Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của dự án phát triển doanh nghiệp nông thôn ( REEP) – bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.28 KB, 70 trang )

Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

LỜI CAM ĐOAN
Họ và tên : Trịnh Minh Tiến
Lớp: CQ K45.08.01
Khoa Tài chính Quốc tế
Trường học viện Tài chính

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và xuất phá từ tình
hình thực tế của đơn vị thực tập.

Tác giả luận văn

TRỊNH MINH TIẾN

SV: Trịnh Minh Tiến

1

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, khi quá trình hội nhập diễn ra ở tất cả các thành phần kinh tế,


kinh tế nông thôn chiếm vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt
Nam. Ở Việt Nam gần 80% dân số sinh sống ở nông thôn, vì thế việc phát
triển tốt khu vực nông thôn là một tiền đề tích cực để phát triển nền kinh tế
của cả quốc gia. Nhận thấy được vị trí chiến lược đó, những năm qua đã có rât
nhiều chương trình dự án với mục tiêu là phát triển khu vực tư nhân, phát
triển các doanh nghiệp nông thôn Việt Nam. Các dự án đó một phần không
nhỏ được thực hiện với nguồn kinh phí được lấy từ nguồn vốn hỗ trợ ODA.
Ngoài nguồn vốn trong nước, ODA là một sự bổ trợ nguồn vốn rất cần
thiết cho các dự án chương trình phát triển của nước ta. Bên cạnh sự hỗ trợ về
nguồn vốn, với ODA chúng ta còn tiếp thu được kinh nghiệm, trình độ, tri
thức và phương pháp quản lý sử dụng vốn. Đó thực sự là những yếu tố cần
thiết để phát triển kinh tế nói chung và phát triển tốt khu vực doanh nghiệp
nông thôn nói riêng của nước ta. Và do vậy cần có những biện pháp nâng cao
việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho khu vực doanh nghiệp nông
thôn từ đó sẽ thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược phát triển đề ra.
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề trên, trong quá trình thực tập tại
Phòng kế hoạch tổng hợp – Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Quảng Ninh, dựa trên
các kiến thức về ODA, em chọn đề tài : “Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức của dự án Phát triển doanh nghiệp nông
thôn ( REEP) - Bài học kinh nghiệm “.
Đề tài khái quát lại và làm rõ cơ sở lý luận về nguồn vốn ODA cũng
như một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA. Qua đó đánh giá
thực trạng về quá trình phân bổ và sử dụng nguồn vốn của dự án phát triển
doanh nghiệp nông thôn, phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng và từ đó đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA nói chung
và các dự án tương đương nói riêng.
Phạm vi của đề tài chủ yếu tập trung phân tích hiệu quả của quá trình
phân bổ sử dụng vốn ODA cho các hợp phần ở tỉnh Quảng Ninh, thủ tục và
quá trình giải ngân của chương trình từ đó đưa ra được các tác động, bài học


SV: Trịnh Minh Tiến

2

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

và biện pháp nâng cao sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho phát triển khu
vực doanh nghiệp nông thôn.
Bài luận văn được trình bày với nội dung chính gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức
với phát triển doanh nghiệp nông thôn
Chương II: Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA của dự án “Phát triển
doanh nghiệp nông thôn ( REEP)”
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cho phát
triển doanh nghiệp nông thôn - Bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án REEP
Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn của các thầy cô giáo
trong khoa Tài chính quốc tế đặc biệt là giảng viên: Vũ Việt Ninh, cùng các
anh, chị phòng kế hoạch tổng hợp và phòng kinh tế đối ngoại – Sở Kế hoạch
Đầu tư tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về mặt kiến thức cũng như hạn chế của bản
thân nên bài luận văn không thể tránh khỏi những thiếu xót, em kính mong sự
quan tâm góp ý của các thầy cô giáo, của độc giả để bài luận văn được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Hạ Long, ngày 30 tháng 4 năm 2011
Sinh viên


Trịnh Minh Tiến

SV: Trịnh Minh Tiến

3

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BDC
BDO
CIDA
CAD
DNNVV
DNNT
HTX
HLHPN

ODA

Các trung tâm phát triển kinh doanh
Văn phòng phát triển doanh nghiệp
Cơ quan phát triển Quốc tế Canada

Đồng đô la Canada
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nông thôn
Hợp tác xã
Hội liên hiệp phụ nữ
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

SV: Trịnh Minh Tiến

4

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1.

Cơ cấu phân bổ ODA theo ngànhcủa Việt Nam giai
đoạn 1993 – 2008

Đồ thị 2.1

Đồ thị khó khăn cơ bản của DNNT

SV: Trịnh Minh Tiến


5

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

CHƯƠNG I
ODA VÀ VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG THÔN

1.1. VÀI NÉT VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA)
1.1.1. Khái niệm
Ngày nay, trên thế giới có lẽ không một quốc gia nào lại không biết đến
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức Official Development Assistance viết
tắt là ODA, một nguồn vốn mang lại lợi ích kinh tế cho cả người nhận lẫn
người cung cấp. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới, tùy theo
từng cách tiếp cận, có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA, cụ thể như sau:
Theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) thì “Nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức là những nguồn tài chính do các Chính phủ hoặc các Tổ
chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia viện trợ cho một quốc gia nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi cho quốc gia đó”.
Theo Ngân hàng thế giới thì “Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là một
bộ phận của tài chính phát triển chính thức, trong đó các khoản vay cần đạt ít
nhất 25% yếu tố cho không”.
Theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ
Việt Nam thì “Hỗ trợ phát triển chính thức được hiểu là hoạt động hợp tác

phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song
phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”.
Như vậy, ODA được hiểu là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế (WB,ADB...), các tổ chức
của hệ thống Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ (NGO), Chính phủ
các nước (thường là các nước phát triển) dành cho Chính phủ một nước
(thường là nước đang và chậm phát triển) nhằm giúp chính phủ nước đó phát
triển kinh tế xã hội.

SV: Trịnh Minh Tiến

6

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

1.1.2. Đặc điểm ODA
ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các cho vay ưu đãi. Do
vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu :
ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi
Với mục tiêu hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát
triển, ODA mang tính ưu đãi hơn bất kỳ hình thức tài trợ nào khác. Tính chất
ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện qua những ưu điểm :
- Lãi suất thấp:
Các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp, ví dụ như lãi suất

các khoản vay ODA của Nhật Bản dao động từ 0,75 - 2,3% năm, của Ngân
hàng Thế giới (WB) là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ là 0,75%/năm,
mức lãi suất của Ngân hàng Phát triển Châu Á thường từ 1-1,5%/năm…
- Thời hạn vay dài:
Gắn với mức lãi suất tín dụng thấp, ODA có thời gian vay dài, như các
khoản vay của Nhật Bản thường có thời hạn là 30 năm, Ngân hàng Thế giới (WB)
là 40 năm, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là 32 năm.
- Thời gian ân hạn:
Đối với ODA vay: thời gian từ khi vay đến khi phải trả vốn gốc đầu
tiên tương đối dài, 10 năm đối với các khoản vay từ Nhật Bản và Ngân hàng
Thế giới, 8 năm đối với Ngân hàng Phát triển Châu Á.
Nguồn vốn ODA thường đi kèm với các điều kiện ràng buộc
Nhìn chung, các nước nhận viện trợ ODA đều có chính sách riêng và
những quy định ràng buộc khác nhau đối với nước tiếp nhận. Họ vừa muốn
đạt được ảnh hưởng về chính trị, vừa muốn đem lại một số lợi nhuận thông
qua việc yêu cầu nước nhận viện trợ phải mua máy móc, thiết bị, hàng hóa
hay dịch vụ của họ, thuê các chuyên gia tư vấn thiết kế từ họ.ODA luôn bị
ràng buộc trực tiếp hay gián tiếp, đi kèm theo với ODA bao giờ cũng có
những ràng buộc nhất định về chính trị, kinh tế hoặc khu vực địa lý.
ODA có khả năng gây nợ
Cần nhận thức rằng ODA có mức ưu đãi nhưng không phải vì vậy mà nó
không để lại gánh nặng nợ nần. Sự ưu đãi của ODA chỉ khiến cho mức nợ nần
giảm xuống và thời gian trả nợ dài ra. Thế nhưng gánh nặng nợ của ODA
thường xuất hiện sau một thời gian dài. Vấn đề khó khăn là ở chỗ ODA không
SV: Trịnh Minh Tiến

7

Lớp: CQ45/08.01



Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

được đầu tư trực tiếp cho sản xuất mà là phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, phát
triển y tế, văn hoá, giáo dục, là những lĩnh vực phi sản xuất vật chất nên hiệu
quả nó mang lại là gián tiếp. Trong khi đó số nợ của ODA thì lại tồn tại và
trực tiếp thêm vào gánh nặng nợ của nước tiếp nhận. Vì vậy việc phối hợp sử
dụng ODA với các nguồn vốn khác là cực kỳ quan trọng nhằm tăng cường
khả năng trả nợ, đồng thời vẫn đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội.
1.1.3. Phân loại ODA
 Theo phương thức hoàn trả
- ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà bên nhận tài trợ
không phải hoàn trả cho bên tài trợ. Có thể coi ODA không hoàn lại như một
nguồn thu của ngân sách Nhà nước, được sử dụng theo hình thức Nhà nước
cấp phát lại cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- ODA vay ưu đãi: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền, với
các điều kiện ưu đãi về lãi suất (thấp hơn lãi suất thị trường), thời gian ân hạn
và thời gian trả nợ, hoặc không chịu lãi vay mà chỉ chịu chi phí dịch vụ, đảm
bảo Yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 35% đối với
các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
- ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các
khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương
mại, nhưng tính chung lại có Yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với
các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
 Theo nguồn cung cấp
- ODA song phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức từ nước
này cho nước kia (nước phát triển cho nước đang hoặc kém phát triển) thông
qua Hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.

- ODA đa phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức của một số
tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB...) và khu vực (ADB, EU...) hoặc các tổ
chức phát triển của Liên hợp quốc như: (UNDP), (UNICEF), Tổ chức nông
lương thế giới (FAO)...
Theo mục đích sử dụng
- Hỗ trợ theo chương trình: Là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng
hiệp định với các nhà tài trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA trong một
SV: Trịnh Minh Tiến

8

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

khoảng thời gian mà không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ sử
dụng như thế nào. Đây là loại hình ODA trong đó các bên lồng ghép một hay
nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án, hay nhiều hợp phần.
- Hỗ trợ theo dự án: Là khoản hỗ trợ, trong đó nước nhận hỗ trợ phải
chuẩn bị chi tiết dự án. Loại hình hỗ trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
nguồn ODA và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã
hội. Trị giá vốn của các dự án đầu tư thường lớn hơn và thời gian thực hiện
dài hơn các loại dự án khác.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại hình thường tập trung chủ yếu vào chuyển
giao kiến thức hoặc tăng cường cơ sở, lập kế hoạch, tư vấn, nghiên cứu tình
hình thực tiễn, nghiên cứu tiền khả thi…
1.2. NGUỒN VỐN ODA VỚI PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG THÔN

1.2.1. Vài nét về doanh nghiệp nông thôn
Nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia, kể
cả những nước đã đạt đến trình độ phát triển cao. Nó là khu vực sản xuất chủ
yếu, đảm bảo việc làm và đời sống cho xã hội, là thị trường cung cấp nguyên
liệu và tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế, nguồn nhân lực và nguồn tích lũy
cho công nghiệp hóa, phát triển kinh tế. Hiện nay dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, nông nghiệp ngày nay khẳng định vị trí của mình
trong cơ cấu nền kinh tế. Nó góp phần tích cực thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Trước hết có thể khẳng định Việt Nam là một nước Nông nghiệp với
điểm xuất phát thấp, cơ cấu nông nghiệp độc canh, đây là ngành sản xuất chủ
yếu, GDP từ nông nghiệp còn lớn, trong giai đoạn 2000 đến 2008 đóng góp tới
20 % GDP quốc gia, và năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản
toàn ngành đạt 15,65 tỷ USD, trong đó nông sản đạt hơn 8 tỷ USD, thủy sản
đạt 4,25 tỷ USD, và lâm sản đạt 2,799 tỷ USD. Để đạt được những thành quả
trên là do sự đóng góp không nhỏ của bộ phận doanh nghiệp nông thôn.
1.2.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nông thôn
Doanh nghiệp nông thôn là một khái niệm khá ở nước ta trong những
năm gần đây, Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa,
SV: Trịnh Minh Tiến

9

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính


chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam đã
diễn ra được hơn hai thập kỷ trên nhiều khía cạnh, trong đó có vấn đề tự do
hóa kinh doanh. Từ một nền kinh tế với hai chủ thể chủ lực là xí nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã đã xuất hiện một cộng đồng doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đang lớn mạnh bao gồm: hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân (căn cứ theo luật
doanh nghiệp Việt Nam 2005).
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn
định các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp nông thôn đa số là các doanh
nghiệp tư nhân nhỏ vừa và vi mô “siêu nhỏ” chiếm 97% tổng số doanh nghiệp
nông thôn (số liệu 2010- cục thống kê) hoạt động trong các vĩnh vực : nông,
lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ… ở nông thôn.
Chuyên đề này chủ yếu nghiên cứu về doanh nghiệp tư nhân nhở, vừa và vi
mô ở nông thôn.
Ngày nay, phần lớn các doanh nghiệp nông thôn tồn tại dưới các hình
thức vĩ mô “siêu nhỏ” (có 4 đến 9 lao động) và “nhỏ” (dưới 50 lao động).
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP doanh nghiệp nhỏ và vừa: “Doanh nghiệp
nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”.
1.2.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp nông thôn
Qui mô vốn nhỏ
Phần lớn các doanh nghiệp nông thôn thành lập từ nguồn tiết kiệm của
một gia đình hoặc các hộ cùng chung vốn, họ rất khó tiếp cận các nguồn tín
dụng. Hiện nay phần lớn các nguồn tín dụng được cấp cho các doanh nghiệp
có quy mô lớn. Các doanh nghiệp này có hồ sơ vay tín dụng thuyết phục hơn,

có đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệp và có nhiều tài sản thế chấp hơn các
doanh nghiệp vừa nhỏ và vi mô. Hệ thống ngân hàng Việt Nam và các tổ chức
tín dụng khác thiếu kiến thức về việc làm thế nào để đáp ứng các nhu cầu đặc
SV: Trịnh Minh Tiến

10

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

thù của các doanh nghiệp nông thôn. Các cơ quan này còn rất rụt rè trong việc
cung cấp các dịch vụ với mức giá phải chăng
Thiếu kiến thức thành lập phát triển doanh nghiệp
Do khu vực kinh tế tư nhân mới thành lập và bắt đầu phát triển tại Việt
Nam trong thời gian gần đây, nên có rất ít kiểu mẫu về doanh nghiệp nông
thôn thành công. Các doanh nghiệp phát triển trong môi trường “thử
nghiệm/mắc lỗi” nên gây chậm trễ trong việc phát triển doanh nghiệp điều
này đe dọa đến sự sống còn của doanh nghiệp.
Các nhà doanh nghiệp thiếu kiến thức trong công tác quản lý , thiếu sự
hiểu biết về luật phát, môi trường kinh doanh, nhu cầu thị trường…Thêm vào
đó, khả năng tiếp cận hạn chế tới các nguồn tín dụng, tiếp thị, thông tin, nối
mạng doanh nghiệp và các chương trình đào tạo quản lý ở khu vực nông thôn
đã kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp.
Khả năng kết nối, tiếp cận các dây chuyền sản xuất và xâm nhập thị
trường trong nước và xuất khẩu còn hạn chế
Chất lượng sản phẩm kém và việc thiếu thông tin thị trường (mức cầu,

cung, sự cạnh tranh và các xu hướng của thị trường) gây ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp vừa, nhỏ và vi mô và là tình trạng phổ biến ở các doanh nghiệp
vi mô ở các vùng nông thôn, nơi công tác thông tin còn hạn chế và việc sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển. Các doanh nghiệp
nông thôn ít có cơ hội học hỏi các điển hình thành công, ít được tham gia các
lớp nâng cao trình độ tay nghề.
Ít lao động lành nghề, đa phần là lao động thời vụ, bán thời gian
Hiện nay sự chuyên môn hóa còn rất mới mẻ ở nông thôn Việt Nam,
phần lớn một lao động thực hiện tất cả tất cả các khâu trong quá trình tạo ra
sản phẩm. Do đặc tính mùa màng ở các vùng nông thôn Việt Nam, có gần
70% số lao động trong các doanh nghiệp nông thôn là lao động thời vụ không
được kí hợp đồng dài hạn. Do số vốn nhỏ nên các doanh nghiệp nông thôn
thường tận dụng người nhà, người quen, những người chưa được qua đào tạo
để tiết kiệm chi phí, Nguồn nhân lực trong nông thôn yếu kém, thêm vào đó ¾
diện tích nước ta là đồi núi, sinh sống trên đó là rất nhiều bà con dân tộc thiểu số
còn đang trong tình trạng nghèo đói và lạc hậu đang cần ánh sáng văn minh từ
miền xuôi, nông dân với tư tưởng tiểu nông, sản xuất còn manh mún, phân tán
SV: Trịnh Minh Tiến

11

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

nên năng suất không cao, khó năm bắt, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp cho nên năng suất cũng như chất lượng sản phẩm chưa cao.

Điều này được thể hiện rõ trong thời gian qua tuy một số mặt hàng nông sản đạt
vị thứ cao trong xuất khẩu nhưng chúng ta không những không chi phối được
giá cả mà còn bán với giá thấp hơn giá các nước khác.
Có khả năng thích ứng trước các biến động của thị trường
Các doanh nghiệp nông thôn đa phần là doanh nghiệp vừa, nhỏ và vi
mô nên lượng vốn và lao động không lớn, số lượng sản phẩm làm ra không
nhiều hoạt động với qui mô nhỏ nên có khả năng dễ dàng thay đổi công nghệ,
tiêu thụ sản phẩm. Khi thị trường bị biến động : khủng hoảng kinh tế, xu
hướng thị trường thay đổi … các doanh nghiệp nông thôn sẽ ít bị thiệt hại hơn
so với các doanh nghiệp có qui mô lớn
1.2.1.3. Vai trò và tính tất yếu của sự phát triển doanh nghiệp nông thôn
Nông thôn và phát triển nông thôn là một trong những mối quan tâm
hàng đầu của các quốc gia trên thế giới bởi vấn đề nông nghiệp nông thôn
không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị xã
hội. Việt Nam với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, nông nghiệp và nông
thôn vẫn được xác định là mặt trận hàng đầu Nông thôn đang cung cấp những
sản phẩm quan trọng thiết yếu cho đời sống của toàn dân và cho xuất khẩu.
Thực tế thì nông thôn đang chịu nhiều thiệt thòi, sự thiếu thốn về đời sống
văn hóa tinh thần cũng như sự chệnh lệch về thu nhập giữa khu vực nông thôn
và thành thị ngày càng lớn. Đó là thách thức cũng là cơ hội để chúng ta tận
dụng và phát huy tiềm lực của nông thôn. Việc phát triền doanh nghiệp nông
thôn là sự tất yếu bởi:
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta, đã và đang
xuất hiện vấn đề cấp bách và bức xúc trong nông thôn, đó là vấn đề việc làm
cho nông dân. Trong thời gian tới, ở nông thôn, sẽ có 5 triệu người bước vào
độ tuổi lao động. Số lao động nông thôn hiện nay vẫn chưa đủ việc làm còn
lớn; trong tổng số 24 triệu lao động mới sử dụng khoảng 80% thời gian làm
việc 20% thời gian tương đương 4,8 triệu người. Đồng thời với tốc độ đô thị
hóa, hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, số nông dân không còn
đất canh tác ngày càng nhiều, cần có việc làm mới. Theo dự kiến , trong giai

đoạn 2010-2015, diện tích đất bị thu hồi sẽ là 435.460 héc- ta, số lao động
SV: Trịnh Minh Tiến

12

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

không có việc làm sẽ vào khoảng 3,5 triệu người. Cộng lại sẽ có khoảng 13,3
triệu người ở nông thôn cần giải quyết việc làm. Những người này di chuyển
ra thành phố, nhưng không nghề, không việc làm, không có thu nhập hoặc thu
nhập không ổn định, đang tạo ra sức ép lớn với thành phố về nhiều mặt và nếu
không giải quyết tốt, sẽ nảy sinh tệ nạn xã hội. Vì vậy vấn đề giải quyết việc
làm cho nông dân ngay trên địa bàn nông thôn phải là hướng chủ yếu, bằng
việc phát triển ngành nghề sản xuất và dịch vụ, qua việc phát triển mạnh mẽ
hơn nữa các loại hình doanh nghiệp.
Không thể có sự phát triển bền vững của đất nước nếu không có sợ phát
triển bền vững của nông thôn. Đây cũng là định hướng của Đảng và chính phủ
đã được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nhấn
mạnh :”phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa
và nhỏ; phát triển bền vững các làng nghề. Khái niệm doanh nghiệp ở đây
được hiểu theo nghĩa rộng là các HTX, doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH… đó là những tổ chức sản xuất , kinh doanh hàng hóa có đăng kí.
Thực tế là hiện nay, đã và đang có nhiều tổ sản xuất, tổ hợp tác có quy mô
kinh doanh khá lớn, cả về doanh thu và chất lượng lao động mà do nhiều
nguyên nhân họ vẫn kinh doanh ở loại hình tổ hợp sản xuất, tổ hợp tác mà

không chuyển lên hình thức doanh nghiệp. vì vậy để phát huy mọi nguồn vốn,
phát triển ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm cho nông dân, nên cần phát triển
loại hình các này, đông thời với quy mô như các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nông nghiệp nông thôn với các nông sản đang là sản phẩm chủ lực của
nước ta trong xuất khẩu nhưng chủ yếu chúng ta đang xuất khẩu chủ yếu dưới
dạng nguyên liệu thô, bị ép giá và có giá trị thấp. Để tạo ra sức cạnh tranh
cũng như gia tăng giá trị chúng ta nên chuyên nghiệp hóa xây dựng các cơ sở
chế biến để có thể gia tăng tối đa giá trị cũng như hạ giá thành sản phẩm. đưa
lên quy mô sản xuất công nghiệp điều này tất yếu đòi hỏi sự quan tâm đồng
bộ phát triển doanh nghiệp ở nông thôn đặc biệt là các doanh nghiệp phụ trợ,
hỗ trợ nông nghiệp, công nghiệp chế biến
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn đã thúc đẩy nông thôn phát triển nhiều mặt. Số hộ gia đình
đi vào sản xuất hàng hoá ngày càng nhiều, ở nhiều địa phương đã và đang
hình thành các DNNVV. Kinh nghiệm của nhiều nơi đã và đang chứng tỏ kinh
tế hộ, nông trại gia đình, DNNVV là loại hình kinh tế có hiệu quả nhất và là
SV: Trịnh Minh Tiến

13

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

lực lượng kinh tế chủ yếu trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hóa
nông thôn.
Tuy nhiên, để các DNNVV ở nông thôn phát triển tốt và hoạt động có

hiệu quả, các ngành, các cấp cần phải quan tâm giải quyết nhiều vấn đề liên
quan. Phát triển DNNVV là sự nghiệp lâu dài đòi hỏi sự nỗ lực của từng
doanh nghiệp và sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt của Nhà nước. Việc thực hiện
triệt để các công cụ quản lý vĩ mô trong điều kiện giữ vững sự ổn định về
chính trị và kinh tế - xã hội, chắc chắn sẽ góp phần khuyến khích phát triển
DNNVV, góp phần làm cho khu vực này ngày càng hoà nhập với quá trình
phát triển, đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam từ một nước nghèo nàn lạc hậu, trong những năm gần đây
đang có những bước phát triển đáng khích lệ. Song, cũng phải thừa nhận rằng,
chúng ta đã có một thời kỳ dài chưa thực sự chú ý đến DNNVV, chưa khai
thác hết thế mạnh của loại hình doanh nghiệp này. Vì vậy các DNNVV hình
thành và phát triển chưa mang tính đồng bộ và thống nhất.
Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ Chính phủ “Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa” cho thấy Đảng
và Nhà nước Việt Nam coi phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đây thực sự là một chủ trương đúng và kịp thời, phù hợp với đặc điểm
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đầu hội nhập.
Với đề tài “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hoá”, người viết muốn tìm hiểu sâu hơn về tình
hình phát triển DNNVV, đặc biệt là ở khu vực nông thôn Việt Nam, khu vực
thu hút được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhằm đưa ra những
giải pháp giúp cho quá trình phát triển DNNVV ở nông thôn Việt Nam được
tiến hành một cách có hiệu quả hơn.
1.2.2. ODA đầu tư cho phát triển doanh nghiệp nông thôn
1.2.2.1. Nông thôn trong điều kiện hiện nay có những đặc điểm cơ bản
Sản xuất nông nghiệp với đặc điểm phụ thuộc lớn vào tự nhiên. Điều kiện
về đất đai môi trường, khí hậu, thời tiết… tất cả đều tác động một cách trực tiếp
đến số lượng và chất lượng của nông sản. Nước ta lại là nước khí hậu nhiệt đới
gió mùa, thường xuyên có thiên tai lũ lụt. Chẳng hạn như đối với đồng bằng
SV: Trịnh Minh Tiến


14

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

Sông Cửu Long, hàng năm có 3 - 4 tháng trời sống chung với lũ, đó là chưa kể
đến thiên tai, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi xẩy ra thường xuyên. Vì vậy, ngay từ
đầu có thể nhận thấy rằng, đầu tư vào doanh nghiệp nông thôn là một lĩnh vực
đầu tư mà chi phí cao, khả năng rủi ro lớn, thu hồi vốn chậm.
Đầu tư vào Sản xuất nông nghiệp thường tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian
thu hồi vốn lâu, nó phụ thuộc nhiều vào chu kỳ của cây trồng vật nuôi, thậm chí
nhiều khi là không thể thu hồi vốn do các điều kiện khách quan nên không hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn nhiều mặt yếu kém, nước ta lại trải dài qua
nhiều vùng địa hình phức tạp về địa hình, nền móng, thêm vào đó là những hậu
quả nặng nề sau chiến tranh…vì vậy mà hệ thống đường sá cầu cống nói chung
và hạ tầng nông thôn nói riêng nằm trong tình trạng yếu kém, cản trở đến sự phát
triển của doanh nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Việc đầu tư vào lĩnh vực doanh nghiệp nông thôn gặp nhiều khó khăn do
nhận thức của người dân còn non kém, có nhiều chương trình dự án khó triển
khai thực hiện do công tác giải phóng mặt bằng gặp khó khăn, người dân không
chịu giao đất cho nhà nước. Bên cạnh đó, tình trạng không thống nhất trong đầu
tư vào nông nghiệp giữa các địa phương cũng gây ra những hạn chế. Cụ thể, khi
đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là các ngành chăn nuôi, chế biến khi dự án đầu
tư ở tỉnh này được chấp thuận nhưng mang đến tỉnh khác thì lại bị từ chối…

1.2.2.2. Vai trò của ODA trong phát triển doanh nghiệp nông thôn
Có thể nhận thấy, để phát doanh nghiệp nông thôn thì yêu cầu phải có một
nguồn vốn đáng kể trong khi đó vốn tích lũy từ nội bộ rất thấp không đáp ứng
được nhu cầu. Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng như
nguồn vốn khác thường chỉ tập trung vào những lĩnh vực, những ngành có khả
năng thu hồi vốn nhanh, đem lại lợi nhuận cao…nên nguồn vốn này thường
được đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà ít đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn. Trong khi đó, ODA vừa có khối lượng
lớn, vừa có tính ưu đãi, không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có cả ý
nghĩa về mặt xã hội nên thực sự là nguồn vốn quan trọng bổ trợ cho nguồn vốn
trong nước trong việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần vào công
cuộc xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

SV: Trịnh Minh Tiến

15

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

Chính vì vậy, nguồn vốn ODA được xem là một cứu cánh để giải quyết khó
khăn trên đối với các nước đang phát triển.
Như chúng ta đã biết, khu vực nông thôn thường là một khu vực nghèo nàn và
lạc hậu. Tỷ lệ nghèo đói, trẻ em không biết chữ chủ yếu tập trung ở khu vực
này. Vấn đề xóa đói giảm nghèo, tăng năng suất sản xuất nông nghiệp, nâng cao
trình độ dân trí ở nông thôn cần rất nhiều vốn. Trong thời gian qua nguồn vốn

ODA đã đóng góp vai trò đáng kể trong việc bổ sung nguồn vốn để phát triển
nông nghiệp nông thôn. Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư giai đoạn 1993
- 2008 vốn ODA đã ký trong các điều ước quốc tế cụ thể đạt 35,217 tỷ USD thì
lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo đạt
5,5 tỷ USD chiếm khoảng 15,66%, bình quân mỗi năm đạt 917 triệu USD tương
đương 13750 tỷ đồng. Trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như “Dự án giảm
nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc” nhà tài trợ DFID với nguồn vốn ODA là
109,5 triệu USD, “Phát triển hạ tầng nông thôn” của ADB với nguồn vốn tài trợ
là 120 triệu USD, “Dự án khôi phục thủy lợi” của WB với nguồn vốn ODA là
100 triệu USD, “Chương trình cấp nước nông thôn” của DANIDA với nguồn
vốn là 92 triệu USD, dự án phát triển doanh nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long
của CIDA với nguồn vốn 85 triệu CAD và nhiều dự án phát triển nông thôn
tổng hợp kết hợp xóa đói giảm nghèo khác… có thể thấy được tỷ lệ nguồn vốn
ODA phân bổ cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở nước ta thời
gian vừa qua thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu phân bổ ODA theo ngành của Việt Nam giai đoạn 1993
– 2008
Các ngành
Tỷ trọng (%)
Nông nghiệp và PTNT
15,66
Năng lượng và Công nghiệp
21,78
Giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông
28,06
Cấp thoát nước và Phát triển đô thị
9,17
Y tế, giáo dục và đào tạo
8,9
Môi trường và Khoa học kỹ thuật

3,32
Các ngành khác
13,11
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
Thông qua các dự án phát triển doanh nghiệp nông thôn nhằm giúp đời
sống nhân dân ở khu vực nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Nhiều công trình
đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành đưa vào sử dụng góp phần tăng
SV: Trịnh Minh Tiến

16

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân, tăng cường công bằng xã hội
Một cuộc điều tra của UNDP, SIDA và WB cùng phối hợp với Chính phủ Việt
Nam vào năm 1992-1993 cho thấy: 55% dân số Việt Nam sống dưới mức
nghèo đói nhưng đến năm 2001, tỷ lệ nghèo cả nước 17,5%, năm 2005 giảm
còn dưới 7%, trung bình mỗi năm giảm 2 - 2,5%, tương ứng 300 - 310 nghìn
hộ, vượt mục tiêu đề ra là 10% (theo chuẩn nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 2010). Rõ ràng kết quả trên có phần đóng góp không nhỏ của các nguồn ODA
tài trợ cho doanh nghiệp nông thôn
1.3. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA
ODA là nguồn vốn quốc tế cần thiết cho các quốc gia đang phát triển.
Chính phủ sử dụng nguồn vốn này cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội và
đương nhiên phải có kế hoạch trả nợ trong tương lai. Vì vậy, nguồn vốn ODA
nhất thiết phải được quản lý và sử dụng có hiệu quả.

Hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA thường được thể hiện thông qua quá
trình thực hiện và những kết quả đạt được ở các chương trình, dự án ODA. Ở
mỗi loại dự án có sự khác nhau về mặt đặc điểm, tính chất vì thế mà hiệu quả
cũng không giống nhau. Hiệu quả sử dụng của một dự án còn tùy thuộc vào
từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trên thực tế thì hiện nay Chính phủ vẫn chưa xây
dựng được các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA một các cụ
thể, các dự án ODA khi nói đến hiệu quả sử dụng thường là những hiệu quả lâu
dài và thường không được đo bằng một chỉ tiêu trực tiếp cụ thể nào. Sau đây em
xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA để từ đó
chỉ ra một số vấn đề chung khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA như sau:
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA
1.3.1.1. Các nhân tố khách quan
Tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia tài trợ
Các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát
thất nghiệp hay những thay đổi chính trị có tác động đến các hoạt động hỗ trợ
phát triển cho các quốc gia khác. Ngoài ra, có thể có sự thay đổi về thể chế
chính trị ở quốc gia tài trợ, từ đó dẫn đến việc thay đổi các quy định, thủ tục
giải ngân... cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện dự án tại quốc gia
tiếp nhận nguồn vốn ODA.
SV: Trịnh Minh Tiến

17

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính


Các quy chế, chính sách của nhà tài trợ
Nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi
các quốc gia tiếp nhận ODA phải tuân thủ khi thực hiện các chương trình, dự
án sử dụng vốn ODA của họ. Các thủ tục này khiến cho các quốc gia tiếp
nhận nguồn vốn ODA lúng túng trong quá trình thực hiện dự án. Tiến độ các
chương trình dự án thường bị đình trệ, kéo dài hơn so với dự kiến, giảm hiệu
quả đầu tư. Vì vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các chủ trương hướng dẫn
và quy định của từng nhà tài trợ là một điều kiện vô cùng cần thiết đối với
quốc gia tiếp nhận.
1.3.1.2.Các nhân tố chủ quan
Việc xây dựng dự án
Việc xây dựng dự án ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Các chương
trình dự án được xây dựng phải nằm trong khuôn khổ, mục tiêu chung của
chính phủ, xuất phát từ nhu cầu thực tế của các vấn đề kinh tế - xã hội. Mỗi
năm ở nước ta thực hiện công tác quản lý, tổ chức có rất nhiều vấn đề cần giải
quyết như phát triển giáo dục, cơ sở hạ tầng, giảm thuế… không thể thực hiện
nhiều chương trình cùng một lúc có hiệu quả được, vì vậy các nhà quản lý cần
phân loại, xác định tính chất, mức độ cần thiết của từng loại dự án để có cách
phân bổ hợp lý và thuyết phục. Việc phân loại các dự án ODA một cách khoa
học, hợp lý cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Trình độ và năng lực của nhà quản lý, thực hiện dự án
Trình độ và năng lực của các cán bộ thực hiện chương trình, dự án
ODA cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn
ODA. Các cán bộ này cần phải có năng lực về đàm phán, ký kết dự án, triển
khai thực hiện quản lý vốn, có kiến thức chuyên sâu về pháp luật, kinh tế, kỹ
thuật...Bởi vì trên thực tế, các hoạt động thực hiện dự án vừa phải tuân theo
các quy định, luật pháp của chính phủ Việt Nam vừa phải tuân thủ các quy
định hướng dẫn của nhà tài trợ. Nếu nhà quản lý có năng lực, trình độ và làm
việc công tâm thì dự án sẽ sớm hoàn thành so với tiến độ dự kiến và tránh
được những khoản lãng phí, thất thoát trong quá trình thực hiện.

Công tác tổ chức, theo dõi, giám sát quá trình thực hiện dự án
Công tác tổ chức thực hiện dựa án có vai trò hết sức quan trọng, nó là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn ODA. Để quản lý quá
SV: Trịnh Minh Tiến

18

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

trình sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả thì phải chặt chẽ hoá trong từng
khâu, từng công đoạn. Đó là sự quản lý phân bổ nguồn vốn ODA, quản lý quá
trình hình thành dự án ODA, đưa ra những kế hoạch và tổ chức một cách hợp
lý nhất.
Ngoài ra còn có một số nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
như :
- Việc bố trí vốn đối ứng cho dự án
- Công tác giải phóng mặt bằng của dự án
- Công tác tổ chức đấu thầu
- Các chính sách và môi trường tiếp nhận nguồn vốn ODA
- Sự khác nhau về thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ
- Công tác quản lý Nguồn vốn ODA ở các cấp
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA
Để đánh giá hiệu quả hoạt động của các dự án ODA thì cần thiết phải
xây dựng các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu là thước đo đánh giá đầu vào, tiến trình
thực hiện, đầu ra và tác động của dự án. Khi được cung cấp đầy đủ các thông

tin, các chỉ tiêu sẽ trở thành định hướng hữu ích hướng mọi hoạt động của dự
án đến các mục tiêu đặt ra. Có thể nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn ODA
thông qua hai nhóm chỉ tiêu cơ bản: Nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu
định lượng.
 Nhóm chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu định lượng là những chỉ tiêu dùng để đo lường về mặt số lượng
tình trạng hoạt động và mức độ ảnh hưởng của dự án. Một số chỉ tiêu định
lượng cơ bản dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực
Nông nghiệp nông thôn như sau:
- Tỷ lệ giải ngân ODA của dự án: Được thể hiện bằng tỷ trọng giữa
nguồn vốn thực hiện so với nguồn vốn cam kết ban đầu từ phía các nhà tài
trợ. Tốc độ giải ngân chính là thước đo mức độ sử dụng nguồn vốn ODA, khả
năng khai thác vốn vào các chương trình dự án phục vụ phát triển kinh tế.
- Tỷ lệ vốn đối ứng cho dự án: Đối với các chương trình, dự án ODA để
tiếp nhận 1 USD vốn ODA thì các quốc gia tiếp nhận phải có ít nhất 15% vốn
đảm bảo trong nước (khoảng 0.15 USD) làm vốn đối ứng, để phục vụ cho các
công việc như đền bù giải phóng mặt bằng, các loại thuế... Để dự án có thể
SV: Trịnh Minh Tiến

19

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn thì việc bố trí vốn đối
ứng kịp thời cũng rất quan trọng.

- Tiến độ thực hiện dự án nhanh hay chậm
- Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn/tổng số hộ dân của cả nước
- Tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp (%)
- Tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp/Tổng sản phẩm quốc dân (%)
 Nhóm chỉ tiêu định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính phản ánh những tiêu chí đánh giá không lượng
hóa được. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA dựa trên các tiêu chí này phụ
thuộc nhiều vào nhận định chủ quan của người thực hiện, thường là những
chuyên gia giàu kinh nghiệm. Một số chỉ tiêu định tính cơ bản:
- Tính phù hợp: Là mức độ phù hợp của việc đầu tư bằng nguồn vốn
ODA đối với những ưu tiên và chính sách của nhóm mục tiêu, bên tiếp nhận tài trợ
và nhà tài trợ.
Việc đánh giá tính phù hợp sẽ cho thấy chương trình, dự án có phù hợp khi
được triển khai tại khu vực, vùng đó hay không, có đáp ứng được nhu cầu của các
cơ quan thụ hưởng hay không, có đúng mục tiêu đặt ra hay không, từ đó có những
điều chỉnh cần thiết để đảm bảo dự án được thực hiện theo đúng mục tiêu ban đầu
và đáp ứng được nhu cầu đề ra.
- Tính hiệu quả: Là thước đo mức độ đạt được các mục tiêu đề ra của một
chương trình, dự án.
Đánh giá tính hiệu quả của dự án nhằm xem xét việc dự án có đạt được
mục tiêu như trong thiết kế, văn kiện ban đầu của dự án không? Việc đánh giá
này được thực hiện trên cơ sở so sánh kết quả theo thiết kế, văn kiện với kết
quả đạt được trên thực tế. Từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm và những
đề xuất tiếp theo (nếu có).
- Tính hiệu suất: Đánh giá tính hiệu suất sẽ cho thấy dự án thực hiện đạt
được kết quả như mục tiêu đề ra trên cơ sở tiết kiệm được nguồn lực đầu vào như
thế nào? Từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm và những sự lựa chọn thay
thế cần thiết khi thực hiện những dự án tiếp theo trên cơ sở sử dụng và kết hợp các
yếu tố đầu vào hợp lý nhất.
- Tính bền vững: Xem xét tính bền vững của dự án chính là xem xét những

hoạt động, hiệu quả, tác động của dự án có tiếp tục được duy trì khi dự án không
SV: Trịnh Minh Tiến

20

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

còn tồn tại hay không? Các bên tham gia dự án, chính phủ hay các tổ chức khác có
tiếp tục duy trì các hoạt động của dự án một cách độc lập hay không?
Tóm lại, nội dung chính của chương là hệ thống hóa những nhận thức
cơ bản về ODA, vai trò cũng như hiệu quả sử dụng vốn ODA đối với doanh
nghiệp nông thôn nhằm đặt nền tảng để xem xét tình hình sử dụng vốn ODA
trong lĩnh vực này ở một dự án cụ thể : dự án phát triển doanh nghiệp nông
thôn ( REEP ) do chính phủ Canada tài trợ.

SV: Trịnh Minh Tiến

21

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ODA CỦA DỰ ÁN PHÁT
TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG THÔN (REEP)
2.1 TÌNH HÌNH DOANH NGHIỆP NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NINH
2.1.1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp vùng
nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.1.1.1. Tình hình doanh nghiệp tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây
Thực hiện nhiệm vụ năm 2010 trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra
khỏi giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái,
song với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân,
kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đã vượt qua những thách thức và đạt
được nhiều kết quả nổi bật, đáng tự hào.
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2010 đã thu hút sự
quan tâm và đầu tư của các doanh nghiệp (DN) trong và ngoài nước. Nhờ đó,
nhiều công trình đã được xây dựng và đi vào hoạt động, đóng góp tích cực
vào giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Cũng trong
năm 2010, Quảng Ninh có 108 dự án FDI của 14 quốc gia và vùng lãnh thổ
còn hiệu lực pháp lý, với tổng vốn đầu tư đăng ký hàng tỷ USD. khu vực kinh
tế có vốn FDI đã góp phần đáng kể trong phát triển KT-XH của tỉnh, tạo ra
tổng doanh thu ước đạt 1,9 tỷ USD, tạo việc làm cho trên 10.000 lao động
trực tiếp, nộp ngân sách trên 2.897 tỷ đồng. Năm 2010, mặc dù gặp nhiều khó
khăn, nhưng Quảng Ninh vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế (GDP)
khá cao: trên 13%. Các chỉ tiêu đạt khá so với năm trước đó: giá trị sản xuất
công nghiệp tăng 14,3%, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1.750 triệu USD.
2.1.1.2. Các doanh nghiệp nông thôn Quảng Ninh có nhiều bước khởi sắc
Chịu nhiều tác động của "cơn bão" suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng
được sự tạo điều kiện từ Trung ương đến các địa phương, nên tình hình tổ
chức, sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp nông thôn đạt nhiều nét khả

quan. Toàn tỉnh hiện có 1967 doanh nghiệp thuộc vùng nông thôn đạt doanh
SV: Trịnh Minh Tiến

22

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

thu trên 1350 tỷ đồng trong đó có nhiều doanh nghiệp là thành viên của Liên
minh hợp tác xã và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong năm qua các
doanh nghiệp vùng nông thôn vẫn đứng vững, không có HTX, DN nào bị giải
thể. Không những thế, năm qua, toàn tỉnh còn phát triển thêm được 230 DN
và 8 HTX. Nhiều HTX, DN đã mở rộng ngành nghề kinh doanh, tạo thêm
việc làm cho hàng vạn lao động trên địa bàn.
Căn cứ tình hình kinh tế của từng địa phương và năng lực của cán bộ
HTX, năm qua Liên minh HTX-DNNQD đã xây dựng thành công ba mô hình
HTX mới: mô hình HTX quản lý chợ (HTX Bình Dương - huyện Đông
Triều). Mô hình này đã thu hút hầu hết các hộ kinh doanh tại chợ gia nhập
thành viên. Chợ vốn phức tạp, nhờ có HTX quản lý, chợ có tổ chức, có mục
tiêu kinh doanh, trật tự trị an, văn minh kinh doanh được nâng cao. Mô hình
thứ hai là HTX vệ tinh bảo vệ môi trường, nhằm thu gom rác thải, góp phần
quan trọng việc bảo vệ môi trường và vệ sinh khu vực nông thôn. Mô hình
thứ ba là hình thành cánh đồng rau an toàn và HTX hỗ trợ xã viên tiêu thụ sản
phẩm của HTX nông nghiệp Bạch Đằng (huyện Yên Hưng). HTX Bạch Đằng
có loại củ cải là đặc sản đặc biệt, nhưng chưa được quảng bá, chưa xây dựng
được thương hiệu, nên người tiêu dùng chưa biết đến nhiều. Mô hình cánh

đồng rau sạch sẽ là cơ hội để củ cải của HTX có giá trị trên thị trường. Các
mô hình trên được Đảng bộ, chính quyền và xã hội đồng tình và hoan nghênh.
Năm 2010, toàn tỉnh Quảng Ninh tổ chức 23 lớp tập huấn nâng cao kiến
thức về quản lý, 5 lớp bồi dưỡng kiến thức tin học cho gần 600 lượt cán bộ chủ
chốt. Tổ chức trên 50 lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về nhiều mặt cho trên
1.500 lượt cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, nhân viên của các doanh nghiệp,
chủ các nhà hàng, chủ hộ kinh doanh... Riêng Công ty CP thương binh Đoàn
Kết - Cẩm Phả đã mở lớp dạy nghề làm hoa lụa và may mặc cho 50 người tàn
tật và các cháu mồ côi huyện Vân Đồn, TP Hạ Long đạt kết quả tốt.
Các sản phẩm của một số doanh đã được quảng bá trên thị trường trong
và ngoài nước, như các sản phẩm bia- rượu- nước giải khát của Công ty CP
phần xây dựng- bia- rượu- nước giải khát Cẩm Phả; ván lát sàn của Công ty
TNHH xây dựng Đông Triều; hoa cao cấp của HTX hoa Đồng Chè (Hoành
Bồ)... Tại hội chợ Techmart Quảng Ninh 2010, sản phẩm đá các loại và bột đá
làm phụ gia cho sản xuất xi măng của Công ty CP Phương Nam đã ký được
SV: Trịnh Minh Tiến

23

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

hợp đồng tiêu thụ sản phẩm trên 10 tỷ đồng. Đặc biệt, sản phẩm gốm sứ mỹ
nghệ của Công ty TNHH Quang Vinh đã chiếm lĩnh được thị trường ở nhiều
nước trên thế giới. Hàng xuất khẩu, đạt 90%, doanh thu trên 40 tỷ đồng/năm,
tạo việc làm cho trên 300 lao động nông thôn.

2.1.2. Thuận lợi và khó khăn của Doanh nghiệp nông thôn
2.1.3.1. Thuận lợi
Với vị thế là một thành phần nòng cốt và chiếm tỷ lệ đa số trong nền kinh
tế Việt Nam, các doanh nghiệp vùng nông thôn ( 97% tổng số doanh nghiệp là
các HTX các doanh nghiệp nhỏ và vừa ) có những lợi thế riêng biệt. Và đặc biệt
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO
các HTX – các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Quảng Ninh càng có nhiều thuận
lợi lớn hơn. Có thể kể đến những thuận lợi mà DNNT có được như sau:
Thứ nhất, Các doanh nghiệp nông thôn có ưu thế về việc tiếp cận thị
trường. Trong nền kinh tế Việt Nam, DNNT luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trên
tổng số các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế . Nước ta với trên
70% dân số sinh sống ở nông thôn nên cơ hội để các mặt hàng của các DNNT
có mặt tại mọi vùng kinh tế trọng điểm, tại mọi địa phương và trên tất cả các
lĩnh vực rất lớn. Chính vì thế, các DNNT có ưu thế thuận lợi trong việc tiếp
cận thị trường từ các thị trường nhỏ cho đến các thị trường lớn mang tầm vĩ
mô.Thị trường nông thôn là 1 thị trường vô cùng dồi dào đầy tiềm năng với
dân số trên 60 triệu dân Một thực tế là số lượng các doanh nghiệp lớn ở nước
ta chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong nền kinh tế và không phải ở tất cả các lĩnh
vực đều có sự xuất hiện của khối các doanh nghiệp này, DNNT đặc biệt là các
doanh nghiệp vi mô, nhở và vừa có cơ hội hoạt động trên tất cả các lĩnh vực,
tạo ra được nguồn cung cần thiết cho thị trường và chiếm lĩnh những thị
trường nơi mà các doanh nghiệp lớn ở thành phố không hoạt động.
Thứ hai, khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNNVV của Việt Nam có
thể được hưởng các điều kiện ưu đãi khi xuất khẩu hàng hoá tới các nước
thành viên của WTO. Đồng thời trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
DNNT có khả năng phát triển xuất khẩu các mặt hàng ra nước ngoài, tiếp cận
công nghệ của các nước, trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng quản lý, điều hành
doanh nghiệp… Nền kinh tế mở cửa hội nhập đã đem lại nhiều thuận lợi cho
SV: Trịnh Minh Tiến


24

Lớp: CQ45/08.01


Chuyên đề cuối khóa

Học viện Tài chính

các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và thành phần khối DNNT nói
riêng. Việc tham quan tiếp cận được với trình độ tiến tiến của các nền kinh tế
phát triển trên thế giới về khoa học công nghệ, những lớp học nâng cao tay
nghề lao động, kỹ năng quản lý, điều hành doanh nghiệp… và đặc biệt là việc
bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển của các DNNT nước ta.
Thứ ba, mang những đặc tính riêng biệt của DNNT đa phần là doanh nghiệp
vừa và nhỏ nên nhìn chung các DNNT có được những thuận lợi cơ bản sau:
- Do quy mô về số lao động cũng như nguồn vốn không nhiều nên các
DNNT dễ dàng khởi sự, với bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén
với các thay đổi của thị trường, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ,
nhạy bén từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả
với chi phí cố định thấp.
- Đa dạng hóa trong lĩnh vực đầu tư, sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực
mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Thứ tư, do vị trí chiến lược quan trọng trong nền kinh tế và là một bộ
phận quan trọng đóng góp vào sự phát triển của nước ta nên phát triển DNNT
đặc biệt là phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn là một trong những ưu
tiên hàng đầu để phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, Chính phủ
luôn ưu tiên phát triển khối các DNNVV với rất nhiều chính sách hỗ trợ về
đào tạo, quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển khối doanh nghiệp

đồng thời cũng thực hiện nhiều chương trình cải cách về thủ tục pháp lý, điều
hành của chính quyền địa phương.
2.1.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà
DNNT có được vẫn còn đó những khó khăn không nhỏ đối với sự phát triển
của DNNT nước ta. Nền kinh tế đã có những chuyển biến mới và có bước đổi
mới tương đối tốt nhưng cũng có những tồn tại rất lớn nhất là các vấn đề về
kinh tế hạ tầng, vấn đề kinh tế vĩ mô, vấn đề thể chế, chất lượng nguồn lực,
thủ tục hành chính… và tất cả đều dồn cho DNNT một hệ thống là yếu thế
trong cạnh tranh, khả năng tiếp thu tiếp cận và khả năng đáp ứng trong cơ chế
thị trường yếu hơn so với các DN lớn ở thành phố, trung ương. Theo số liệu

SV: Trịnh Minh Tiến

25

Lớp: CQ45/08.01


×