tranh của sản phẩm vật
liệu xây dựng nói chung và sản phẩm gạch xây dựng nói riêng còn hạn chế, chưa
xứng với tiềm năng phát triển. Trong bối cảnh đó thì việc phân tích, đánh giá thực
trạng để từ đó nghiên cứu các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
phẩm gạch xây dựng là một yêu cầu bức thiết.
Qua 15 năm xây dựng và trưởng thành (từ năm 2003 đến nay), Công ty cổ
phần gốm xây dựng Thanh Sơn đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng,
11
nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn vẫn còn bộc lộ những hạn chế
và yếu kém cần khắc phục. Để tiếp tục duy trì, khẳng định vị thế và thương hiệu của
mình đòi hỏi Công ty phải không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Xuất phát từ những lí do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực
cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng
Thanh Sơn” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
Quản trị kinh doanh.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của sản
phẩm như:
Micheal E. Poter – Chiến lược cạnh tranh 1988: tác giả đã xây dựng chuỗi giá
trị bao gồm 9 hoạt động thích hợp về mặt chiến lược tạo ra giá trị và giảm chi phí để
đánh giá năng lực của một công ty trong việc tạo ra lợi thế khác biệt.
Michael E. Poter – Lợi thế cạnh tranh quốc gia (1990): tác giả đã giới thiệu
mô hình kim cương gồm bốn yếu tố chính liên kết chặt chẽ với nhau tạo nên lợi thế
cạnh tranh và có thể áp dụng với mọi quốc gia và ngành công nghiệp.
A.Thompson, A. Strickland (2001) khi đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp đã đưa ra hai khái niệm: năng lực cạnh cốt lõi và năng lực khác biệt.
Ở đây, năng lực cốt lõi là một năng lực nguồn mà doanh nghiệp vận dụng nó tương
đối tốt với các hoạt động bên trong khác của doanh nghiệp. Đây là nguồn lực có giá
trị cao của doanh nghiệp. Khái niệm này được sử dụng để phân biệt với năng lực
khác biệt và được hiểu là một tích hợp khả năng cạnh tranh và nguồn lực xác định
mà doanh nghiệp vận dụng nó tương đối tốt so với đối thủ cạnh tranh.
Nguyễn Tuyết Nhung, “Nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm gạch ốp lát của công ty cổ phần Viglacera Hạ Long”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Trường đại học Mỏ - Địa chất, năm 2013. Đề tài đã trình bày tình hình sản
xuất kinh doanh sản phẩm gạch ốp lát của công ty cổ phần Viglacera Hạ Long, nêu
ra những khó khăn tồn đọng để từ đó đưa ra một số chiến lược kinh doanh cho sản
phẩm của công ty.
Đỗ Thị Phương, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm phân bón của công
ty TNHH Baconco trên thị trường”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học
12
Thương mại, năm 2014. Luận văn phân tích đánh giá thực trạng sản phẩm phân
bón của công ty TNHH Baconco trên thị trường nội địa trong thời gian từ năm 2009
-2013, đưa ra những tồn tại khó khăn của công ty để từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm phân bón trên thị trường nội địa trong
tương lai.
Dương Thị Thu Hương, “Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm mì ăn
liền Hảo Hảo của công ty Acecook Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học
Thương mại, năm 2013. Luận văn nghiên cứu và phát triển sâu hơn cơ sở lý thuyết
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và thông qua số liệu thống kê, khảo
sát thực tế tại doanh nghiệp để đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm mì
ăn liền Hảo Hảo, từ đó đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm mì Hảo Hảo của Vina Acecook trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Định Việt Đông, “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, năm
2008. Luận văn đưa ra những biện pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty nói chung và sản phẩm bánh kẹo nói riêng.
Đỗ Thị Mai, “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản của làng nghề Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội”, luận văn thạc
sỹ, năm 2012. Luận văn nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ
xuất khẩu của các doanh nghiệp làng nghề Chàng Sơn, rút ra những tồn tại và khó
khăn để từ đó đề xuất những giải pháp làm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm đồ gỗ
xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến góc độ năng lực cạnh tranh, nâng
cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm ở những công ty khác nhau. Nhìn chung,
cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể về vấn đề
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng nói chung và sản phẩm gạch
xây dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn nói riêng. Vì vậy, việc học
viên nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng
của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn” là cần thiết, có giá trị khoa học
và thực tiễn, đồng thời cũng không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.
Mục đích nghiên cứu
13
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm gạch xây dựng nói chung, áp
dụng cho Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn nói riêng, từ đó phân tích
những hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm gốm xây dựng cho Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn.
3.2.
-
-
-
-
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tập
trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm,
công cụ và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ
phần gốm xây dựng Thanh Sơn thông qua phân tích môi trường tác động đến năng
lực cạnh tranh của sản phẩm này.
Phân tích định hướng và quan điểm của Công ty từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng của Công ty từ nay
đến năm 2020; đồng thời kiến nghị đối với Chính phủ cùng các doanh nghiệp sản
xuất gạch xây dựng để có những chính sách, quy định hợp lý nhằm tạo điều kiện để
Công ty áp dụng các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm của
Công ty nói chung và sản phẩm gạch xây dựng nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
-
gạch xây dựng nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu sản phẩm gạch xây dựng tại Công
ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm gạch xây dựng tại Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn từ năm 2013
đến 2017 và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm này
-
đến năm 2020.
Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm
gạch xây dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn thông qua việc giải
quyết các vấn đề sau:
14
+ Khái niệm cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh tranh sản phẩm, nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng là gì? Các chỉ tiêu đánh giá và các yếu
tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng?
+ Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ
phần gốm xây dựng Thanh Sơn hiện nay?
+ Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây
dựng của Công ty như thế nào?
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đã nêu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
-
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp nghiên cứu kế thừa, tiếp thu tri
thức và lịch sử từ những người đi trước đã làm. Phương pháp này được học viên sử
dụng chủ yếu ở chương 1 của luận văn nhằm làm rõ các khái niệm về năng lực cạnh
tranh sản phẩm gạch xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây
-
dựng.
Phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận và thực tiễn: Là phương pháp nhằm mục
đích thực hành vận dụng giúp thực hiện nhu cầu mục đích của Công ty. Đây là các
giải pháp về công nghệ, vật liệu, tổ chức và quản lý, đào tạo nhân lực... Phương
pháp này được sử dụng tại tất cả các chương của luận văn. Cụ thể, học viên sử dụng
lý luận về các chỉ tiêu đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
sản phẩm để đưa ra các chỉ tiêu đánh giá về năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch
xây dựng và các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch xây
dựng (Chương 1). Kết hợp lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp giúp nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm làm cơ sở đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn
thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ
-
phần gốm xây dựng Thanh Sơn (Chương 2, 3).
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Chủ yếu sử dụng trong chương 2 và chương 3
của luận văn. Cụ thể là được sử dụng để tính toán, phân tích số tuyệt đối, tương đối,
bình quân để phân tích, tính toán các chỉ tiêu và đánh giá sự biến động của các chỉ
tiêu của Công ty. Từ đó tổng hợp đánh giá lại các vấn đề cần nghiên cứu và rút ra
định hướng, giải pháp, kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn.
15
-
Phương pháp hệ thống hóa, được sử dụng xuyên suốt luận văn nhằm trình bày các
vấn đề, các nội dung trong luận văn theo một trình tự, một bố cục hợp lý, chặt chẽ,
có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích,
-
yêu cầu đã được xác định cho luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp so sánh,
phương pháp diễn giải, thống kê..
-
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học:
Luận văn làm rõ khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh sản phẩm và
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng.
Luận văn đưa ra các chỉ tiêu đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
-
cạnh tranh của sản phẩm gạch xây dựng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Từ các phân tích đánh giá trực tiếp trên chất lượng, mẫu mã, giá cả, dịch vụ
sau bán hàng; và các phân tích đánh giá trực tiếp trên thị trường, doanh số bán
hàng, thị phần và hệ thống kênh phân phối của sản phẩn; luận văn rút ra những kết
quả đạt được nổi bật và những hạn chế cần khắc phục để xác định cơ sở thực tiễn
cho việc đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
sản phẩm gạch xây dựng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Tóm tắt kết quả nghiên cứu luận văn, Mở đầu, Mục lục, Kết luận,
Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh và nâng cao năng
lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng của
Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm gạch xây dựng của Công ty cổ phần gốm xây dựng Thanh Sơn.
16
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM
GẠCH XÂY DỰNG
1.1. Khái niệm và các cấp độ năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm
“Cạnh tranh “ là một khái niệm xuất phát từ nền sản xuất hàng hóa, tuy nhiên
cho đến nay được sử dụng rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực kinh tế, thương mại,
luật, chính trị, quân sự, sinh thái; thường xuyên được nhắc tới trong các diễn đàn
kinh tế cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, được sự quan tâm của
nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có nhiều khái niệm khác nhau
về cạnh tranh cụ thể như sau:
Theo C.Mac “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hàng hóa để
thu lợi nhuận siêu ngạch”. (Hội đồng Trung Ương chỉ đạo giáo trình quốc gia, 2014,
p. 57)
Theo cuốn Kinh tế học của P. Samuelson thì “cạnh tranh là sự kình địch giữa
các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường”. (Paul A.
Samuelson, 2011, p. 105)
Theo Từ điển bách khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh là hoạt động ganh đua
hoặc tranh giành ít nhất giữa hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu
thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa”. (Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo biên soạn, 2005, p. 85)
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình
mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi
nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm
đi. (Michael E. Porter (Dịch giả Nguyễn Phúc Hoàng), 2008, p. 98)
Theo cuốn Business Edge (2006), quan niệm cạnh tranh được hiểu là “Một
phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà thực mục đích là dành được
hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thỏa mãn nhằm đạt được
lợi nhuận bình quân và đủ để có lợi ích cho việc kinh doanh bình thường và thù lao
17
cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng
đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất trong
một thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý”. ( Business Edge, 2006, p.
75)
Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm về cạnh tranh như sau:
Cạnh tranh là một phạm trù chỉ sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế của nền
kinh tế thị trường trong việc tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để cùng
theo đuổi mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Thông thường các mục tiêu này là chiếm
lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, khu vực thị
trường có lợi nhất.
1.1.2. Các cấp độ năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh được phân chia thành bốn cấp độ: Năng lực cạnh tranh
cấp quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Bốn cấp độ này có mối liên quan mật thiết, phụ
thuộc lẫn nhau không thể tách rời. Một doanh nghiệp không thể tự trở thành có khả
năng cạnh tranh nếu thiếu môi trường hỗ trợ bao gồm các nhà cung cấp, dịch vụ
phục vụ sản xuất cũng như áp lực cạnh tranh từ các đối thủ trong nước. Một môi
trường duy trì cạnh tranh bắt nguồn từ hệ thống quốc gia các chuẩn mực, luật lệ và
thiết chế xác định, khuyến khích định hình các hành vi của doanh nghiệp. Vai trò
của Nhà nước trong việc phát triển và tái cơ cấu doanh nghiệp là không thể phủ
định. Khi có một tập hợp doanh nghiệp đủ mạnh và có năng lực cạnh tranh với các
doanh nghiệp tại các quốc gia khác thì năng lực cạnh tranh của một ngành so với
ngành đó ở quốc gia khác sẽ tăng lên.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã nêu ra trong báo cáo về tính cạnh tranh
tổng thể năm 1997 “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở
các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác” (Diễn
đàn kinh tế thế giới WEF, 1997, p. 47)
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã chọn tám nhân tố thể hiện năng lực cạnh
tranh quốc gia để đánh giá như sau:
18
-
Mức độ mở của của nền kinh tế;
Vai trò Chính phủ;
Tài chính – Tiền tệ;
Kết cấu hạ tầng;
Công nghệ, nghiên cứu và triển khai;
Quản lý của doanh nghiệp;
Lao động;
Thể chế.
Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng môi trường cạnh
tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực nhằm đạt được và
duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
Trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của một
quốc gia phản ánh từng khía cạnh cụ thể khác nhau được đề cập trong các khái niệm
đã nêu. Một số quan điểm cho rằng năng lực cạnh tranh quốc gia là sức cạnh tranh
dựa vào yếu tố sản xuất như vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Hay
một số quan điểm khác cho rằng năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định trên cơ
sở tăng trưởng kinh tế hay đơn thuần là sự phản ánh thông qua các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được thể hiện thông qua các chỉ tiêu về
trình độ công nghệ, môi trường kinh tế vĩ mô về tài chính và mức độ hội nhập quốc
tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm và môi trường kinh doanh.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng thể hiện qua các yếu tố về công nghệ kỹ
thuật, môi trường kinh tế vĩ mô về tài chính, sự hội nhập quốc tế và vai trò của
chính phủ tác động trực tiếp đến bốn yếu tố cơ bản của môi trường kinh doanh:
Chiến lược của doanh nghiệp; cơ cấu và sự cạnh tranh; các điều kiện về cầu, các
ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan; các điều kiện về yếu tố sản xuất.
19
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh cấp ngành
Theo United Nations: “Năng lực cạnh tranh của một ngành là khả năng sinh
lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán cân thương mại của ngành, cán cân đầu
tư nước ngoài (đầu tư ra nước ngoài và đầu tư từ nước ngoài vào) và những thước
đo trực tiếp về chi phí và chất lượng ở cấp ngành (United Nations, 2001).
Theo Van Duren, “Năng lực cạnh tranh cấp ngành là năng lực duy trì được lợi
nhuận trên thị trường trong nước và quốc tế” (Van Duren, 1991)
Như vậy, bản chất của năng lực cạnh tranh ngành là năng lực cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi
hơn. Năng lực cạnh tranh của một ngành thường xuyên vận động chứ không bất
biến, cấu trức của ngành luôn vận động, biến đổi. Năng lực cạnh tranh cấp ngành
phụ thuộc vào 4 yếu tố sau:
- Nhóm yếu tố do ngành tự quyết định;
- Nhóm yếu tố do Chính phủ quyết định;
- Nhóm yếu tố mà Chính phủ và ngành chỉ quyết định được một phần;
- Nhóm yếu tố hoàn toàn không thể quyết định được.
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc và thị trường ngày càng mở rộng
thì cần có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp được biểu hiện ở khả năng của doanh nghiệp trong việc duy
trì và mở rộng thị phần, mức doanh lợi, lợi nhuận của doanh nghiệp trên thị trường
trong nước, khu vực và thế giới.
Theo Fafchamps cho rằng: “Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả
năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình
thấp hơn giá của nó trên thị trường” ( Michael E. Poter, 1998, p. 54).
Theo nhà quản trị Micheal Poter: năng lực cạnh tranh của công ty có thể hiểu
là khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm
thay thế) của công ty đó. Năng lực giành giật và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ cao
thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao. (Michael E. Porter (Dịch giả
Nguyễn Phúc Hoàng), 2008, p. 102).
Hoặc năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp được hiểu là sức sản xuất ra thu
nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả giúp cho
doanh nghiệp phát triển bền vững trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế.
20
Các định nghĩa trên cho thấy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả
năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra được năng suất
và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập
cao và phát triển bền vững. Để đánh giá được năng lực cạnh tranh cấp doanh
nghiệp, có thể sử dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh, các yếu tố tác
động và mô hình lý thuyết để xây dựng và lựa chọn giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh, từ đó giúp doanh nghiệp triển khai các hoạt động đạt được hiệu suất cao
hơn các đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị cho khách hàng dựa trên sự khác biệt hóa
trong các yếu tố của chất lượng hoặc chi phí thấp, hoặc cả hai.
1.1.2.4. Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm
Bất kỳ một loại sản phẩm nào khi đưa ra thị trường đều có một năng lực cạnh
tranh nhất định. Sản phẩm và dịch vụ có ưu thế cạnh tranh là loại sản phẩm hoặc
dịch vụ chiếm thị phần lớn trên thị trường. Nếu sản phẩm và dịch vụ có lợi thế cạnh
tranh về những khía cạnh như: giá cả, tính năng, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng,
chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi hoặc về tính năng khác biệt thì sản phẩm
hoặc dịch vụ sẽ chiếm thị phần cao trên thị trường quốc tế hoặc thị trường nội địa.
Nói cách khác, loại sản phẩm và dịch vụ đó có tính cạnh tranh cao.
Sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng về giá cả, chất lượng, tính năng, kiểu dáng hay sự khác biệt trong bao
bì, thương hiệu… so với các sản phẩm cùng loại. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh của
sản phẩm được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp thấp thì năng lực cạnh tranh của sản phẩm cũng không
thể cao.
Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm
tuy là hai phạm trù khác nhau nhưng lại có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp tạo ra năng lực cạnh tranh sản phẩm; nhưng năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh sản phẩm quyết định mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là tổng hòa các đặc tính về tiêu dùng và giá trị
vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện
cung vượt cầu. Mặt khác, có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh sản phẩm
chính là năng lực nắm giữ, nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất
21
và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản
xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian
nhất định.
Với cách tiếp cận trên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự
vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các
sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa
là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những
sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Tức là: K - Q/G
Trong đó: Q – Lợi ích tiêu dùng (hay còn gọi là giá trị sử dụng)
G – Giá cả tiêu dùng, bao gồm chi phí để mua và chi phí trong quá trình sử
dụng sản phẩm.
Trong phạm vi nghiên cứu, học viên xin tập trung vào năng lực cạnh tranh của
một sản phẩm đặc thù trong ngành xây dựng, đó là sản phẩm gạch xây dựng.
1.2. Năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch
xây dựng
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh, và nâng cao năng lực cạnh tranh của
sản phẩm gạch xây dựng
1.2.1.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) “Năng lực cạnh tranh là
sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có
hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu
vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. (TS. Nguyễn Thị
Nhiễu, 2013, p. 1)
Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại : “Sức cạnh tranh là năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp, hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp
khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế” (University of Adelaide, 1997, p.
106)
Theo M.Poter, năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh
tranh. ( Michael E. Poter, 1998, p. 30)
Theo Krugman thì “năng lực cạnh tranh ít nhiều chỉ phù hợp ở cấp độ doanh
nghiệp vì ranh giưới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi phí thì hiện
tại hoặc sau này sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản. (Krugman, 1994, p. 45)
22
Có thể hiểu năng lực cạnh tranh là khả năng về mọi mặt hoạt động của doanh
nghiệp: hoạt động sản xuất, hoạt động quản trị cũng như khâu tiêu thụ… nhằm sản
xuất ra được những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao, chi phí sản
xuất thấp, đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hóa, không ngừng
duy trì và mở rộng thị phần, giúp doanh nghiệp khẳng định vị trí vững chắc trên thị
trường.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch
xây dựng là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính
năng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì, chế độ hậu mãi… hơn hẳn
so với các sản phẩm gạch xây dựng cùng loại của đối thủ cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch xây dựng là sự thể hiện thông qua các
lợi thế so sánh đối với sản phẩm gạch xây dựng cùng loại. Lợi thế so sánh của một
sản phẩm bao hàm các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên như năng lực sản xuất,
chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, dung lượng thị phần của sản phẩm trên thị
trường.
1.2.1.2. Khái niệm về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng
Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gạch xây dựng là tìm ra những biện
pháp tác động vào quá trình chế biến, sản xuất và phân phối sản phẩm gạch xây
dựng, làm cho sản phẩm gạch có “tính vượt trội” so với sản phẩm gạch cùng loại
của đối thủ cạnh tranh (nếu sản phẩm chưa có năng lực cạnh tranh) hoặc làm tăng
thêm sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của sản phẩm gạch xây dựng ở
mức độ tốt hơn, cao hơn trên thị trường (đối với sản phẩm đã có năng lực cạnh
tranh nhưng năng lực cạnh tranh còn yếu).
Nói cách khác, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm gạch xây dựng là
sử dụng một số yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được coi là trở ngại
làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch xây dựng đồng thời hoàn thiện
những nhân tố làm tăng tính trội của sản phẩm so với sản phẩm gạch cùng loại của
đối thủ khác (chứ không phải so với chính nó) trên thị trường, nhằm làm cho thị
phần của sản phẩm gạch xây dựng tại thị trường tăng lên so với thị phần của đối
thủ cạnh tranh.
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm gạch xây dựng
23
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định lượng:
- Thị phần của sản phẩm :
Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh cao trên thị trường khi chúng
chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại được bán trên thị trường. Tuy nhiên
chỉ tiêu này cũng cần được vận dụng linh hoạt. Với sản phẩm mới, chưa chiếm lĩnh
được thị trường thì không thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá sức cạnh tranh của
sản phẩm đó trên thị trường vì khi đó phân tích sẽ có sự sai lệch. Thị phần của sản
phẩm gạch xây dựng được hiểu là phần mà công ty chiếm lĩnh được trên thị trường
sản phẩm tương ứng. Lý thuyết phổ thông nhất quan niệm rằng thị phần của các sản
phẩm cạnh tranh khác nhau tỷ lệ với phần nỗ lực marketing của chúng và được biểu
diễn thông qua công thức sau:
Si =
Mi
∑Mi
Trong đó: Si – Thị phần của sản phẩm i
Mi - Nỗ lực marketing sản phẩm
Tuy nhiên, các đối thủ cạnh tranh luôn có hiệu lực chi phí marketing khác
nhau nên công thức trên được điều chỉnh thành:
Si =
(αi . Mi)ei
∑(αi . Mi)ei
Trong đó: ei là hệ số co giãn thị phần với quan hệ đến nỗ lực marketing có
hiệu lực của sản phẩm.
Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm có thể so sánh theo tính lịch sử, tức là năm
sau tốt hơn năm trước để đánh giá sức sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm
có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
- Doanh số bán ra của sản phẩm: là chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Doanh số sản phẩm bán ra của doanh nghiệp càng lớn thì
24
thị phần trên thị trường của doanh nghiệp càng cao. Doanh số lớn đảm bảo doanh
thu đủ để trang trải các chi phí bỏ ra, mặt khác thu được một phần lợi nhuận và có
tích luỹ để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Doanh số bán ra càng lớn thì tốc độ vận
chuyển hàng hoá và chu chuyển vốn càng nhanh, đẩy nhanh quá trình sản xuất mở
rộng của doanh nghiệp. Như vậy số bán ra càng lớn thì khả cạnh tranh của doanh
nghiệp càng cao.
- Tỷ suất lợi nhuận : Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả
năng cạnh tranh của sản phẩm và cũng thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của sản phẩm.
Công thức tính:
- Quy mô về vốn : Một doanh nghiệp có tổng vốn kinh doanh lớn sẽ có khả
năng cạnh tranh cao hơn do có điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới công
nghệ.
- Năng suất lao động: Được đo bằng giá trị sản lượng / một công nhân. Năng
suất lao động càng cao phản ánh doanh nghiệp càng có khả năng giảm chi
phí, hạ giá thành, do đó có khả năng cạnh tranh càng cao trên thị trường.
- Giá thành sản xuất sản phẩm : Phản ánh khả năng cạnh tranh về giá của
doanh nghiệp. Giá thành sản xuất càng thấp, giá bán càng giảm, do đó sẽ
tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Tỷ lệ chi phí marketing/ tồng doanh thu: tỷ lệ chi phí marketing/ tổng doanh
thu cho phép doanh nghiệp đánh giá được liệu một đồng chi phí marketing
bỏ ra thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm.
Việc xác đinh được tỷ lệ này giúp cho các nhà lãnh đạo biết được những nhu
cầu của thị trường, bằng các biện pháp so sánh giữa các năm có thể đưa ra được các
mức chi phí marketing bỏ ra sao cho hợp lý trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận.
Tỉ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu còn là biện pháp xác định cho
từng loại thị trường, đối với các thị trường mới, hay với thị trường đã bão hoà thì
nên sử dụng chi phí marketing như thế nào?
25
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính không đo lường được bằng số lượng cụ thể nhưng nó
rất quan trọng trong việc đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- An toàn trong kinh doanh : Chỉ tiêu chủ yếu về an toàn trong kinh doanh là
đa dạng hoá đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm và phát
triền nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao phản
ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường : Các doanh nghiệp phải xây dựng
nhãn hiệu riêng của mình và khi đọc đến tên nhãn hiệu người tiêu dùng có
thể phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm
này như thế nào so với các sản phẩm khác.
- Uy tín của doanh nghiệp: Đây là yếu tố tác động tới tâm lý người tiêu dùng
và đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Uy tín của doanh nghiệp sẽ
tạo lòng tin cho khách hàng, nhà cung cấp và cho các đối tác kinh doanh và
doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi cũng như được ưu đãi trong quan hệ với
bạn hàng. Uy tín của doanh nghiệp là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Khi
giá trị nguồn tài sản này cao sẽ giúp doanh nghiệp tăng khả năng thâm nhập
vào thị trường trong và ngoài nước, khối lượng tiêu thụ sản phẩm lớn và
doanh thu tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
- Lợi thế thương mại: Một doanh nghiệp được đặt ở vị trí thuận lợi về giao
thông vận tải, dân cư đông đúc thì các hoạt động thương mại mua bán sẽ phát
triển. Bởi vì khi ở những vị trí địa lý thuận lợi bao nhiêu thì hoạt động vận
chuyển, giao nhận hàng hoá sẽ càng tốt bấy nhiêu.
- Chất lượng các dịch vụ: Trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đầu vào cho
đến đầu ra đều có các dịch vụ đi kèm. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đầu
vào trong quá trình sản xuất là rất quan trọng. Bao gồm dịch vụ về công
nghệ, kỹ thuật, dịch vụ thiết kế mẫu mà, dịch vụ quản lý…
Chất lượng các dịch vụ này tốt sẽ là điều kiện tốt cho sản xuất sản phẩm đạt
yêu cầu chất lượng, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá cung ứng ngày càng