Tải bản đầy đủ (.pdf) (263 trang)

Dạy học từ xưng hô tiếng việt cho học sinh tiểu học dân tộc hmông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.29 MB, 263 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THU PHƯƠNG

DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 9140111

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN QUANG NINH

HÀ NỘI - 2019


i
LỜI CẢM ƠN
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo hướng dẫn, các nhà khoa
học trong hội đồng seminar cấp tổ, hội đồng cơ sở, các nhà phản biện đã nhận xét,
góp ý, chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học, giúp em từng
bước hoàn thiện luận án.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến BGH, thầy giáo, cô giáo và học sinh tại trường
tiểu học Trần Văn Thọ, Nậm Pố và Nậm Kè số 2 tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện
Biên.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân đã luôn động viên và tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất trong suốt thời gian con/cháu/em thực hiện đề tài.
Tác giả luận án



ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
trong luận án được thực hiện nghiêm túc và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Tác giả luận án


iii
MỤC LỤC
Lời cảm ơn .............................................................................................................. i
Lời cam đoan .......................................................................................................... ii
Mục lục.................................................................................................................. iii
Danh mục chữ viết tắt ............................................................................................ vi
Danh mục bảng ..................................................................................................... vii
Danh mục hình .................................................................................................... viii
Danh mục sơ đồ ..................................................................................................... ix
Mở đầu .................................................................................................................. 1
1.

Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 2

2.1.

Đối tượng nghiên cứu................................................................................... 2


2.2.

Phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 3

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 3

3.1.

Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 3

4.

Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4

4.1.

Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn ...................................................... 4

4.2.

Phương pháp phỏng vấn sâu ......................................................................... 4

4.3.


Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu ..................................................... 4

4.4.

Phương pháp thực nghiệm sư phạm.............................................................. 4

4.5.

Phương pháp thống kê, xử lí số liệu ............................................................. 5

5.

Giả thuyết khoa học ..................................................................................... 5

6.

Dự kiến đóng góp của luận án ...................................................................... 5

6.1.

Về mặt lý luận .............................................................................................. 5

6.2.

Về mặt thực tiễn ........................................................................................... 6

7.

Kết cấu của luận án ...................................................................................... 6


Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ....................................................... 8
1.1.

Nghiên cứu về từ xưng hô tiếng Việt ............................................................ 8


iv
1.2.

Nghiên cứu về phương pháp dạy học ngôn ngữ thứ hai ...............................14

1.3.

Nghiên cứu về dạy học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai .............................25

1.4.

Nghiên cứu về việc dạy học tiếng Việt cho học sinh tiểu học người
dân tộc thiểu số ...........................................................................................27

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................31
Chương 2. Cơ sở khoa học của việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt
cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông .......................................................32
2.1.

Cơ sở lí luận của việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học
dân tộc Hmông.............................................................................................32

2.1.1. Tiếng Việt với học sinh tiểu học dân tộc Hmông .........................................32

2.1.2. Dạy học từ xưng hô tiếng Việt dựa trên lí thuyết thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai .........................................................................................................35
2.1.3. Từ xưng hô trong tiếng Việt và tiếng Hmông ..............................................45
2.2.

Cơ sở thực tiễn của việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt ...............................56

2.2.1. Đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh tiểu học Hmông ...........................56
2.2.2. Dạy học từ xưng hô trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ......59
2.2.3. Thực trạng dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học Hmông .........64
2.2.4. Thực trạng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của học sinh tiểu học Hmông .........68
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................72
Chương 3. Tổ chức dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học
dân tộc Hmông ..........................................................................................73
3.1.

Một số yêu cầu trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt ...................................73

3.2.

Sử dụng một số phương pháp vào dạy học từ xưng hô tiếng Việt
cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông ..........................................................75

3.2.1. Phương pháp trực quan hành động (Total physical response) ......................76
3.2.2. Phương pháp đóng vai (Role play) ..............................................................81
3.2.3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ (Language analysis) ................................91
3.3.

Xây dựng hệ thống bài tập dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh
tiểu học dân tộc Hmông ..............................................................................98



v
3.3.1. Cấu trúc của hệ thống bài tập dạy học từ xưng hô tiếng Việt .......................98
3.3.2. Mô tả hệ thống bài tập...............................................................................100
3.3.3. Vận dụng hệ thống bài tập vào thực tiễn dạy học từ xưng hô tiếng Việt
cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông ........................................................131
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................136
Chương 4. Thực nghiệm sư phạm .....................................................................137
4.1.

Mục đích của thực nghiệm sư phạm ..........................................................137

4.2.

Đối tượng và thời gian thực nghiệm ..........................................................138

4.2.1. Đối tượng thực nghiệm .............................................................................138
4.2.2. Thời gian thực nghiệm ..............................................................................141
4.3.

Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ...........................................142

4.3.1. Nội dung thực nghiệm ...............................................................................142
4.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm ..............................................................143
4.4.

Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................144

4.5.


Phương pháp xử lí kết quả thực nghiệm ....................................................145

4.6.

Đánh giá chung về quá trình thực nghiệm .................................................156

Tiểu kết chương 4 ................................................................................................159
Kết luận và một số đề xuất ................................................................................160
Kết luận ...............................................................................................................160
Một số đề xuất .....................................................................................................161
Tài liệu tham khảo ...............................................................................................162
Những công trình nghiên cứu của tác giả liên quan đến đề tài luận án..................170
Phụ lục.................................................................................................................171


vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BT

Bài tập

ĐC

Đối chứng

DTTS

Dân tộc thiểu số


GV

Giáo viên

HS

Học sinh

NN2

Ngôn ngữ thứ hai

SGK

Sách giáo khoa

TMĐ

Tiếng mẹ đẻ

TN

Thực nghiệm

Tên dân tộc “Hmông” được viết theo quy định trong “Danh mục các dân tộc
Việt Nam” (Ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 02/03/1979).


vii
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Đại từ nhân xưng tiếng Việt ..................................................................47
Bảng 2.2. Đại từ nhân xưng tiếng Hmông Lềnh ....................................................48
Bảng 2.3. Bảng ghi nhận các khả năng xưng hô xã hội tương ứng chính xác
và không chính xác [20] ........................................................................53
Bảng 2.4. Mức độ cần đạt liên quan đến việc dạy từ xưng hô (Chương trình
giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành) ........................................60
Bảng 2.5. Yêu cầu cần đạt và nội dung dạy học liên quan đến dạy học từ
xưng hô (Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018) .........62
Bảng 2.6. Thống kê những khó khăn của GV trong dạy học từ xưng hô cho
học sinh tiểu học Hmông.......................................................................66
Bảng 2.7. Thống kê một số phương pháp trong dạy học từ xưng hô ......................66
Bảng 4.1. Đối tượng dạy học thực nghiệm và đối chứng lớp 1 năm học 2017 - 2018....141
Bảng 4.3. Phân bố tần số và tần suất điểm...........................................................145
Bảng 4.4. Bảng tổng hợp các tham số đặc trưng ..................................................148
Bảng 4.5. Bảng tổng hợp giá trị t (tính theo công thức) và t(a,k) (Tra theo
bảng phân phối Student) (phụ lục 4.14) ...............................................150


viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Mô hình của Campbell về mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành
ngôn ngữ [106, tr.36] ............................................................................17
Hình 1.2. Mô hình ngôn ngữ giáo dục học của Spolsky ........................................18
Hình 1.3. Mô hình của Ingram về sự phát triển của thực hành dạy ngôn ngữ ........19
Hình 1.4. Mô hình tương tác của Mackey trong dạy và học ngôn ngữ [106, tr.40] ......20
Hình 1.5. Mô hình của Strevens về quá trình dạy và học ngôn ngữ, [106, tr.42] .........22
Hình 1.6. Mô hình chung của dạy học ngôn ngữ thứ hai [106, tr.44].....................23
Hình 1.7. Sơ đồ của Mackey và Spolsky nối kết việc dạy học ngôn ngữ với
các nhân tố của ngữ cảnh (Dẫn theo [106, tr.274]) ................................24
Hình 2.1. Khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS lớp 1 dân tộc HMông ...... 70

Hình 2.2. Khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS lớp 5 dân tộc Hmông .......71
Hình 4.1. Đường phân phối tần suất ...................................................................145
Hình 4.2. Lũy tích điểm từ nhỏ lên của 2 nhóm nghiên cứu ................................147


ix
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Các loại lỗi giao thoa ngôn ngữ .............................................................41
Sơ đồ 2.2. Các loại lỗi chuyển tiếp .........................................................................43


1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nghị quyết Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định một trong những
nhiệm vụ của giáo dục là ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các
vùng đặc biệt khó khăn, trong đó có vùng DTTS. Theo quan điểm của Đảng và Nhà
nước, giáo dục là lĩnh vực hoạt động có hiệu quả nhất trong việc rút ngắn khoảng
cách văn hoá, kinh tế giữa các vùng miền và dân tộc. Tiếng Việt có nhiệm vụ quan
trọng trong việc hỗ trợ các dân tộc cùng hoà nhập. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có
công văn chỉ đạo cụ thể (số 7679/BGD&ĐT-GDTH ngày 22/8/2008; số
8114/BGD&ĐT-GDTH ngày 15/9/2009; số 145/TB-BGD&ĐT ngày 02/04/2010)
xác định nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh DTTS cấp tiểu học là
nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng DTTS.
1.2. Trong văn hoá giao tiếp tiếng Việt, việc sử dụng từ xưng hô góp phần
quan trọng quyết định thành công của cuộc giao tiếp. Nguyễn Văn Khang đã nhận
xét từ xưng hô tiếng Việt là “một hệ thống rất nhạy cảm và “mở”, phản ánh quan
niệm truyền thống văn hóa” [38, tr. 365]. Đây là lớp từ khúc xạ đặc điểm văn hoá
giao tiếp của người Việt một cách tinh tế, truyền tải tình cảm, thái độ, mức độ
khinh - trọng, thân - sơ, quan hệ vai và thứ bậc giữa các nhân vật tham gia giao

tiếp. Với HS tiểu học người DTTS học tiếng Việt như NN2, từ xưng hô vì vậy có
thể coi là một trong những thách thức, rào cản trong trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Vì thế, khi HS học tiếng Việt với tư cách NN2 biết sử dụng từ xưng hô và cách
xưng hô, các em sẽ tự tin, chủ động tham gia vào các hoạt động giao tiếp trong
nhà trường và ngoài xã hội.
1.3. Trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành, phát
triển năng lực sử dụng tiếng Việt là một mục tiêu quan trọng. Vì thế, nội dung dạy
học từ xưng hô, cách xưng hô cho HS đã được tích hợp qua các kĩ năng đọc, viết, nói
và nghe xuyên suốt các khối lớp. Ngoài ra, SGK Tiếng Việt còn có hai bài học trực
tiếp về từ xưng hô ở lớp 5 là bài “Đại từ” và “Đại từ xưng hô”. Chương trình giáo
dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGD&ĐT


2
ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định một trong những
mục tiêu của môn học ở cấp tiểu học là giúp HS “phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất
cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe…” [13, tr.5]. Vì thế, nội dung dạy học của
chương trình rất quan tâm đến việc dạy từ xưng hô, cách xưng hô cho HS tiểu học.
Như vậy, dạy HS tiểu học từ xưng hô, cách xưng hô để phát triển ở HS năng lực giao
tiếp đã và đang được chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành cũng
như chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn sau năm 2018 hết sức chú trọng.
1.4. Thực trạng tổ chức dạy học tiếng Việt nói chung và từ xưng hô tiếng
Việt nói riêng cho HS tiểu học dân tộc Hmông còn nhiều hạn chế. Vì thế, một số
nhà nghiên cứu đã cho rằng dạy tiếng Việt cho người Việt Nam phải theo đặc điểm
của vùng miền, dân tộc. Nếu không, việc dạy tiếng Việt sẽ rất lộn xộn và gượng
gạo. Hiện nay HS tiểu học ở mọi vùng miền, dân tộc đều dùng chung một bộ SGK
Tiếng Việt. Bộ SGK này giúp hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng
tiếng Việt với tư cách là TMĐ. Vì thế, nội dung, phương pháp dạy học tiếng Việt
nói chung, từ xưng hô nói riêng còn nhiều điểm bất cập. Những hạn chế trong việc
tiếp cận các phương pháp dạy học hiện đại của GV, sự thiếu hụt về môi trường

giao tiếp tiếng Việt của HS là những rào cản đối với việc dạy học tiếng Việt cho
HS tiểu học dân tộc Hmông. Thực tế cho thấy HS tiểu học dân tộc Hmông sử dụng
tiếng Việt, đặc biệt là từ xưng hô tiếng Việt còn mắc nhiều lỗi. Điều này đòi hỏi
cần thiết phải có những biện pháp tác động đến việc dạy học tiếng Việt cho HS
tiểu học dân tộc Hmông như NN2 để cải thiện, nâng cao hiệu quả dạy và học môn
Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Dạy học từ xưng
hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông” làm đề tài nghiên cứu luận án
của mình.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho
HS tiểu học dân tộc Hmông.


3
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Người Hmông cư trú ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, người Hmông
sinh sống ở nhiều tỉnh thành, đặc biệt là Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên
Bái, Cao Bằng, Nghệ An, Bắc Cạn, Đắc Lắc… Tuy nhiên, trong luận án này, chúng
tôi chỉ khảo sát HS dân tộc Hmông ở một số trường phổ thông dân tộc bán trú tại tỉnh
Điện Biên. Chúng tôi nghiên cứu trường hợp để khảo sát sâu và thực nghiệm ba
trường tiểu học bán trú ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Đó là các trường tiểu
học: Trần Văn Thọ, Nậm Pố và Nậm Kè số 2.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án được thực hiện với mục đích đề xuất và vận dụng các biện pháp dạy
học nhằm nâng cao khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt trong giao tiếp cho HS
tiểu học dân tộc Hmông, góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt với
tư cách là NN2 ở trường tiểu học.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, luận án có nhiệm vụ:
(1) Hệ thống hóa lí luận về dạy học NN2 và thụ đắc NN2, từ xưng hô trong tiếng
Việt và tiếng Hmông. Luận án so sánh, đối chiếu để chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt cơ
bản nhất giữa từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng Việt và trong tiếng Hmông.
(2) Khảo sát thực trạng nội dung tài liệu dạy học từ xưng hô trong chương
trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành và SGK Tiếng Việt tiểu học;
khảo sát chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018) (phần tiếng Việt
bậc Tiểu học)…
(3) Luận án đề xuất các yêu cầu trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt; vận dụng
một số phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng tiếp nhận và nội dung dạy học;
xây dựng và sử dụng hệ thống BT nhằm nâng cao việc việc dùng từ xưng hô tiếng
Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông.
(4) Tiến hành thực nghiệm để kiểm tra phân tích, qua đó đánh giá tính khả thi
của các phương pháp dạy học và hệ thống BT dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS
tiểu học dân tộc Hmông mà luận án đề xuất.


4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong quá trình triển khai
luận án bao gồm:
4.1. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn
Phương pháp này được dùng để đánh giá thực trạng dạy học từ xưng hô cho
HS tiểu học dân tộc Hmông. Luận án đã điều tra việc dạy học của GV ở một số trường
tiểu học bán trú tại Điện Biên bằng các phiếu hỏi. Luận án còn dùng phiếu BT với
các câu hỏi sử dụng từ xưng hô tiếng Việt trong các ngữ cảnh giao tiếp khác nhau để
đánh giá thực trạng sử dụng từ xưng hô của HS tiểu học dân tộc Hmông tại huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Ngoài ra, chúng tôi còn trực tiếp dự giờ một số tiết dạy
học từ xưng hô tiếng Việt ở 03 trường tiểu học. Các số liệu và thông tin thu thập được

là cơ sở quan trọng đầu tiên giúp tác giả luận án xác định hướng nghiên cứu của đề
tài và cũng là cơ sở đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng sử dụng từ xưng hô
tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông.
4.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong nhiều giai đoạn triển khai luận
án. Chúng tôi đã trực tiếp phỏng vấn GV và HS để tìm hiểu thực tiễn dạy học từ xưng
hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông. Sau thực nghiệm sư phạm, chúng tôi
cũng phỏng vấn, trao đổi với GV về việc dạy học hình thành tri thức và thực hành vận
dụng từ xưng hô tiếng Việt trong giao tiếp; trao đổi với HS về thái độ, hứng thú của
các em khi học từ xưng hô tiếng Việt theo phương pháp dạy học và hệ thống BT mà
luận án đã đề xuất.
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Đây là phương pháp tác giả sử dụng để nghiên cứu phương diện lí luận của
đề tài. Phương pháp này được thực hiện theo các bước: phân tích, tổng hợp, hệ thống
hoá các vấn đề trong những công trình nghiên cứu của các tác giả ở Việt Nam và
trên thế giới về thụ đắc NN2, từ xưng hô trong tiếng Việt và tiếng Hmông.
4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp TN sư phạm giúp tác giả xem xét, xác nhận, kiểm tra tính
đúng đắn và tính khả thi của các phương pháp và hệ thống BT dạy học từ xưng
hô tiếng Việt do luận án đề xuất. Chúng tôi tiến hành TN ở 03 trường tiểu học


5
bán trú ở huyện Mương Nhé, tỉnh Điện Biên bằng TN đối chứng để kiểm tra giả
thuyết khoa học của đề tài. Từ đó, chúng tôi đưa ra kết luận sư phạm về việc tổ
chức dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông.
4.5. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
Phương pháp này được chúng tôi dùng để xử lí số liệu sau khi thu thập phiếu
khảo sát môi trường giao tiếp tiếng Việt và hứng thú trong việc học Tiếng Việt, điều
tra năng lực sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS, phiếu khảo sát thực trạng dạy học

của GV. Phương pháp thống kê giáo dục học được sử dụng để xử lí số liệu trong giai
đoạn TN sư phạm của đề tài. Chúng tôi đánh giá kết quả TN bằng các công thức toán
thống kê như: tính giá trị trung bình cộng, phương sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên.
Ngoài ra, chúng tôi còn dùng kiểm nghiệm t với hai mẫu độc lập để thấy được sự khác
biệt có ý nghĩa hay không sau khi tiến hành TN.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hiện nay, HS tiểu học dân tộc Hmông sử dụng từ xưng hô tiếng Việt còn
nhiều bất cập do sự chuyển di tiêu cực (giao thoa ngôn ngữ) từ TMĐ như không
dùng từ xưng hô, dùng không đúng ngôi, dùng không phù hợp với vai giao tiếp, sắc
thái ý nghĩa,… Vì vậy, nếu GV nắm được những phương pháp dạy học tích cực, có
được một hệ thống BT rèn luyện khoa học thì HS tiểu học dân tộc Hmông học tiếng
Việt sẽ sử dụng từ xưng hô tiếng Việt trong giao tiếp hiệu quả hơn; từ đó nâng cao
năng lực giao tiếp tiếng Việt, giúp các em tham gia trong các hoạt động xã hội tự
tin, thuận lợi hơn.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Về mặt lý luận
Luận án đã tổng hợp những nghiên cứu về dạy học tiếng Việt dựa trên lí thuyết
thụ đắc NN2, trong đó quan tâm đến các giai đoạn thụ đắc ngôn ngữ, các yếu tố tác
động đến quá trình thụ đắc và lí thuyết phân tích lỗi; phân tích, tổng hợp đặc điểm
của từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng Việt đối chiếu với tiếng Hmông một cách
cơ bản, chọn lọc, sao cho phù hợp với đối tượng giao tiếp là HS tiểu học Hmông. Từ
đó, phát hiện và phòng ngừa những vấn đề có thể gây ra những lỗi chuyển di tiêu cực
trong việc sử dụng từ xưng hô của HS tiểu học Hmông.


6
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án đã đề xuất những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS
tiểu học dân tộc Hmông, xây dựng và sử dụng hệ thống BT dạy học từ xưng hô, cách
xưng hô tiếng Việt để nâng cao năng lực giao tiếp cho HS tiểu học Hmông.

Các biện pháp không chỉ có ý nghĩa đối với việc hình thành, nâng cao việc dùng
từ xưng hô tiếng Việt, năng lực giao tiếp cho HS tiểu học dân tộc Hmông, mà còn đưa
ra những gợi ý giúp GV vùng DTTS có thể tham khảo dạy học tiếng Việt với tư cách
NN2 và thiết kế bài học theo hướng phát triển chương trình nhà trường nhằm phù hợp
với đối tượng HS của mình.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, nội dung luận án gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trong chương này, chúng tôi trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế
giới và ở Việt Nam về các vấn đề: từ xưng hô và cách xưng hô trong tiếng Việt, các
vấn đề về phương pháp dạy học NN2, dạy học tiếng Việt như NN2, dạy học tiếng
Việt cho HS tiểu học người DTTS.
Chương 2. Cơ sở khoa học của việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học
sinh tiểu học dân tộc Hmông
Luận án nghiên cứu một số vấn đề lí luận như vai trò của tiếng Việt với HS tiểu
học dân tộc Hmông; lí thuyết thụ đắc NN2 đối với việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt;
đối chiếu sự khác biệt giữa hệ thống từ xưng hô tiếng Việt với tiếng Hmông. Đồng
thời, luận án nghiên cứu về thực trạng dạy và học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu
học dân tộc Hmông. Những vấn đề về cơ sở lí luận và thực tiễn này có vai trò quan
trọng để luận án đề xuất các phương pháp và xây dựng hệ thống bài tập dạy học từ
xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông trong chương 3.
Chương 3. Tổ chức dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân
tộc Hmông.
Ở chương này, chúng tôi đề xuất các yêu cầu trong dạy học từ xưng hô tiếng
Việt như NN2, vận dụng các phương pháp dạy học, xây dựng và sử dụng hệ thống
BT dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông theo định hướng
phát triển năng lực giao tiếp.


7

Chương 4. Thực nghiệm sư phạm
Chương này đánh giá tính khả thi của những đề xuất về phương pháp dạy
học và hệ thống BT trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc
Hmông học tiếng Việt như là NN2. Chúng tôi đã TN hai đối tượng HS đầu và cuối
cấp tiểu học. TN được tiến hành theo kiểu nghiên cứu trường hợp tập trung ở ba
trường tiểu học bán trú huyện Mượng Nhé, Điện Biên. Kết quả thực nghiệm ban
đầu đã cho thấy tính khả thi của những biện pháp dạy học mà luận án đã đề xuất ở
chương 3.


8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ TỪ XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT
Từ xưng hô là một phân lớp quan trọng trong mỗi ngôn ngữ, lớp từ này đã thu
hút sự nghiên cứu của rất nhiều nhà ngôn ngữ học. Từ xưng hô tiếng Việt đã được
một số nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm. Bài nghiên cứu “Chinese Influence on
Vietnamese Pronouns and Terms of Address and Reference” của Mark Alves (2017)
[99] đánh giá khía cạnh từ vựng và xã hội học của hệ thống từ xưng hô tiếng Việt bao
gồm đại từ xưng hô, danh từ thân tộc, tên riêng, danh từ chỉ nghề nghiệp, chức danh)
dưới tác động của tiếng Trung Quốc từ thời kì Bắc thuộc cho tới thời tiền hiện đại.
Khoảng thời gian được nghiên cứu một phần dựa trên các tài liệu lịch sử và một phần
dựa trên các mô hình ngữ âm Hán - Việt tồn tại trong tiếng Việt. Trong nghiên cứu
“Vietnamese Terms of Address and Person - References: Ideological Change and
Stability”, Chew Grace (2015) [85] đã dựa trên quan điểm lịch sử thực tế trong việc
mô tả và so sánh sự phát triển đáng kinh ngạc về mặt ngữ nghĩa và chức năng của từ
xưng hô tiếng Việt. Về mặt lí thuyết, nó biểu thị sự thay đổi về chức năng và ý nghĩa
của các diễn ngôn, sự thay đổi đó xuất hiện là bởi ảnh hưởng của ý thức hệ, nó có thể
phát triển hoặc suy giảm do bối cảnh rộng của chính trị, xã hội.
Ở Việt Nam, có thể nói, vấn đề từ xưng hô trong tiếng Việt đã được các nhà

ngôn ngữ học quan tâm từ rất sớm. Lịch sử nghiên cứu từ xưng hô tiếng Việt đã trải
qua hơn 350 năm kể từ những trang viết của Alexandre de Rhodes. Ngay từ năm
1651, trong cuốn “Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh”, Alexandre de Rhodes
đã miêu tả các từ xưng hô tiếng Việt trong một vài trang. Các đại từ nhân xưng cũng
như các danh từ thân tộc có chức năng xưng hô như: ông, bà, cậu, bác... đã được ông
nhắc đến một cách sơ lược (Dẫn theo [24]). Theo Nguyễn Phú Phong, “cho đến nay
người đã cung cấp một bảng đại danh từ nhân xưng sớm nhất và đầy đủ nhất là Trương
Vĩnh Ký trong cuốn “Grammare de la langue annamite”, 1884. Tác giả đã dành 30
trang để nói về đại từ nhân xưng (Dẫn theo [24, tr.11]). Trần Trọng Kim trong cuốn
“Việt Nam văn phạm” (1940) đã gọi lớp từ này là “đại danh từ”. Năm 1954, M.B.


9
Emeneau trong công trình “Studies in Vietnamese Grammar” đã viết về đại từ xưng
hô với 30 trang. Ông cho rằng “Trong tiếng Việt rõ ràng là có các đại từ nhân xưng
(đích thực) mà một bộ phận nghĩa của nó là nhằm chỉ rõ người nói và người nghe
nhưng chúng cũng bị hạn chế rất nhiều trong khi xuất hiện về sự bày tỏ niềm kính
trọng đối với người nghe. Những đại từ nhân xưng này chỉ giới hạn trong những hoàn
cảnh không cần thiết phải có thái độ kính trọng, ví dụ khi người nói có một thái độ
bề trên đối với người nghe hoặc trong những hoàn cảnh mà rất hiếm có là khi người
nói và người nghe xem như hoàn toàn bình đẳng với nhau” [24, tr.12].
Việc nghiên cứu từ xưng hô tiếng Việt có thể được chia thành hai giai đoạn
gắn với các giai đoạn của lí thuyết ngôn ngữ: từ chủ nghĩa cấu trúc đến lí thuyết
giao tiếp. Có khá nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề xưng hô trong tiếng Việt.
Từ xưng hô được các nhà ngôn ngữ học miêu tả khi viết về từ loại tiếng Việt. Giai
đoạn này, các nhà Việt ngữ học gọi các từ dùng để xưng hô là “đại từ nhân xưng”.
Đó là ý kiến của các tác giả: Trần Trọng Kim, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn
Chiến, Lê Biên... Nguyễn Văn Chiến trong giai đoạn đầu nghiên cứu cho rằng các từ
xưng hô lâm thời là từ loại đại từ: “Khác với hàng loạt ngôn ngữ Ấn Âu biến hình,
hệ thống đại từ nhân xưng ngôn ngữ quốc gia Đông Nam Á thường là những hệ thống

mở, không thuần nhất về chủng loại các yếu tố tạo thành. Tính không thuần nhất này
là hậu quả của một xu hướng ngôn ngữ chung, khá phổ biến trong khu vực: tiếp nhận
những yếu tố phi đại từ, chủ yếu là những hệ thống từ loại lân cận, trên những “bậc”,
những “trình độ tích hợp” khác nhau vào hệ thống đại từ” [18, tr.24]. Trong cuốn “Từ
loại tiếng Việt hiện đại” [8], khi phân chia hệ thống từ loại tiếng Việt, ở các tiểu loại
đại từ, tác giả Lê Biên cho rằng tiểu loại đại từ quan trọng nhất là “đại từ xưng hô” .
Những đại từ xưng hô trong tiếng Việt có thể được chia thành hai lớp:
- Ở tiếng Việt, các đại từ xưng hô gốc, đích thực rất ít: “tao, ta, mày, nó,
hắn” và chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm không lịch sự (thân mật, thô tục,
khinh thường).
- Có nhiều yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô như:
+ Những từ nguyên là danh từ đã trở thành đại từ thực sự: “tôi, tớ, mình hoặc
còn dấu ấn danh từ khá rõ: chàng, nàng, thiếp, người, ngài, người ta...”


10
+ Những danh từ lâm thời đảm nhận chức danh đại từ, đó là những danh từ chỉ
người thuộc quan hệ gia tộc, thân thuộc như: “cụ, ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cậu, cô
dì, mợ, thím”.
+ Các danh từ: “bạn, đồng chí”
+ Các danh từ chỉ học hàm, học vị, tước hiệu: “giáo sư, tiến sĩ, đại tướng”
+ Các tên riêng của người
+ Các đại từ chỉ định: “ấy, đấy, đây”
+ Một số từ có nguồn gốc vay mượn từ gốc Hán, gốc Pháp
Tác giả Lê Biên cũng chú ý: “Những đại từ xưng hô gốc, thiếu từ biểu thị sắc
thái biểu cảm lịch sự, do đó, hầu hết danh từ chỉ người trong quan hệ gia tộc, thân
thuộc đều có thể dùng làm từ xưng hô để thể hiện sắc thái này” [8, tr.124]. Trong
cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức
Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến cũng cho rằng đại từ nhân xưng là một nhóm trong đại
từ: “Đại từ bao gồm nhiều nhóm, cụ thể là đại từ nhân xưng, đại từ thay thế, đại từ

chỉ định, đại từ chỉ lượng. Trong đó đại từ nhân xưng có tính chất của từ thực nhiều
hơn...” [28, tr.273].
Giai đoạn nghiên cứu thứ hai gắn liền với thuật ngữ “từ xưng hô”. Từ xưng hô
trong tiếng Việt được nghiên cứu từ lí thuyết giao tiếp, xưng hô gắn với văn hóa giao
tiếp của cộng đồng. Khái niệm từ xưng hô có ngoại diên rộng hơn đại từ nhân xưng.
Vì ngoài đại từ nhân xưng thực thụ, từ xưng hô còn tiếp thu rất nhiều từ thuộc các từ
lọai khác vào hệ thống để đảm nhiệm chức năng xưng hô. Từ xưng hô được nghiên
cứu gắn với cách ứng xử và đặt trong chiều sâu văn hóa của mỗi dân tộc, vùng miền.
Người có công sức nghiên cứu sâu ở mảng từ xưng hô, trước hết phải kể đến Nguyễn
Văn Chiến. Ông đã viết nhiều cuốn sách và bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí về
từ xưng hô bằng phương pháp tiếp cận hệ thống. Ở bài viết “Bình diện xã hội của ngữ
dụng học tương phản các từ xưng hô và các thành ngữ” [19], nhóm tác giả Nguyễn
Văn Chiến, Nguyễn Xuân Hòa đã khẳng định “Tên gọi từ xưng hô cho thấy: chính
bản thân thuật ngữ này không có “chỗ đứng” trong kí hiệu học cú học và nghĩa học.
Đây không phải là những đơn vị thuần túy của hệ thống - cấu trúc ngôn ngữ. Bằng
chứng là sự tồn tại những ngôn ngữ, trong đó lớp từ xưng hô chứa đựng một tập hợp


11
các từ loại khác nhau, rất phong phú và đa dạng. Từ xưng hô chỉ có thể được định
nghĩa trong hoạt động giao tiếp, trong mối quan hệ trực tiếp giữa những người giải
thuyết kí hiệu và bản thân kí hiệu ngôn ngữ” [19, tr.43]. Trong bài “Lớp từ xưng hô
tiếng Việt trong lí thuyết và thực tế đối dịch với các ngôn ngữ khác” [22], Nguyễn
Văn Chiến đã cho rằng nếu coi tiếng Việt là ngôn ngữ phiên dịch để chuyển dịch các
ngôn ngữ khác qua nó thì lớp từ xưng hô của tiếng Việt là một hiện tượng đầy thú vị
nhưng cũng gây ra rất nhiều chuyện rắc rối. Trong cuốn “Ngôn ngữ học đối chiếu và
đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á” [18], Nguyễn Văn Chiến đã phân tích đại từ
nhân xưng tiếng Việt trong sự đối chiếu với đại từ nhân xưng của những ngôn ngữ
khác, gần và cùng loại hình. Tác giả đã đối chiếu hệ thống đại từ nhân xưng tiếng
Việt trong sự phân tích tương phản với hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Khơme và

tiếng Lào. Trong bài viết “Danh từ thân tộc Việt trong hai loại hình ngôn ngữ đối
chiếu: Khơme, Lào và Nga, Tiệp, Anh” [23], Nguyễn Văn Chiến định nghĩa danh từ
thân tộc là những từ biểu thị khái niệm và quan hệ thân tộc gia đình. Tác giả đã đối
chiếu danh từ thân tộc Việt trên các mặt nội dung, hình thức, số lượng, phẩm chất với
những ngôn ngữ khác loại hình (tiếng Nga Tiệp - ngôn ngữ Slavơ biến hình, tổng hợp
tính; tiếng Anh - ngôn ngữ Ấn Âu biến hình, phân tích tính), với những ngôn ngữ
cùng loại hình (tiếng Khơme, Lào - ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính). Trong hướng
nghiên cứu này, phải kể đến cuốn “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt” của
Nguyễn Văn Chiến [24]. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu tiếp cận vốn từ
vựng Việt ngữ một cách có hệ thống dưới ánh sáng của ngôn ngữ - văn hóa học.
Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Ở
chương 3, tác giả đã phân tích các danh từ chỉ quan hệ thân tộc và các từ xưng hô
trong tiếng Việt. Theo Nguyễn Văn Chiến, trong các từ biểu thị cơ cấu và tổ chức xã
hội người Việt, lớp từ có vị trí xứng đáng nhất, xét ở góc diện ngôn ngữ - văn hóa
học phải là các từ chỉ quan hệ thân tộc và các từ xưng hô. Đây là hai nhóm từ có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tiêu biểu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam. Số lượng các đại từ nhân xưng gốc, thực thụ rất ít, chỉ phân bố ở những sắc thái
xưng hô biểu cảm không lịch sự nếu nhìn ở mặt cắt đồng đại. Vì thế, khi thể hiện thái
độ xưng hô lịch sự, tiếng Việt phải mượn các đơn vị từ vựng thuộc nhiều lớp từ loại


12
khác nhau. “Đây là quá trình tự điều chỉnh hệ thống mà kết quả của nó là: mỗi một
từ xưng hô như thế, bên cạnh cái ý nghĩa từ vựng phi đại từ, ý nghĩa từ vựng - từ loại
gốc, còn có thêm ý nghĩa xưng hô dụng học (nét nghĩa dụng học - văn hóa xưng hô)”
[24, tr.226]. Tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm của từ xưng hô tiếng Việt: một từ xưng
hô có thể bộc lộ nhiều sắc thái xưng hô biểu cảm khác nhau trong những tình huống
không giống nhau; phạm vi xã hội của từ xưng hô - những kiểu xưng hô tương ứng
và những cặp từ xưng hô; nguyên tắc xưng hô gia đình thường chặt chẽ, theo trật tự
tôn ti và các danh từ thân tộc được sử dụng nhiều hơn cả; xu hướng xưng hô gia đình

hóa ngoài xã hội. Theo tác giả, xưng hô là một hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong
giao tiếp đòi hỏi người xưng gọi phải có những năng lực nhất định. Dựa vào khái
niệm chung “năng lực giao tiếp” (communicative competence), Nguyễn Văn Chiến
đã đề xuất một khái niệm cụ thể “năng lực giao tiếp xưng hô” [24, tr.240]. Năng lực
này gồm có những thành tố: (1) Kiến thức xưng hô ngôn ngữ học, bao gồm những
yếu tố xưng hô bằng lời; những yếu tố xưng hô phi lời; các khuôn mẫu xưng hô trong
thực tế xưng gọi; ý nghĩa xưng hô của các biến thể xưng hô. (2) Những kĩ năng xưng
hô hỗ trợ cần thiết, bao gồm: khả năng thẩm nhận những đặc điểm nổi bật nhất ttrong
các tình huống giao tiếp xưng hô; khả năng nắm bắt các quy tắc sử dụng các hình thái
xưng hô; chuẩn mực xưng hô cần thiết; chiến lược xưng hô. (3) Kiến thức văn hóa
xưng hô, bao gồm: cấu trúc xưng hô xã hội, các giá trị và thái độ xưng hô, sơ đồ nhận
thức các hành vi xưng hô quá trình chuyển di kiến thức và kĩ năng xưng hô. Rõ ràng,
“năng lực giao tiếp xưng hô” là cái có thực trong giao tiếp ngôn ngữ. Điều này được
thể hiện rõ ràng nhất trong trường hợp người học tiếng Việt với tư cách NN2: người
nước ngoài, người dân tộc thiểu số học tiếng Việt. Những đối tượng này thường gặp
nhiều khó khăn trong việc lựa chọn và sử dụng từ xưng hô. Tác giả Nguyễn Văn
Chiến trong bài viết “Sử dụng từ xưng hô, một biểu hiện của thế ứng xử của tiếng
Việt” [20] đã chia các từ xưng hô bằng từ thân tộc ra hai loại: xưng hô tương ứng
chính xác (ví dụ xưng “em” gọi “chị”, “anh”) và xưng hô tương ứng không chính xác
(ví dụ xưng “chị” gọi “cô”, “chú”, “cậu”; xưng “em” gọi “bác”, “cô”) do sự chi phối
của văn hóa người Việt. Phạm Thị Thành trong “Vài nét về các đại từ nhân xưng
trong tiếng Việt hiện đại” [66] cho thấy cách xưng hô của người Việt gắn liền với văn


13
hóa giao tiếp. Hệ thống từ xưng hô tiếng Việt và sự phối hợp giữa xưng và hô trong
giao tiếp tiếng Việt cho thấy quan hệ vị thế, quan hệ thân sơ giữa người giao tiếp.
Cách lựa chọn sử dụng từ xưng hô chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như tuổi tác,
giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội, học vấn, phạm vi giao tiếp, tình huống giao tiếp,
quan hệ vai, quan hệ thân - sơ,...

Không chỉ nghiên cứu vấn đề xưng hô trong văn hóa giao tiếp nói chung,
xưng hô còn được nghiên cứu sâu ở góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội. Nguyễn Văn
Khang trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội” [38] đã phân tích các từ ngữ xưng hô gắn
với đặc điểm lịch sử của xã hội. Tác giả nhận xét: “… từ xưng hô là một hệ thống
rất nhạy cảm và “mở”, phản ánh quan niệm truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc.
Những thay đổi của thời đại hoặc sự thay đổi quan điểm, giá trị sẽ thay đổi cả ý
nghĩa cũng như chức năng của từ ngữ xưng gọi” [38, tr. 365]. Ví dụ, trước thời kì
đổi mới, từ dùng quen thuộc nhất là “đồng chí”. Bắt đầu từ thời kì Đổi mới, các từ
xưng hô trong tiếng Việt được huy động một cách tối đa và có sự phân bố trong sử
dụng. Các từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt không chỉ là các đại từ xưng “gốc”
mà còn có rất nhiều từ thuộc từ loại khác chuyển sang, trong đó đáng chú ý là nhóm
từ thân tộc. Nhóm từ này được coi là “một trong những đầu mối quan trọng để lí
giải những vấn đề ngôn ngữ - văn hoá - xã hội cũng như tác động của mối quan hệ
gia đình - xã hội đến ứng xử giao tiếp của người Việt” [38, tr. 366]. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Khang cho rằng: “Xưng hô là một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội bởi
đó là sự tương tác giữa vai xã hội và vai giao tiếp, phản chiếu các mối quan hệ đa
chiều từ gia đình đến xã hội của các cá nhân trong cộng đồng giao tiếp” [40]. Trong
bài viết, tác giả đã đưa ra kết luận: “Các từ ngữ xưng hô có vai trò đặc biệt quan
trọng trong giao tiếp xưng hô của người Việt từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ
giao tiếp phi quy thức đến giao tiếp quy thức. Đây cũng là một đặc điểm mang tính
đặc thù của giao tiếp tiếng Việt gắn với văn hoá Việt từ truyền thống đến hiện đại”
[40, tr.47].
Ngoài ra, còn phải kể đến các nghiên cứu về xưng hô trong một giai đoạn lịch
sử nhất định như: “Xưng hô trong giao tiếp của người lính Cụ Hồ thời kì chống Pháp
từ vai giao tiếp” của Nguyễn Thị Hồng Chuyên [27]. Việc xưng hô còn được nghiên


14
cứu trong những phạm vi giao tiếp khác nhau. Nghiên cứu theo hướng này, có thể kể
đến các bài viết: “Xưng hô trong thương lượng mua bán (trên cứ liệu các hội thoại

mua bán của sinh viên tại các chợ sinh viên ở Hà Nội)” của Chu Thị Phong Lan [42],
“Xưng hô trong giao tiếp vợ chồng nông dân người Việt (trên cứ liệu một số tác phẩm
văn học giai đoạn 1930 -1945) của Khuất Thị Lan” [43], “Chiến lược giao tiếp xưng
hô của thành viên ban giám khảo trong chương trình truyền hình thực tế bằng tiếng
Việt và tiếng Anh” của Trần Thị Thanh Hương [37].
Nghiên cứu về từ xưng hô tiếng Việt, không thể không kể đến cuốn sách “Từ
xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc” của Trương Thị Diễm [29]. Cuốn sách đã
làm sáng tỏ vấn đề từ xưng hô trên cả ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
Cuốn sách gồm ba chương: (1) Chương 1: Hệ thống từ xưng hô tiếng Việt, (2)
Chương 2: Cơ sở của việc chuyển hóa danh từ thân tộc thành từ xưng hô, (3) Chương
3: Hoạt động của danh từ thân tộc Việt trong xưng hô giao tiếp. Tác giả cho rằng
“Chịu sự ước định của xã hội, mang đậm bản sắc dân tộc, hệ thống từ xưng hô là một
hệ thống từ đặc biệt luôn được quan tâm không chỉ như một vấn đề ngôn ngữ mà còn
như là một vấn đề văn hóa bên cạnh những vấn đề văn hóa khác” [29, tr.172]. Việc
nghiên cứu đặc điểm lớp danh từ thân tộc trong xưng hô đã cho thấy việc dạy tiếng
Việt phải gắn với văn hóa Việt, dạy tiếng Việt trong giao tiếp, gắn với những tình
huống giao tiếp cụ thể để dạy cách ứng xử cho HS. Các nghiên cứu về từ xưng hô
tiếng Việt cho thấy người Việt rất chú trọng việc biểu thị đúng thứ bậc, quan hệ, tình
cảm khi xưng hô. Đó là lí do ngoài đại từ xưng hô, các danh từ chỉ quan hệ thân tộc
được dùng để xưng hô trong giao tiếp xã hội. Đây là nét đặc trưng của xưng hô trong
giao tiếp tiếng Việt.
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGÔN NGỮ THỨ HAI
Trên thế giới, bàn về phương pháp dạy học ngôn ngữ, đã có nhiều cuốn sách
chuyên khảo nghiên cứu sâu. Có thể nói, phương pháp dạy học ngôn ngữ chịu ảnh
hưởng của lí thuyết ngôn ngữ và lí thuyết học tập. Hai lí thuyết này có thể độc lập
hoặc kết hợp với nhau để cho ra đời những phương pháp dạy học khác nhau.
Về lí thuyết ngôn ngữ, theo Jack C. Richard [92], hiện nay, trên thế giới đang
tồn tại ít nhất ba góc nhìn khác nhau về ngôn ngữ và điều này đã tác động trực tiếp



15
đến phư HS)
2. Hoạt động 2: Luyện nói: Giới thiệu về người thân trong gia đình
- Em hãy vẽ chân dung 1 người thân trong gia đình.
- Khi vẽ xong, em cho bạn bên cạnh xem tranh và giới thiệu cho bạn biết về người
thân của mình. Khi giới thiệu, các em hãy chú ý đến các nội dung sau:
+ Đây là bố/mẹ/ông/em mình.
+ Bố/ mẹ mình năm nay… tuổi.
+ Bố/ mẹ mình thích…
+ Bố/ mẹ mình thường giúp mình…
+ Mình rất yêu…
- GV quan sát các cặp HS trao đổi, trò chuyện, chỉnh sửa cho các em.


×