Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP bắc á chi nhánh hà thành, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.91 KB, 72 trang )

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực xuất phát từ tình hình hình thực tế của
Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á chi nhánh Hà Thành.

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Doãn Vinh

1
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
1


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC

2
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
2




Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

3
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
3


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống hiện
đại hơn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, thị trường
hàng hóa cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn với nhiều mẫu mã và
chủng loại, đã đáp ứng được các nhu cầu khác nhau và ngày một gia tăng của
người tiêu dùng. Tuy nhiên, không phải người tiêu dùng nào cũng có khả
năng tự chi trả hoàn toàn cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Từ thực tế đó, các
ngân hàng đã phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, vừa đáp ứng nhu cầu
của khách hàng đồng thời tạo ra thu nhập cho ngân hàng.
Theo xu hướng đó, Ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà
Nội cũng đã phát triển một số sản phẩm cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu

cầu của người tiêu dùng như: cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở, cho
vay mua xe ô tô, cho vay cán bộ Ngân hàng Bắc Á không có tài sản đảm bảo,
…Trong những năm qua, chi nhánh đã thu được những kết quả khả quan cả
về quy mô và chất lượng món vay. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh gay
gắt như hiện nay, việc mở rộng và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng một
cách hiệu quả là vấn đề quan trọng cần được quan tâm và chú trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu
dùng, cũng với mong muốn được tìm hiểu về thực trạng và khả năng phát
triển hoạt động này tại Ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà Nội
trong tương lai, em đã lựa chọn đề tài: “Phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà Nội” để nghiên
cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.

4
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
4


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại

Ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà Nội
Trong quá trình nghiên cứu, em đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình
của thầy TS Ngô Đức Tiến, và sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình đến từ các anh chị
của Phòng tín dụng Ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Thành, Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo và các anh chị tại đơn vị thực tập
đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này và mong tiếp tục nhận được
sự chỉ bảo của các thầy cô và các anh chị.

5
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
5


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế, thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, số
lượng các ngân hàng.
Với sự hiện hữu của ngân hàng, các doanh nghiệp, công ty, hãng kinh
doanh có thể dùng các khoản vay của ngân hàng như một nguồn tài trợ vốn
hiệu quả khi có nhu cầu bổ sung thêm vốn để mở rộng hoạt động sản xuất

kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tăng khả năng cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác trên thị trường trong nước và nước ngoài. Với các
cá nhân, hộ gia đình, bằng những khoản vay ngân hàng thương mại , họ có thể
trang trải chi phí học tập, mua sắm ô tô, đồ dùng gia đình, sửa chữa và xây
dựng nhà cửa,… Việc phân bổ vốn qua ngân hàng góp phần nâng cao hiệu
quả huy động và sử dụng vốn của nền kinh tế.
Do hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực trong
nền kinh tế nên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về ngân hàng
thương mại mà tùy thuộc vào mục đích và khía cạnh nghiên cứu.
Trên cơ sở xem xét những loại hình dịch vụ cung cấp, giáo sư Peter Rose
đã khẳng định: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Dưới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, Luật các tổ chức tín dụng
của nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt Nam (2011) quy định: “Ngân hàng
6
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
6


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

là loại hình tổ chức tín dụng có thể thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này”. “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung
ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:

a)

Nhận tiền gửi.

b)

Cấp tín dụng.

c)

Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 số 47/2010/QH12 thì “Ngân hàng

thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận”.
Như vậy, có thể thấy NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất trong các loại hình hoạt động tín dụng. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cụ thể của từng nước mà pháp luật về ngân hàng có những
đặc điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn đống vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất
lượng hoạt động của NHTM. Trong đó, nguồn vốn quan trọng nhất và chiếm
tỷ trọng cao nhất tổng nguồn vốn của NHTM là nguồn tiền gửi của khách
hàng.
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy

động vốn trong nước và nước ngoài.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
tổ chức tín dụng nước ngoài.
7
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
7


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác của NHTM theo quy định của
NHNN.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Theo Điều 98, Luật các tổ chức tín dụng 2010, NHTM được phép cấp tín
dụng cho các chủ thể nền kinh tế dưới các hình thức cho vay; chiết khấu, tái
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân
hàng, phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc
tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình
thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận.
Trong các hoạt động tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm
tỷ trọng lớn nhất.
- Cho vay: NHTM được cho vay các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các
hình thức cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu về vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng ngắn hạn.
Cho vay trung và dài hạn nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất

kinh doanh có gí trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu dài.
- Chiết khấu: NHTM được phép chiết khấu các giấy tờ có giá như
thương phiếu, tín phiếu,.. đối với các tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó,NHTM
cũng có thể đem những giấy tờ có giá này tới các tổ chức tín dụng khác hoặc
NHNN để tái chiết khấu.
- Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng
khác bằng uy tín và khả năng tài chính cảu mình đối với người nhận bảo lãnh.
- Cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính của NHTM được xếp vào loại
hình tín dụng trung và dài hạn. NHTM thường thành lập bộ phận cho thuê hay
8
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
8


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

một công ty cho thuê tài chính độc lập. Ngân hàng cũng thường kết nối với
các doanh nghiệp để đảm bảo chất lượng tài sản cho thuê.
1.1.2.3. Các dịch vụ tài chính khác bổ sung
Ngoài các hoạt động quan trọng như huy động vốn và cấp tín dụng, các
NHTM còn có các sản phẩm dịch vụ tài chính khác được quy định trong Luật
các tổ chức tín dụng 2010 như:
- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán.
- Cung ứng các dịch vụ thanh toán bao gồm: thực hiện dịch vụ thanh

toán trong nước như séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, dịch
vụ thu hộ và chi hộ; thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh
toán khác sau khi được NHNN chấp thuận.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ bảo quản tài
sản hộ, quản lý ngân quỹ, ủy thác và tư vấn. cung cấp dich vụ môi giới chứng
khoán, dịch vụ bảo hiểm cho các chủ thể trong nền kinh tế, tạo điều kiện đa
dạng hóa các hoạt động và sản phẩm trong NHTM.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thỏa
thuận để khách hàng là cá nhân và hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với
mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian
nhất định.
Các khoản cho vay tiêu dùng nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người
tiêu dùng. Đây là nguồn tài chính quan trọng, hữu ích giúp người tiêu dùng có
thể trang trải các nhu cầu chi tiêu, mua sắm trong đời sống như nhà ở, phương
9
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
9


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

tiện, đồ dùng gia đình,… Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng còn đáp ứng những
chi tiêu cho nhu cầu về giáo dục, y tế, du lịch,.. nhờ vậy mà họ có được một

cuộc sống có chất lượng hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng
nói chung:
Một là, quy mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn.
Do nhu cầu của người dân đối với các loại hàng hóa xa xỉ thường là
không cao, hoặc đã có tích lũy từ trước nên các khách hàng tìm đến ngân
hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không cao. Bên cạnh
đó, một phần là do đi kèm với rủi ro cao hơn nên ngân hàng cũng thường thận
trọng hơn trong việc quyết định số tiền cho vay căn cứ theo khả năng trả nợ
và tài sản đảm bảo của các khách hàng.
Tuy nhiên, xét về số lượng các khoản vay tiêu dùng thì nhu cầu vay tiêu
dùng là khá lớn do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân có đủ
điều kiện trong xã hội, từ những người có thu nhập cao đến những người có
thu nhập trung bình, và thấp, với những nhu cầu phong phú và đa dạng. Khi
nền kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí tăng thì nhu
cầu vay tiêu dùng sẽ càng lớn, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng sẽ càng
nhiều.
Hai là, về lãi suất của các khoản cho vay tiêu dùng. Do các khoản vay
thường nhỏ, nên chi phí để cho vay các khoản này thường cao hơn các loại
hình cấp tín dụng khác, dẫn đến lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi
suất cho vay thương mại thông thường.
Mặt khác các khoản cho vay tiêu dùng thường có lãi suất “cứng nhắc”.
Ngay khi quan hệ tín dụng được hình thành thì mức lãi suất đã được xác định
10
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
10



Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

và duy trì trong suốt thời hạn vay mà không thể thay đổi theo điều kiện thị
trường.
Ba là, các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao, bởi nguồn
trả nợ của người vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào thu nhập, quá trình
làm việc, kinh nghiệm, tài năng, sức khỏe,…của người trả nợ. Nếu người vay
gặp vấn đề về sức khỏe, mất việc làm hay có biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến
thu nhập, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Hơn nữa, tư cách,
phẩm chất của khách hàng thường rất khó xác định, không rõ ràng, đầy đủ
như thông tin về doanh nghiệp (thông báo công khai qua các báo cáo tài
chính), mà chủ yếu dựa vào đánh gái cảm nhận và kinh nghiệm của cán bộ tín
dụng. Điều này rất dễ gây ra rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không cân
xứng, ảnh hưởng quan trọng tới quyết định hoàn trả của khoản vay.
Bốn là,các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn. Số lượng các
món vay tiêu dùng nhiều, nhưng lượng vay lại nhỏ nên ngân hàng cần phải
huy động nhiều nhân lực cho hoạt động cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ,
thẩm định kháng hàng, quyết định cho vay, giải ngân cũng như kiểm soát và
thu hồi nợ sau khi cho vay. Mặt khác, chi phí quản lý các khoản vay này lại
lớn do thông tin về khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng cá nhân,
hộ gia đình thường không công khai minh bạch như các doanh nghiệp. Do đó,
chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với
các loại hình cho vay khác.
Năm là,cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có khả năng
sinh lời cao nhất. Đi kèm với rủi ro cao là lợi nhuận kỳ vọng cũng cao.Do cho
vay tiêu dùng có độ rủi ro cao, lãi suất lại cao hơn so với cho vay thương mại
nên độ sinh lời của nó sẽ tăng.

Sáu là, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền
kinh tế tăng trưởng, thịnh vượng, đời sống của nhân dân được nâng cao thì họ
11
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
11


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

có xu hướng tăng nhu cầu vay tiêu dùng nhằm tăng chất lượng cuộc sống. Khi
nền kinh tế suy thoái thì nhu cầu này lại giảm đi. Vào các dịp lễ tế, nhu cầu
mua sắm nhiều thì số lượng các khoản vay cũng tăng lên theo.

12
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
12


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng



Đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt quan trọng đối với những người

có thu nhập thấp và trung bình. Nhờ có cho vay tiêu dùng, họ sẽ được hưởng
điều kiện sống tốt hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện, được hưởng các
dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài chính khi mua sắm các hàng
hóa có giá trị cao nhưng thiết yếu như nhà cửa, xe cộ,… hay trong những
trường hợp có tính đột xuất, cấp bách như nhu cầu y tế và giáo dục.
Cuộc sống của con người càng không ngừng nâng cao nên nhu cầu tiêu
dùng của con người không chỉ dừng lại ở những hàng hóa giản đơn mà có xu
hướng hướng tới những hàng hóa có giá trị cao hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của họ. Mặt khác, việc thỏa mãn nhu cầu sẽ thúc đẩy người
tiêu dùng phấn đấu chi trả cho nhu cầu đó càng sớm càng tốt, vì ngân hàng
thông thường sẽ lấy chính tài sản mua sắm làm tài sản đẩm bảo (tài sản đảm
bảo loại 2). Điều này sẽ khiến họ làm việc chăm chỉ, tích cực hơn và làm tăng
thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều việc đi vay để tiêu dùng có thể sẽ
vượt quá khả năng chi trả các khoản nợ của họ, giảm tiết kiệm và chi tiêu
trong nước. Do vậy, người tiêu dùng cần tính toán để việc chi tiêu được hợp
lý, không vượt quá mức cho phép và đảm bảo khả năng chi trả.


Đối với nhà sản xuất
Các nhà sản xuất luôn mong muốn tăng được lợi nhuận, mở rộng sản

xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh đối với các đối thủ và vững vàng
về thị phần. Để đạt được mục tiêu đó, họ tiêu thụ càng nhiều hàng hóa càng
tốt, họ sẵn lòng bán những hàng hóa trả góp, hay bán chịu trong một thời
gian. Do vậy, nhà sản xuất bán được sản phẩm, khả năng quay vòng vốn

nhanh hơn, mở rộng sản xuất, lợi nhuận công ty được tăng lên.
13
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
13


Học viện tài chính



Khóa luận tốt nghiệp

Đối với ngân hàng thương mại
Ngoài những rủi ro và chi phí khi cho vay tiêu dùng, ngân hàng còn có

thể có được những lợi ích từ cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng nâng cao tính cạnh tranh đối với các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được khách hàng mới do
khách hàng thường có ràng buộc với khách hàng về việc chuyển tiền hoặc
dùng lương trả qua tài khoản ngân hàng. Qua đó mà mở rộng quan hệ với
khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng
đến với ngân hàng sẽ ngày càng tăng, nhờ đó, hình ảnh của ngân hàng sẽ ngày
càng được nâng cao.
Bên cạnh đó, nhờ hoạt động cho vay tiêu dùng, ngân hàng sẽ đa dạng
hóa được sản phẩm, mở rộng sản xuất kinh doanh , nâng cao thu nhập và phân
tán rủi ro cho ngân hàng.



Đối với nền kinh tế
Có thể nói, việc ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay tiêu

dùng không chỉ thoả mãn nhu cầu thiết yếu, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người tiêu dùng mà còn là hoạt động phân bổ vốn hiệu quả cho nền kinh
tế, chuyển tiền từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn, thúc đẩy sản
xuất, tạo công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất.
Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho người tiêu dùng, các NHTM đã
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của các hàng hóa
trong nước, qua đó, hỗ trợ Nhà nước trong việc đạt được các mục tiêu về kinh
tế, xã hội như tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người dân.

14
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
14


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2. Phân loại cho vay tiêu dùng
1.2.2.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng được phân thành ba
loại:
Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó

người đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những
kỳ hạn nhất định do ngân hàng quy định (tháng, quý,…). Hình thức này áp
dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc những khách hàng mà thu nhập
định kỳ của họ không đủ khả năng thanh toán hết số nợ vay trong một lần.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Là khoản vay ngắn hạn của các cá nhân
và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời hoặc mua hàng hóa có giá
trị không lớn và được thanh toán một lần khi đến hạn.
Đặc điểm của các khoản cấp tín dụng này là thường có quy mô nhỏ, thời
hạn cho vay ngắn. Ngân hàng áp dụng hình thức này bởi đây là biện pháp sẽ
giúp ngân hàng không mất nhiều thời gian như khi phải tiến hành thu nợ làm
nhiều kỳ. Trên thực tế, khoản cho vay tiêu dùng cấp theo hình thức này có rất
ít.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong
đó ngân hàng cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần
hoàn, theo một hạn mức tín dụng tín dụng, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu
nhập kiếm đưuọc trong từng kỳ. Khách hàng có thể sử dụng thẻ tín dụng hoặc
phát hành loại sec được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
1.2.2.2. Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng thông thường: Đây là những khoản vay nhằm phục vụ
nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt,
du lịch, học hành, giải trí,… Thông thường, các khoản tín dụng này có quy
15
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
15


Học viện tài chính


Khóa luận tốt nghiệp

mô tương đối nhỏ, thời gian tài trợ ngắn nên ngân hàng sẽ chịu độ rủi ro nhỏ
hơn so với các khoản cho vay tiêu dùng khác. Đối với loại hình cho vay tiêu
dùng này, yếu tố quan trọng để quyết định việc ngân hàng có cho vay hay
không là ở khả năng trả nợ của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị tài
sản đảm bảo. Một số loại hình cho vay tiêu dùng có thể kể đến như:
- Cho vay mua xe hơi: khoản cho vay này tài trợ cho các cá nhân, hộ gia
đình có nhu cầu mua ô tô phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
- Cho vay du học: là khoản vay đối với thân nhân của những người đi du
hộ nhằm hỗ trợ về mặt tài chính tại chỗ hoặc nước ngoài cho người đi du học.
- Cho vay hỗ trợ tiêu dùng khác: là các khoản vay nhằm phục vụ cho các
mục đích đa dạng khác của cá nhân và hộ gia đình như du lịch, y tế, …
Cho vay tiêu dùng bất động sản: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng
nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà cửa của các cá nhân
và hộ gia đình. Đặc điểm của các khoản vay này là thường có quy mô lớn và
thời gian dài. Đối với loại hình này thì việc đánh giá giá trị tài sản đảm bảo có
vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong hoạt động cho
vay tiêu dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người đi vay là yếu tố
quyết định thì trong cho vay tiêu dùng bất động sản, giá trị thị trường cũng
như tình hình biến động của tài sản đảm bảo là yếu tố mà các ngân hàng rất
luôn quan tâm. Do giá trị của khoản tín dụng này thường là lớn, nên sự biến
động theo hướng tiêu cực của giá tài sản đảm bảo sẽ gây thiệt hại rất lớn tới
thu nhập của ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ vào nguồn gốc của các khoản nợ


Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong
đó, ngân hàng sẽ tiếp xúc với khách hàng của mình, thẩm định, đánh
giá nhu cầu vay vốn của khách hàng và việc thu nợ cũng được trực tiếp

tiến hành bởi các cán bộ tín dụng của ngân hàng.
16

Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
16


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Việc cho vay tiêu dùng trực tiếp có thể sơ đồ hóa qua các bước sau đây:

17
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
17


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Sơ đồ 1.1: Quy trình cho vay tiêu dùng trực tiếp:
(3)

(5)


(4)
(2)

(1)

(1) Ngân hàng ký hợp đồng trực tiếp với người mua về cho vay để trả
tiền cho doanh nghiệp bán lẻ. Trường hợp này, ngân hàng phải phân tích tình
hình thu nhập của khách hàng và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần. Trong
trường hợp cho vay mua nhà, ngân hàng yêu cầu người mau phải thế chấp
ngôi nhà vừa mua cho ngân hàng.
(2) Người tiêu dùng trả trước doanh nghiệp bán lẻ một phần số tiền mua
hàng hóa của mình.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho doanh nghiệp bán lẻ.
(4) Doanh nghiệp bán lẻ giao hàng hóa cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng trực tiếp thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Ưu điểm của hình thức cấp tín dụng này là rất linh hoạt. Ngân hàng và
người tiêu dùng trực tiếp đàm phán với nhau, quyết định cho vay hay không
cho vay hoàn toàn phụ thuộc vào ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể khai
thác được trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng.
Do đó, cho vay tiêu dùng bằng cách trực tiếp thường có chất lượng cao hơn
khi được quyết định bởi đội ngũ nhân viên của ngân hàng chứ không phải là
của nhân viên của công ty bán lẻ. Khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân
18
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
18



Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

hàng nên có nhiều lợi thế phát sinh, ngân hàng có thể cung cấp thêm một số
sản phẩm khác làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng và đồng
thời cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.


Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Đây là hình thức ngân hàng sẽ không trực
tiếp ký kết hợp đồng với người tiêu dùng, mà thay vào đó ngân hàng sẽ
ký hợp đồng với chính nhà cung cấp hay các doanh nghiệp bán lẻ, thực
ra là mua những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán
chịu hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa ngân
hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như: đối tượng
khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được bán
chịu... Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thoả thuận
với khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hoá.
Như vậy, cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức NHTM tài trợ cho các

hãng bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để họ bán hàng trả góp cho
người tiêu dùng.
Quy trình của hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể được minh
họa thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Quy trình cho vay tiêu dùng gián tiếp:
(1), (5)
(4)
(3)
(6)


(2)

19
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
19


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng về việc tài trợ (một
phần hay toàn bộ) cho người mua hàng trả góp. Ngân hàng sẽ phân tích tình
hình tiêu thụ của doanh nghiệp, khả năng mở rộng tiêu thụ nếu thực hiện bán
trả góp cũng như khả năng thu tiền sau khi bán. Nếu mối liên hệ giữa doanh
nghiệp với khách hàng không tốt thì khả năng thu hồi tiền trả góp sẽ gặp khó
khăn.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu
hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài
sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ tập hợp toàn bộ hóa đơn chứng từ bán chịu hàng hóa
lên ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể giúp ngân hàng tiếp cận với những
đối tượng có nhu cầu vay cao, tiết kiệm được chi phí liên quan đến việc thẩm
định và đánh giá khách hàng nhờ có sự trợ giúp của phía công ty bán lẻ. Đồng

thời làm gia tăng uy tín và mở rộng địa bàn hoạt động. Tuy nhiên, việc cho
vay tiêu dùng gián tiếp cũng sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng do ngân hàng
không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, nhân viên bán lẻ chưa có đầy
đủ trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm khi xét duyệt thẩm định các
khoản vay lớn. Sự kết hợp đồng thời giữa ba bên: ngân hàng, công ty bán lẻ
và khách hàng cũng đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng và một hợp đồng
chặt chẽ về trách nhiệm các bên.

20
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
20


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng
Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay



Đây là chỉ tiêu quan trọng, phản ánh tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng có
trong tổng dư nợ cho vay. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ cho vay tiêu
dùng đang được chú trọng và phát triển.
Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo mục đích vay vốn




Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của từng sản phẩm riêng lẻ lên
tổng dư nợ cho vay tiêu dùng. Tùy thuộc vào từng thời kỳ cũng như biến động
của thị trường thì tỷ trọng của từng sản phẩm sẽ có xu hướng biến động khác
nhau.


Tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng trong tổng thu lãi từ hoạt động
cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh sự đóng góp của hoạt động cho vay tiêu dùng lên

thu nhập của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ hoạt động cho
vay tiêu dùng ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân
hàng, đóng góp ngày một lớn hơn vào thu nhập của ngân hàng.


Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay trên tổng dư nợ cho vay tiêu dùng
Chỉ tiêu này phản ánh rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng so với

hoạt động cho vay. Chỉ tiêu này àng nhỏ càng tốt, điều này chứng tỏ hoạt
động cho vay tiêu dùng có chất lượng tốt, kiểm soát rủi ro hiệu quả.
21
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
21



Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.3.2. Các chỉ tiêu định tính


Phạm vi hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay tiêu dùng được các ngân hàng xem xét cấp tín dụng

trên phạm vi được phép hoạt động của ngân hàng, theo quy định của quốc gia
và của chính ngân hàng đó. Phạm vi hoạt động càng rộng chứng tỏ hoạt động
cho vay tiêu dùng đang ngày càng phát triển và được quan tâm hơn. Ngược
lại, khi phạm vi hoạt động hẹp, việc cho vay tiêu dùng cũng bị thu hẹp và
không được chú trọng phát triển.


Phương thức và đối tượng cho vay tiêu dùng
Phương thức cho vay tiêu dùng thể hiện quy mô và đối tượng của hoạt

động cho vay tiêu dùng và lượng khách hàng. Nếu ngân hàng có các phương
thức cho vay đa dạng, phong phú, sẽ thu hút được nhiều loại khách hàng đến
với ngân hàng, qua đó, quy mô của hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ tăng lên.
Ngược lại, nếu phương thức cho vay ít, đơn điệu, thì lượng khách hàng đến
với ngân hàng sẽ ít, quy mô cho vay cũng thu hẹp đi.
Đối tượng khách hàng vay món vay tiêu dùng phản ánh về các loại
khách hàng sử dụng các sản phẩm CVTD. Khi đối tượng cho vay đa dạng và
phong phú sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, doanh số
CVTD sẽ tăng lên, phản ánh sự mở rộng của hoạt động cho vay tiêu dùng tại
ngân hàng.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.2.4.1. Các nhân tố chủ quan
(i) Nguồn vốn của ngân hàng: Ngân hàng cho vay dựa trên nguồn vốn
huy động của mình. NHTM nằm trong sự quản lý của NHTW và tuân thủ các
quy định của pháp luật. Một ngân hàng chỉ được huy động một số vốn gấp 20
22
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
22


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

lần số vốn tự có. Điều này có nghĩa là, nếu vốn tự có càng lớn thì khả năng
huy động vốn của ngân hàng càng cao. Khi nguồn vốn của ngân hàng tăng
trưởng đều đặn và hợp lý thì ngân hàng có thêm tiền cho khách hàng vay, do
đó, hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ được mở rộng và tăng cường. Và
ngược lại, nếu nguồn vốn ít thì không đủ tiền cho khách hàng vay, ngân hàng
sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư, lợi nhuận của ngân hàng sẽ không cao, việc tăng
cường hoạt động cho vay cũng sẽ bị hạn chế.
(ii) Định hướng phát triển của ngân hàng: Đây có thể coi là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu như trong
kế hoạch định hướng phát triển của mình, ngân hàng không chú trọng, quan
tâm đến hoạt động này thì dù khách hàng có nhu cầu thì ngân hàng cũng sẽ
không đáp ứng để thỏa mãn nhu cầu của họ. Ngược lại, nếu như ngân hàng
quan tâm đến mảng hoạt động này thì họ sẽ đưa ra những chiến lược phù hợp

để thu hút các khách hàng đến với cho vay tiêu dùng của ngân hàng, đồng
nghĩa với việc cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển.
(iii) Năng lực tài chính của ngân hàng: Điều này được thể hiện ở một số
yếu tố như lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ lợi nhuận năm sau so với năm trước,
tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ, lượng tài sản thanh khoản. Nếu ngân
hàng có lượng vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận cao, nợ quá hạn
thấp và lượng tài sản có tính thanh khoản cao, khả năng huy động vốn trong
thời gian ngắn cao thì đó có thể được coi là sức mạnh tài chính của ngân
hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ có cơ hội đầu tu vào những danh mục mà họ quan
tâm, và cơ hội phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng cũng nhiều lên. Và
ngược lại, khi ngân hàng không có đủ số vôn cần thiết để tài trợ cho các
khoản mục thifnhoatj động cho vay tiêu dùng cũng sẽ có ít cơ hội phát triển.
(iv) Chính sách tín dụng của ngân hàng: Đó là tổng thể các quy định của
ngân hàng về hoạt động tín dụng nhằm đưa ra định hướng và hướng dẫn hoạt
23
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
23


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

động của cán bộ tín dụng ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho các khách
hàng. Một số yếu tố có thể kể tới trong chính sách tín dụng như: quy mô tín
dụng, lãi suất, kỳ hạn cho vay, đảm bảo, phạm vi, hạn mức tín dụng, các
khoản tín dụng có vấn đề,… Chính sách tín dụng vạch ra cho cán bộ tín dụng
hướng đi và khung tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét các nhu

cầu vay vốn. Nếu ngân hàng có chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn, linh
hoạt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó vừa
có thể thành công trong việc tăng cường hoạt động cho vay và vừa có thể đảm
bảo được chất lượng tín dụng. Khi ngân hàng đa dạng hóa các mức lãi suất,
phù hợp với cụ thể từng loại khách hàng, từng kỳ hạn thì sẽ thu hút được
nhiều khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngược lại, nếu như
chính sách này cứng nhắc, bất hợp lý, không theo sát tình hình thực tế thì sẽ
làm khó khăn trong việc tăng cường hoạt động cho vay của mình.
(v) Số lượng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ tín
dụng: Điều này ảnh hưởng lớn tới sự thành công của việc phát triển hoạt động
cho vay tiêu dùng. Nếu các cán bộ tín dụng không có đạo đức nghề nghiệp thì
dù giỏi đến mấy thì cũng là vô ích, vì tư lợi cá nhân, họ có thể sẵn sàng làm
tổn hại, thất thiệt đến lợi ích của cả tập thể ngân hàng. Nhưng có đạo đức thôi
thì vẫn chưa đủ, cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ
hiểu biết rộng thì mới có thể thẩm định một cách chính xác khách hàng và dự
án vay vốn, từ đó đưa ra quyết định đắn. Dưới con mắt của khách hàng thì các
cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu khách hàng tiếp xúc với
cán bộ ngân hàng mà họ có thể cảm thấy an tâm về trình độ nghiệp cụ, hài
lòng về các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Hơn nữa, các cán bộ tín dụng có mối
quan hệ rộng rãi trong xã hội thì họ có thể thu hút được nhiều khách hàng
hơn.
24
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
24


Học viện tài chính


Khóa luận tốt nghiệp

(vi) Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý ngân hàng: Nếu
ngân hàng có công nghệ hiện đại thì các thủ tục sẽ được giải quyết nhanh
chóng, chính xác, vệc quản lý hồ sơ cũng được thuận tiện hơn. Chẳng hạn
như, khi ngân hàng trang bị các công nghệ thông tin hiện đại thì họ có thể
tăng tiện ích cho khách hàng của mình, thông qua dịch vụ thẻ thanh toán, Ibanking,.. ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình
thông qua tài khoản trên dịch vụ cho vay thấu chi, thẻ tín dụng,.. Bên cạnh
đó, ngân hàng cũng cần có các quy định, nội quy là việc thưởng phạt nghiêm
minh, quản lý tốt để tạo động lực làm cho việc cho cán bộ nhân viên ngân
hàng, tác động đến phong cách làm việc của nhân viên.
1.2.4.2. Nhân tố khách quan


Nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng
(i) Đạo đức người đi vay: được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ

tín nhiệm của khách hàng vay vốn. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng
xem xét quyết định cho vay. Bởi nếu khách hàng không có thiện chí trả nợ thì
dù họ có thu nhập cao, ổn định để trả nợ thì rủi ro khi cho vay của ngân hàng
cũng sẽ là rất lớn. Đạo đức người vay trong quan hệ tín dụng được thể hiện
qua độ tín nhiệm của khách hàng trên cơ sở tính thật thà, sự sẵn lòng trả nợ
của khách hàng,…
(ii) Khả năng tài chính: ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Nguồn hào trả cho khoan vay tiêu dùng thường là thu nhập thường xuyên của
khách hàng trong tương lai. Khoản thu hập này ảnh hưởng tới quyêt định cho
vay của ngân hàng cũng như nhu cầu vay vốn của khách hàng.
(iii) Tài sản đảm bảo: mang tính dự phòng rủi ro và tăng cường mức độ
an toàn cho khoản tín dụng cho ngân hàng do tài sản đảm bảo cũng khiến các
khách hàng có thiện chí hơn trong việc trả nợ. Tuy nhiên, khi phát mịa tài sản

đảm bảo cũng đòi hỏi thời gian và chi phí khác liên quan,… Vì vậy, tài sản
25
Nguyễn Doãn Vinh

Lớp: CQ50/15.04
25


×