Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Bình văn 9.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.23 KB, 34 trang )

Chuyện ngời con gái Nam Xơng
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
1. Mặc dù Truyền kỳ mạn lục đợc xem là thiên cổ kỳ bút thì cho đến nay
chúng ta vẫn không biết đợc bao nhiêu về con ngời và hành trạng của Nguyễn Dữ.
Những gì mà hậu thế biết về ông tựu chung chỉ ở mấy điểm sau:
-xuất thân trong một gia đình khoa bảng: cha ông là Nguyễn Tờng Phiêu, tiến
sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), làm quan đến chức Thừa
Chánh sứ, khi mất đợc tặng phong Thợng th.
-Nguyễn Dữ (không rõ năm sinh, năm mất) là ngời học rộng, nhớ nhiều nhng
sau khi đỗ Hơng cống, ông chỉ làm quan (tri huyện - một chức quan nhỏ) một năm
rồi cáo quan về ở ẩn đến mãn đời.
Thế kỷ XVI, thời đại của Nguyễn Dữ, là thế kỷ của những cuộc tranh giành
quyền bính, thế kỷ của những cuộc nội chiến kéo dài. Trong một thời đại đầy
những biến động ấy, Nguyễn Dữ chọn cho mình một cuộc sống lặng lẽ. Sự lựa
chọn ấy có lẽ không nằm trong ý hớng khởi đầu của ông. Với gia thế của mình, lại
đỗ đạt và đặt chân vào con đờng hoạn lộ từ rất sớm - bấy nhiêu chi tiết khiến ta có
thể ức đoán Nguyễn Dữ đã từng hăm hở nhập thế. Vậy nên, hành vi xuất thế của
ông chỉ có thể là kết quả của một sự vỡ mộng, của một ngời không tìm thấy lối đi
trong một thế cuộc nhiều nỗi khóc cời. Tất cả những nếm trải ấy ta sẽ thấy hiện
lên, khi mở khi tỏ, trong Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ có thể đã sống lặng lẽ
trong đời thực nhng những trang văn của ông lại cồn cào, chất chứa những tâm sự.
Thời đại của Nguyễn Dữ đã và sẽ có không ít những chân dung nh thế và chân
dung Nguyễn Dữ cần hiểu nh một đại diện!
2. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện. Tên gọi của tác phẩm cũng đồng thời là
thông tin về thể loại. Truyền kỳ là thể loại rất thịnh hành ở thời Đờng, lấy tự sự
làm chính, thể văn gần với dã sử, ở giữa thờng xen vào thơ ca văn vần, đoạn cuối
chuyện thờng có một đoạn nghị luận ngắn (Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc
tập 1 NXB Thế giới HN 2000 - 283). Những đặc điểm trên xuất hiện khá
rõ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Trớc khi đợc kể lại bởi Nguyễn Dữ
câu chuyện về Vũ Nơng hẳn đã tồn tại trong dân gian mà hai bài thơ viếng nàng
Vũ thị trong Hồng Đức quốc âm thi tập (thế kỷ XV) là một minh chứng. Tuy


nhiên, vì lẽ gì mà câu chuyện trong dân gian này lại khiến Nguyễn Dữ động tâm
đến độ phải dụng bút để ghi lại cho hậu thế?
2.1. Câu trả lời có lẽ bắt đầu từ nhân vật chính của tác phẩm: Vũ Nơng.
Truyện có nhiều nhân vật nhng rõ ràng Vũ Nơng - một thiếu phụ - lại trở thành
nhân vật trung tâm: hình ảnh của nàng đợc lấy làm nhan đề của truyện (Ngời con
gái Nam Xơng). Nàng xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm với đầy đủ họ tên, quê quán,
phẩm hạnh và truyện khép lại cũng bằng câu nói và hình ảnh cuối cùng của nàng.
Quan trọng hơn, nếu nh các nhân vật khác chỉ xuất hiện ở từng chặng thì Vũ Nơng
xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Trớc Nguyễn Dữ, văn học viết Việt Nam hầu nh vắng bóng hình ảnh ngời
phụ nữ. Đấy là nền văn học với những băn khoăn về hữu / vô; với những bài hịch,
bài cáo hừng hực hùng tâm tráng chí; là những bài thơ chất chứa những tâm sự
cao cả của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi...Một nền văn học
nh thế, tất yếu, không có chỗ để ngời phụ nữ xuất hiện nh một hình tợng trung
tâm. Sự xuất hiện của Vũ Nơng - một ngời phụ nữ - với t cách là nhân vật trung
tâm mở ra một phơng diện mới cho văn học: sự quan tâm đến hạnh phúc trong
cuộc sống thờng nhật, trực tiếp nhất trong tác phẩm là hạnh phúc gia đình - đây
chính là hệ quy chiếu chiều sâu làm nên cái nhìn nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn
Dữ .
Quả thật, nếu nh trong tác phẩm có nói đến chiến tranh thì sự kiện này cũng
đợc cảm nhận từ khía cạnh của hạnh phúc gia đình. Đây là lời mẹ Tr ơng Sinh
(lại là một ngời phụ nữ) dặn con trong buổi ra đi: Tuy hội công danh từ xa ít
gặp, nhng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, l-
ờng sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan
cao tớc lớn nhờng để ngời ta. Có nh thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con đợc.
Rồi đây ngời mẹ già ấy sẽ vì nhớ con mà dần sinh ốm, trớc khi mất, trong lời
trối lại vẫn đọng nguyên vẹn nỗi ngậm ngùi về một ngày đoàn tụ: Mẹ không
phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm cháo đặng
cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Ngay cả đến
Trơng Sinh, ngời trực tiếp tòng chinh, thì Nguyễn Dữ cũng không hề miêu tả

nhân vật trong không gian của chiến trận. Ông chỉ miêu tả trực tiếp nhân vật khi
2
đứng trớc mộ mẹ với lời dỗ dành đứa con nhỏ: Nín đi con, đừng khóc. Cha về,
bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Rõ ràng hạnh phúc gia đình mới là mạch
ngầm chi phối mọi sự kiện, mọi miêu tả về thế giới nhân vật của Nguyễn Dữ.
Lẽ đơng nhiên, Vũ Nơng nhân vật trung tâm của tác phẩm sẽ là nhân vật
thể hiện tập trung nhất khát vọng về mái ấm gia đình. Mọi miêu tả, mọi sự kiện
mà Nguyễn Dữ dành cho nhân vật này đều hớng đến chủ đề này. Làm vợ Trơng
Sinh, biết tính chồng hay ghen, nàng giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào vợ
chồng phải đến thất hoà. Chỉ một chi tiết nhng cho thấy biết bao nhiêu những
nâng niu, gợng nhẹ của ngời con gái ấy cho sự đầm ấm của gia đình. Khi tiễn
chồng đăng lính, nàng nói với chồng và cũng là để nói về ớc nguyện lớn nhất của
đời mình: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo đợc ấn phong hầu,
mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đợc hai chữ bình yên, thế là
đủ rồi...". Dẫu Nguyễn Dữ bao giờ cũng rất kiệm lời khi thuật truyện thì ông cũng
không quên ghi lại ở đây một chi tiết: Nàng nói đến đây, mọi ngời đều ứa hai
hàng lệ. Hẳn là, khi viết những dòng này, Nguyễn Dữ đã cảm nhận mình nh ngời
trong cuộc!
Và đây nữa, một chi tiết mà những ai đã đọc truyện đều không thể quên: mỗi
đêm, ở nhà một mình, dới ngọn đèn nàng lại trỏ bóng mình trên vách nói với con
đấy là cha nó. Lấy bóng mình đồng nhất với chồng, ngời con gái họ Vũ thật đã để
lại trong văn học một định nghĩa thật đẹp về sự gắn bó máu thịt của quan hệ chồng
vợ. Hai đấy nhng cũng là một, bền chặt không rời, mãi bên nhau quấn quít. Trỏ
chiếc bóng bởi nàng thơng con, không muốn nó phải thiếu vắng hình ảnh ngời bố
trong cuộc sống thờng ngày hay nàng cũng muốn mợn chiếc bóng để khỏa lấp nỗi
trống trải của lòng mình? Một đứa con cần có bố, một ngời vợ ngóng chồng -
những khao khát về hạnh phúc đời thờng ấy đều đợc tụ lại trong một chi tiết.
Chính vì tha thiết với hạnh phúc gia đình nh thế nên khi bị Trơng Sinh nghi
ngờ, đánh đuổi khỏi nhà, Vũ Nơng không còn con đờng nào khác phải tìm đến cái
chết. Câu nói của Vũ Nơng với chồng trớc khi tự vẫn cho thấy rất rõ điều ấy:

"Thiếp sở dĩ nơng tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất". Nàng đã
thay chồng chăm sóc mẹ già, đã sống những tháng ngày trống trải chỉ bởi hy vọng
về mái ấm gia đình. Và nh một lo-gic tất yếu, nàng sẽ vì nó mà tự tận.
Nhng ngay cả khi đã rời bỏ cõi trần thì Vũ Nơng vẫn không thể đoạn tình với
nó. Chính nàng đã chủ động nói chuyện với Phan Lang : "Tôi với ông vốn ngời
cùng làng, cách mặt cha bao, đã quên nhau rồi ?". Nàng hỏi để sau đó mà giãi
3
bày oan ức: "Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nớc, chứ còn
mặt mũi nào về nhìn thấy ngời ta nữa !" trong lời lời nói vẫn còn nguyên sự hờn
giận, trách cứ. Đã ở cõi tiên mà lòng trần vẫn không thể dứt. Chính vì thế khi nghe
Phan Lang hỏi : "Nơng tử dù không nghĩ đến, nhng tiên nhân còn mong đợi nơng
tử thì sao ?" - xin lu ý: đây chỉ là một giả thiết của Phan Lang - chỉ thế thôi đã
khiến nàng "ứa nớc mắt khóc", "đổi giọng", hứa "tôi tất phải tìm về có ngày". Vũ
Nơng ở cõi tiên nhng những lời nói và hành động của nàng vẫn tha thiết với cuộc
đời trần thế. Dù sống bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu cõi đời thì cõi trần vẫn là nơi
nàng khắc khoải, gắn bó. Điều ấy cũng có nghĩa là những khao khát về mái ấm gia
đình, về hạnh phúc thờng nhật nơi dơng thế vẫn nguyên vẹn trong nàng, vẫn khiến
nàng rơi lệ.
Ngời con gái Nam Xơng kể với ta về một giấc mơ: giấc mơ về hạnh phúc gia
đình - một giấc mơ bình dị, một giấc mơ mà một ngời bình thờng cần có và nên
có. Mơ ớc ấy, hỡi ơi, chỉ tồn tại xiết bao ngắn ngủi ("cuộc sum vầy cha đợc bao
lâu") để rồi sau đó chỉ chập chờn trong chiếc bóng h ảo và rốt cuộc phải chịu cảnh
"bình rơi trâm gãy". Cái chết của Vũ Nơng là bi kịch về sự tan vỡ của những ớc
vọng hạnh phúc trong cuộc đời thờng nhật. Phải chăng đấy cũng là những trải
nghiệm của chính Nguyễn Dữ trong cuộc đời?
Những gì đã nói ở trên cho thấy: sự xuất hiện của Vũ Nơng với t cách nhân
vật trung tâm cho thấy sự thức tỉnh của những giá trị nhân bản, sự quan tâm đến
hạnh phúc đời thờng trong văn học Việt Nam. Đó là một nét mới mẻ của Chuyện
ngời con gái Nam Xơng, báo trớc sự xuất hiện của những nàng chinh phụ, Thuý
Kiều,... ở giai đoạn văn học sau này.

2.2. Một nguyên nhân khác để Nguyễn Dữ viết Ngời con gái Nam Xơng đợc
nhận biết qua lời bình của ông ở cuối truyện: Than ôi! Những việc từa tựa nh
nhau, thật khó tỏ mà dễ hoặc. Vậy là: Nguyễn Dữ không chỉ suy t về hạnh phúc
thờng nhật của con ngời. Ông còn muốn đi tìm nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ của
những hạnh phúc nhỏ bé nhng thân thiết ấy. Đọc tác phẩm, một cách khách quan,
có thể thấy: không chỉ có một nguyên nhân gây ra bi kịch của Vũ Nơng.
Nguyên nhân trớc tiên, cũng là nguyên nhân dễ thấy nhất trong tác phẩm: sự
cả ghen của Trơng Sinh cái ghen của một ngời chồng trong xã hội phong kiến
vốn trọng nam khinh nữ. Hơn thế, còn là cái ghen của ngời chồng giàu có trớc ng-
ời vợ mà nh Vũ Nơng tự nhận : "vốn con kẻ khó, đợc nơng tựa nhà giàu". Đối đầu
với thói đa nghi ấy, Vũ Nơng có phẩm hạnh. Nhng còn có một nguyên nhân khác
4
trợ lực cho thói đa nghi của Trơng Sinh: chiến tranh. Chiến tranh gây ra sự chia
biệt. Nó lấy đi tuổi xuân của con ngời. Không chỉ thế, ngay cả khi chiến tranh đã
kết thúc thì hậu quả của sự li biệt vẫn tiếp tục tồn tại. Chính sự li biệt là mảnh đất
để thói đa nghi của Trơng Sinh trở thành mầm mống gây ra bi kịch. Vũ Nơng là
nạn nhân của bi kịch ấy. Trơng Sinh cay đắng hơn : vừa là nguyên nhân vừa là nạn
nhân của chính mình.
Nhng Nguyễn Dữ thật trải đời khi trong lời bình của mình ông nói về những
việ tựa tựa nh nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc những sự hiểu lầm và thêm nữa là
những ngẫu nhiên. Có quá nhiều những hiểu lầm và ngẫu nhiên gây ra bi kịch của
Vũ Nơng. Tin chiếc bóng là cha mình là một "hiểu lầm" của bé Đản. Sự hiểu lầm
của một đứa trẻ đã gây ra tai họa bởi một loạt những ngẫu nhiên. Trơng Sinh về
nhà khi con vừa học nói là ngẫu nhiên. Trơng Sinh một mình bế con đi thăm mộ
mẹ là ngẫu nhiên. Sự quấy khóc của đứa trẻ khiến Sinh phải dỗ dành nó là ngẫu
nhiên. Tất cả những ngẫu nhiên ấy đã gây nên sự hiểu lầm nhng lần này là của một
ngời chồng cả ghen. Và tai họa tất yếu phải xảy ra, không thể né tránh và vô ph-
ơng cứu chữa. Điều này cho thấy hạnh phúc ở đời thật mong manh. Nó có thể bị
tiêu huỷ bởi rất nhiều những ngẫu nhiên, nhầm lẫn nhiều khi thật vô lí trong cuộc
đời. Oái ăm ở chỗ : hạnh phúc chỉ có một trong khi những ngẫu nhiên và nhầm

lẫn thì không ai có thể lờng trớc, có thể kể xiết. Để vợt qua những cạm bẫy ấy, ng-
ời ta cần có một thứ: niềm tin về những giá trị đẹp đẽ trong mình và ở con ngời.
Hay nói nh một nhạc sĩ: sống trong cuộc đời cần có một tấm lòng! Nguyễn Dữ đi
tìm nguyên nhân và ông cũng để lại trong tác phẩm một câu trả lời thật thấm thía,
thật đáng để suy ngẫm!
3. Không thể không dừng lại để nói đôi lời về cái kết của tác phẩm. Chính ở
đây một đặc trng nổi bật của thể loại truyền kỳ đợc bộc lộ: xự đan xen thật - ảo.
Nguyễn Dữ đã thật dụng tâm khi dựng lại cái kết thúc mà thoạt nhìn là có hậu này.
Khi Vũ Nơng tự vẫn, nàng chỉ có một mình, Trơng Sinh xua đuổi nàng, phẩm giá
của nàng bị chà đạp một cách oan ức. Khi trở về ở phần cuối truyện, nàng có Tr-
ơng Sinh đứng đợi bên đàn giải oan, phẩm giá của nàng đã đợc chiêu tuyết.
Nguyễn Dữ muốn minh oan, khẳng định phẩm giá của Vũ Nơng với muôn đời.
Nói bằng thế giới hình tợng cha đủ, ông nói một cách thống thiết trong lời bình
cuối truyện: Nếu không đợc Trời xét tâm thành, nớc không làm hại, thì xơng hoa
vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dới lòng sông, còn đâu lại đợc thông tin tức để
nét trinh thuận đợc nhất nhất bộc bạch ra hết. Thật đúng là sự trinh thuận của Vũ
5
Nơng đã động đến trời, cảm hóa đợc cả muôn vật! Nguyễn Dữ tin thế và ngời đọc
mọi thời cũng tri âm với ông về niềm tin ấy!
Tuy nhiên, dù đợc chiêu tuyết thì bi kịch của Vũ Nơng, của Trơng Sinh cũng
không vì thế mà đợc hoá giải. Vũ Nơng đợc cứu sống bằng phép kì ảo nhng mất
mát hạnh phúc của nàng là vĩnh viễn, chẳng phép màu nào có thể cứu vãn và bù
đắp. Dù có sự trở về thì giữa Trơng Sinh và Vũ Nơng vẫn còn đó một khoảng cách
không thể vợt qua : "nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào : [...] Đa tạ tình
chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian đợc nữa". Nếu xa kia, khi Trơng Sinh
đăng lính, hình ảnh của chàng chỉ là chiếc bóng h ảo thì giờ đây hình ảnh của Vũ
Nơng cũng là chiếc bóng h ảo : "lúc ẩn, lúc hiện", "Rồi trong chốc lát, bóng nàng
loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất".
Với các nhân vật ấy, hạnh phúc mãi mãi chỉ là chiếc bóng h ảo !
Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh

(Trích Vũ trung tuỳ bút)
1. Có hai điểm trong cuộc đời Phạm Đình Hổ giúp ta hiểu rõ hơn về những
trang viết trong Vũ trung tuỳ bút.
Thứ nhất: ông sinh trởng trong một gia đình quý tộc. Thân sinh của ông đỗ cử
nhân, làm quan dới triều Lê. Bản thân Phạm Đình Hổ dù chỉ thi đỗ tú tài nhng lại
nổi tiếng về học vấn uyên thâm - điều đã khiến Minh Mạng sau này vì mộ tiếng
mà vời ông vào Kinh đô giữ chức hành tẩu viện Hàn lâm, thậm chí đã có thời kỳ
ông đợc giữ chức Tế tửu Quốc tử giám.
Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tuỳ bút ở tuổi ba mơi. Tâm sự của ông lúc này
không hề thanh thản. Buồn nản, thơng thân là giọng điệu Phạm Đình Hổ mỗi khi
nhắc đến mình: tiêu điều vờn cũ, ta thì giang hồ bôn ba non sông xa thẳm, khôn
cầm giọt lệ
1
, Còn nh ta, lúc tráng niên đã hóa vợ, đi phiêu bạt tha hơng, kể tình
đầu nông nỗi không thể nào xiết
2
. Thời đại Phạm Đình Hổ sống là thời đại của
mấy phen thay đổi sơn hà/Mảnh thân chiếc là biết là về đâu. Cơn phong ba của
thời cuộc hẳn cũng đã cuốn cậu Chiêu Hổ vào trong vòng xoáy của nó. Bằng chính
chìm nổi đời mình, Phạm Đình Hổ đã nếm trải sâu sắc khía cạnh này của thời đại.
1
Phạm Đình Hổ - Vũ trung tùy bút - NXB Trẻ 1989 - tr12
2
Phạm Đình Hổ - Tlđd - tr16
6
Vậy nên, trong Vũ trung tuỳ bút, dù Phậm Đình Hổ viết về chuyện xa hay chuyện
nay, thì ngời đọc vẫn nhận thấy rất rõ những ngẫm ngợi, chứng nghiệm về thời thế,
lẽ đời với muôn sự bất tờng của nó.
Tri thức phong phú, uyên bác trên nhiều phơng diện đời sống và sự từng trải
trong đơng đời, vì thế, là hai đặc điểm nổi bật của Vũ trung tuỳ bút.

2. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh xoay quanh hai sở thích của Trịnh Sâm:
- Thích chơi đèn đuốc, thờng ngự ở các li cung.
- Thích các loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở
chốn dân gian.
Đấy là sở thích của một cá nhân nhng lại là cá nhân ở cơng vị tôn quý và
ngòi bút của Phạm Đình Hổ đã cho ngời đọc thấy khi một kẻ tôn quý chạy theo
những sở thích của mình thì những hậu quả của nó để lại hoàn toàn không chỉ
còn là câu chuyện của một cá nhân nữa.
Sở thích "chơi đèn đuốc, thờng ngự ở các li cung" dẫn đến : "xây dựng đền đài
liên miên". Để thoả mãn một cuộc chơi của Chúa cần đến : "binh lính dàn hầu
vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà", "bọn nhạc
công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc". Thậm chí đến cả "các quan hỗ tụng
đại thần cũng xuất hiện. Qua lời kể của Phạm Đình Hổ ta thấy cuộc chơi diễn ra
thật quy mô, thật rầm rộ. Cả triều đình bị cuốn vào những cuộc chơi của một cá
nhân. Cả triều đình dờng nh chỉ có một chức năng duy nhất: mua vui cho nhà
Chúa. Đặc biệt, chi tiết bắt đám nội thần đều "mặc áo đàn bà" cho thấy sự a thích
những thú vui phù phiếm, có phần quái gở, thích nữ sắc của chúa Trịnh.
Đến sở thích về những loài "trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây
cảnh" của nhà Chúa thì phạm vi ảnh hởng không dùng lại ở không gian của triều
đình nữa. Bọn hoạn quan, thái giám sẽ nhân đó mà mặc sức "nhờ gió bẻ măng, ra
ngoài dọa dẫm". Dân tình phải chịu cảnh "bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải
đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ". Ngòi bút của
Phạm Đình Hổ ở đây thật điêu luyện: ông biết lựa lấy những chi tiết nhiều khi t-
ởng nh ngẫu nhiên, vu vơ nhng lại có giá trị lột tả đợc bản chất của hiện thực đời
sống. Chi tiết thu lấy cây đa cổ thụ là một chi tiết nh thế. Cần lu ý là : chuyện chúa
Trịnh thu lấy mọi loại "trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở
chốn dân gian" chỉ đợc nêu rất ngắn gọn trong một câu văn nhng chỉ riêng chuyện
thu lấy cây đa đợc miêu tả trong bốn dòng với rất nhiều chi tiết tỉ mỉ, đặc biệt là
7
những chi tiết miêu tả sự phiền toái của việc vận chuyển : "chở qua sông đem về

[...] phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn ngời đi kèm, đều cầm gơm, đánh
thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay". Đây cũng là sự kiện đợc miêu
tả kĩ lỡng nhất trong toàn bộ bài tuỳ bút. Sự phá lệ, tởng nh ngẫu nhiên này là cần
thiết, đem lại khả năng khái quát về hiện thực. Chỉ với một cây đa mà đã gây bao
sự phiền hà nh thế thì việc thoả mãn tất cả những sở thích của chúa sẽ còn gây ra
bao cảnh tợng dở khóc, dở cời khác cho đời sống của nhân dân ? Sự chi tiết hoá
của tác giả thoạt nhìn dờng nh là ngẫu nhiên, tiện lời thì kể thêm nhng kì thực rất
có dụng ý và vì thế có khả năng miêu tả hiện thực một cách sâu sắc.
3. Nhng khả năng khái quát hiện thực trong Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
không chỉ nằm ở sự lựa chọn những chi tiết mà còn nằm ở khả năng liên kết, tổ
chức quan hệ giữa các chi tiết để tạo ra những thông tin ngầm ẩn, nằm sau mỗi con
chữ.
Đọc văn bản, ngời đọc sẽ nhận thấy: mối quan hệ giữa hai sở thích của chúa
Trịnh là mối quan hệ mở rộng, tăng cấp. Sở thích thứ nhất của chúa chỉ liên quan
trực tiếp đến đám nội thần, binh lính, nhạc công, đại thần trong triều. Đến sở thích
thứ hai thì cuộc sống của bao ngời dân vì thế mà bị vạ lây. Bắt đầu từ sở thích của
nhà Chúa, kết lại ở những nỗi khổ sở của nhân dân. Mạch văn ấy, tự nó đã là một
khái quát, một phân tích thật sâu sắc về hiện thực đơng thời.
Đặc biệt, ở phần cuối hình ảnh của nhà Chúa mờ đi. Xuất hiện trực tiếp hơn là
hình ảnh của lũ hoạn quan. Nếu nh ở phần đầu đoạn trích chúng chỉ là một công
cụ để mua vui (bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán)
thì đến đây chúng xuất hiện trong bộ mặt của những kẻ thật lắm thủ đoạn để
nhũng nhiễu dân lành. Cái logic thợng tắc chính, hạ tắc loạn, nhà dột từ nóc đợc
tái hiện ở đây thật sinh động, thuyết phục.
4. Bên cạnh năng lực phản ánh hiện thực là giọng điệu phê phán. Nếu phản
ánh hiện thực là lớp nội dung đợc thể hiện trực tiếp thì thái độ phê phán lại là lớp
nội dung hàm ẩn. Dù thế, thái độ phê phán này vẫn đợc bộc lộ rất rõ qua hai chi
tiết.
Chi tiết thứ nhất : "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vợn hót ran
khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào nh trận ma sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả

biết đó là triệu bất tờng". Ba chữ "triệu bất tờng" có nghĩa là dấu hiệu không lành,
điều gở. Thái độ phê phán đợc hiện lên qua lời bình luận trực tiếp của tác giả.
8
Thái độ phê phán đợc thể hiện ngầm ẩn hơn trong chi tiết thứ hai - xuất hiện ở
phần kết của bài tùy bút : "Nhà ta ở phờng Hà Khẩu, huyện Thọ Xơng, trớc nhà
tiền đờng có trồng một cây lê, cao vài mơi trợng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm
lừng ; trớc nhà trung đờng cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông
rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy". Đây không còn kể chuyện nhà
ngời đời nữa mà là chuyện nhà. Chỉ có thể loại tùy bút mới cho phép một sự
chuyển mạch phóng túng đến nh thế. Nó đem lại cho văn bản sắc thái trữ tình. Tuy
nhiên, đặt trong toàn bộ văn mạch thì sự hiện diện của đoạn hồi ức còn đảm bảo
cho tính xác thực của những điều thuật kể. Cần lu ý là tác giả đặc biệt nhấn mạnh
vào hai vẻ đẹp khác thờng của cây lê và hai cây lựu. Chúng in đậm vào trong ký ức
của ông. Bao năm tháng đã đi qua nhng màu sắc và mùi hơng của chúng vẫn
nguyên vẹn. Đẹp thế, quý thế mà phải chặt bỏ để tránh tai vạ tất cả đều từ sự
tham lam, hiếu kì vô độ của chúa Trịnh. Đây là chi tiết khép lại tác phẩm nên âm
điệu phê phán toát ra từ bài tuỳ bút càng trở nên rõ nét.
Mở đầu bài tùy bút, tác giả đa ra một nhận xét: trong nớc vô sự. Nhng
những gì mà ông đề cập đến trong bài tùy bút lại khiến ngời ta phải suy ngẫm thật
nhiều về thế sự. Cũng không phải ngẫu nhiên sau phần tự thuật thì đây là câu
chuyện mở đầu trong Vũ trung tuỳ bút. Những triệu bất tờng trong Chuyện cũ
trong phủ chúa Trịnh phải chăng là sự mở đầu cho rất nhiều những bất tờng trong
tập tùy bút này?
Hoàng lê nhất thống chí
Hồi thứ mời bốn
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
1. Nh mọi ngời đều biết Hoàng Lê nhất thống chí đợc viết bởi tập thể các nhà
văn thuộc dòng họ Ngô Thì, trong đó Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du là hai tác giả
chính. Ngời trớc làm quan thời Lê Chiêu Thống, ngời sau làm quan triều Nguyễn.

Cả hai đều có những gắn bó với những triều đại đối nghịch với phong trào Tây
Sơn. Trên tất cả là cách nhìn nhận, đánh giá từ lập trờng trung quân của nhà nho,
trong trờng hợp cụ thể ở đây là trung với nhà Lê. Tuy nhiên, tinh thần dân tộc, sự
9
tôn trọng lịch sử đã làm xuất hiện trong tác phẩm không ít những chi tiết chân thực
nhiều khi vợt ra ngoài những chế định của t tởng trung quân. Chính điều này đã
làm nên giá trị hiện thực và nghệ thuật đặc sắc của Hoàng Lê nhất thống chí . Hồi
thứ mời bốn là sự thể hiện tập trung u điểm nổi bật trên của cuốn tiểu thuyết khi
miêu tả thành công sức mạnh, tài năng quân sự của Quang Trung và nghĩa quân
Tây Sơn, đồng thời khắc hoạ chân thực sự hèn nhát, bất lực của quân Thanh và vua
tôi Lê Chiêu Thống.
Điều này đợc thể hiện ngay từ hai vế đối mở đầu có chức năng tóm tắt nội
dung chính của toàn hồi truyện:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
Qua phép đối ngẫu, tác giả đã đặt song song "quân Thanh" và "Chiêu Thống".
Bọn cớp nớc đợc đặt song song với kẻ bán nớc. Cả hai đều ở tình trạng thảm bại :
"bị thua trận" "trốn ra ngoài". Dù kín đáo nhng rõ ràng, các tác giả đã tôn trọng
hiện thực, họ không hề lầm lẫn về bản chất của ông vua họ Lê. Điều đáng nói hơn
cả là trong hai vế đối hình ảnh vua Quang Trung không xuất hiện trực tiếp nhng
ngời đọc vẫn thấy tầm vóc của ngời anh hùng hiện lên sừng sững. Chẳng phải các
sự kiện : "quân Thanh bị thua trận", "Chiêu Thống trốn ra ngoài" đều có nguyên
nhân từ sự xuất hiện của vua Quang Trung và quân đội Tây Sơn đó sao ? Rõ ràng,
vua Quang Trung là ngời đã tạo ra những sự kiện chấn động của hồi thứ mời bốn.
Gơng mặt và sức mạnh của ngời anh hùng dờng nh toả chiếu trong từng sự kiện,
từng câu chữ, hình ảnh.
2. Quả thật, đọc trích đoạn không mấy khó khăn nhận thấy vai trò trung tâm
của ngời anh hùng Nguyễn Huệ. Trong trích đoạn, danh xng tôn quý: vua đợc
dùng cho cả Nguyễn Huệ và Lê Chiêu Thống tuy nhiên chỉ Nguyễn Huệ với tôn
hiệu Vua Quang Trung mới đợc miêu tả nh là biểu tợng cho tầm vóc và sức mạnh

của dân tộc.
Hãy lắng nghe những lời dụ của vua Quang Trung đã đợc các tác giả của
Hoàng Lê nhất thống chí trang trọng ghi lại:
-"Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phơng Nam,
phơng Bắc chia nhau mà cai trị".
10
"Đời Hán có Trng Nữ Vơng, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,
đời Nguyên có Trần Hng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi
nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng ngời, dấy nghĩa quân, đều chỉ
đánh một trận là thắng...".
-Nay ngời Thanh lại sang, mu đò lấy nớc Nam ta đặt làm quận huyện, không
biết trông gơng mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xa.
Trong lời dụ này của vua Quang Trung nh âm vang lời tuyên ngôn về độc lập
chủ quyền dân tộc từ đó mà tuyên cáo trớc sự thất bại tất yếu của kẻ thù đã đợc Lý
Thờng Kiệt khẳng định trong Nam quốc sơn hà:
Nam quốc sơn hà Nam đế c
Tiệt nhiên định phận tại thiên th
Nh hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại h.
nh âm vang lời khẳng định đầy kiêu hãnh : "Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây
nền độc lập" trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Sự vang vọng ấy khiến lời
dụ của vua Quang Trung đã trở thành lời của sông núi, của truyền thống yêu nớc,
ý chí tự lập tự cờng của dân tộc Việt Nam. Trớc lời dụ này mới chỉ có Nguyễn Huệ
với t cách một thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn. Với lời dụ này ta thấy hiển hiện
trong trang văn hình ảnh của vua Quang Trung nh là đại diện, biểu tợng cho hồn
thiêng, ý chí của dân tộc. Nếu nh ở đâu đó trong tác phẩm, các nhà văn còn lu
luyến với vua Lê thì ở đây khi ghi lại những lời dụ này họ đã thoát khỏi sự
ràng buộc chặt hẹp của quan điểm chính trị để khắc hoạ thành công vẻ đẹp của vua
Quang Trung nh là biểu tợng cho sự hội tụ và tiếp nối sức mạnh, khí phách của
dân tộc.

Với tầm vóc ấy của mình, vua Quang Trung hiện lên trong trích đoạn với một
sự tự tin và tầm nhìn chiến lợc thật xa rộng. Chính sử chép lại rằng : quân Thanh
vào nớc ta, kể cả dân phu, lên tới 20 vạn. Tôn Sĩ Nghị lại là một danh tớng của
triều Thanh. Thế nhng, trớc khi lâm trận, vua Quang Trung nh đã nắm chắc phần
thắng trong tay, thậm chí là chiến thắng thần tốc. Trong đoạn trích, hai lần nhà vua
khẳng định điều này với các tớng lĩnh của mình. Lần thứ nhất, với lựong định:
"Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phơng lợc tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng
qua mơi ngày có thể đuổi đợc ngời Thanh". Lần thứ hai là ngay sau tiệc khao
quân với mốc thời gian cụ thể hơn và vì thế mà càng thể hiện sự tự tin hơn bao giờ
11
hết: "Đến tối 30 Tết lập tức lên đờng, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành
Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngơi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác !".
Sự tự tin này cho thấy tầm vóc của ngời anh hùng : đứng cao hơn mọi biến cố
lịch sử, định trớc đợc kết quả sẽ xảy ra nh một tất yếu không thể khác. Ngời đọc còn
bắt gặp một lần nữa, trong một đaọn văn ngắn, sự tự tin của vua Quang Trung khi
ông nói : "Nhng nghĩ chúng là nớc lớn gấp mời nớc mình, sau khi bị thua một
trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mu báo thù. Nh thế thì việc binh đao không bao giờ
dứt [...]. Đến lúc ấy chỉ có ngời khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải
Ngô Thì Nhậm thì không ai làm đợc". Thật thú vị. Cuộc chiến còn cha xảy ra nhng
đã bàn tới những vấn đề hậu chiến. Trong lời nói của nhà vua có cái điềm đạm,
ung dung của một ngời đã tiên liệu và hoàn toàn tự tin vào sự tiên liệu, sắp đặt của
mình. Lời bàn này, một lần nữa, cho thấy vua Quang Trung hoàn toàn tin chắc vào
sự chiến thắng của mình. Mặt khác, qua lời bàn này, ngời đọc còn thấy đợc tầm
nhìn xa rộng của ngời anh hùng: thấy trớc những việc cần phải giải quyết trong tơng
lai. ở đây, vua Quang Trung không chỉ đợc khắc họa về thiên tài quân sự mà còn nh
một nhà chính trị, một nhà ngoại giao kiệt xuất. Chỉ trong một chi tiết nhng đã tái
hiện cùng lúc những phẩm chất phi thờng của ngời anh hùng!
Lẽ đơng nhiên, các nhà văn trong Ngô gia văn phái sẽ không thể bỏ qua vẻ đẹp
của vua Quang Trung nơi chiến trận. Trung thành với lịch sử, hồi thứ mời bốn đã
làm hiện lên thật sinh động vẻ đẹp của một thiên tài quân sự. Đấy là sự quyết đoán,

thần tốc để giữ bí mật tác chiến khi đánh đồn Gián và tiêu diệt, bắt sống toàn bộ
toán quân Thanh do thám khiến cho những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi, Ngọc
Hồi đều không hay biết gì cả. Đấy là khả năng tranh thủ sự bất ngờ và cách h trơng
thanh thế khi đánh đồn Hà Hồi: vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, ...lặng lẽ vây
kín làng ấy rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hởng
ứng, nghe nh có hơn một vạn ngời. Sức mạnh của cách công đồn ấy đã giúp quân
đội Tây Sơn không tốn một mũi tên mà kẻ đich phải ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin
ra hàng. Đặc biệt hùng tráng là cảnh tấn công đồn Ngọc Hồi. Trên nền của súng
đạn, của khói lửa mù trời là hình ảnh vua Quang Trung cỡi voi đi đốc thúc, cùng
với ba quân xung trận. Mỗi cảnh xung trận là một vẻ đẹp khác nhau nhng đều tập
trung khắc họa hình ảnh vua Quang Trung nh là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.
Điệp đi điệp lại trong toàn đoạn văn là những hình ảnh của vua Quang Trung đợc
đặc tả nh một điểm nhấn đầy hùng tráng: Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi
theo..., Vua Quang Trung lại truyền..., Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội
12
khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trớc, Trớc đó, vua Quang Trung đã sai
một đạo quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên....
3. Phần cuối của đoạn trích dành cho những miêu tả trực tiếp về sự tháo chạy/
bỏ chạy của quân Thanh và vua tôi nhà Lê. Hiện tợng này đợc miêu tả nh một
phản ứng dây chuyền, càng ngày càng trở nên cuống quýt, hoảng hốt. Bắt đầu là
Tôn Sĩ Nghị: hoảng hốt đến độ "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, ngời không
kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trớc qua cầu phao, rồi nhằm
hớng bắc mà chạy". Bấy nhiêu trạng thái, bấy nhiêu hành động chỉ đợc gói lại
trong một câu văn đủ thấy sự hoảng hốt đến cùng cực của viên danh tớng nhà
Thanh. Tiếp sau đó là đám quân mất tớng: "tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy
nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống
nớc, đến nỗi nớc sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn, không chảy đợc nữa". Thảm
hại nhất là hình ảnh vua Lê: những kẻ chậm chân nhất và vì thế cuống quýt nhất,
mất hết cả thể diện và xiết bao bạc nhợc trên con đờng bỏ chạy: cớp thuyền đánh
cá, chạy theo lối tắt, nhìn nhau than thở, oán giận chảy nớc mắt.

Những chi tiết nói trên là trung thực, tờng tận theo tiêu chí của sử học. Nhng
Hoàng Lê nhất thống chí còn là một tác phẩm văn học. Bắt gặp ở đây thủ pháp tá
khách vấn chủ (mợn khách để nói chủ) rất điêu luyện. Sự tháo chạy của bọn cớp
nớc và bán nớc càng thảm hại bao nhiêu thì càng tạo ra sự tơng phản từ đó tô đậm
sức mạnh của Quang Trung và quân đội Tây Sơn. ở các phần trớc, sức mạnh này
đợc khắc hoạ trực tiếp qua các cuộc giao chiến. Đến đây, dù Quang Trung và đội
quân của ông cha hề xuất hiện, nhng sức mạnh của họ đã khiến kẻ thù hoàn toàn
tan rã. Rồi nữa, ngời đọc hoàn toàn có thể sắp xếp thành từng cặp tơng phản hết
sức thú vị: sự thần tốc của vua Quang Trung/ sự hốt hoảng, cuống cuồng của Tôn
Sĩ Nghị; sự uy dũng, hào hùng của vua Quang Trung/ sự bạc nhợc hèn đớn của vua
Lê; cảnh quân Thanh bị nghĩa quân Tây Sơn tiêu diệt nơi chiến trờng/ cảnh chúng
vì rút chạy, đứt cầu phao mà chết...Sự tơng phản ấy tự nó đã nói lên, nói thật hùng
hồn về tất cả: sự tôn trọng hiện thực, tinh thần và niềm tự tôn dân tộc, cái nhìn ng-
ỡng vọng đối với ngời anh hùng dân tộc...Nghệ thuật tơng phản chính là căn
nguyên tạo nên bút lực đầy hào hùng, d ba của các nhà văn họ Ngô trong hồi thứ
14 đậm chất sử thi này.
Tôi muốn dừng lại chi tiết hơn với một miêu tả mà chắc không phải ngẫu
nhiên các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã nhắc đến một cách rất tờng tận:
trên đờng chạy theo Tôn Sĩ Nghị, vua Lê đợc một ngời thổ hào cứu giúp, đa về
nhà, giết gà làm cơm thết đãi. Trong cảnh bôn tẩu ấy, ngời ta bắt gặp một chi tiết:
13

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×