Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Công tác quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.97 KB, 101 trang )

Mở đầu
BHXH được coi là một chính sách cơ bản trong hệ thống chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chăm lo đời sống của người lao động góp
phần ổn định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội, tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới
đất nước.
Để chính sách BHXH thực sự trở thành chính sách lớn như mục tiêu đã
đề ra khi xây dựng chính sách thì Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề
quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối
với BHXH, chi trả BHXH để làm cho chính sách BHXH thống nhất, hài hoà
với các chính sách xã hội khác.
Vì vậy trong thời gian qua, chính sách BHXH luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng công
cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Trước sự quan tâm đó nên chính sách
BHXH ở Việt Nam có thể nói là được thực hiện sớm nhất so với các nước
trong khu vực với việc ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 của Chính
Phủ ấn định những chế độ BHXH đối với công nhân. Và cũng từ đó cơ chế
BHXH dần được bổ sung, cải cách ngày càng hoàn thiện với quy luật phát
triển của xã hội.
Và với việc ban hành điều lệ BHXH mới( Nghị định 12/CP ngày
26/1/1995 của Chính phủ; nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 ) chính sách
BHXH Việt Nam đã trở thành một cơ chế thống nhất bảo vệ quyền lợi cho
người lao động, hoà nhập vào nền kinh tế thị trường mà vẫn giữ vững và phát
huy truyền thống nhân ái của dân tộc ta.
Đây là kết tinh của quá trình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta: Luôn
luôn thể hiện quan điểm chính của chính sách BHXH nước ta là vì con người.
Và những thành tựu thu được trong những năm đổi mới của nước ta là do có
sự đóng góp tích cực của công tác quản lý Nhà nước do Đảng ta lãnh đạo.
Qua những thành tựu to lớn của BHXH nước ta đã khẳng định được rằng
công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này là không thể thiếu và ngày
càng trở nên quan trọng để đưa sự nghiệp BHXH nước ta ngày càng hoàn


thiện và phát triển hơn.

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

1


Nhận thức được vấn đề tầm quan trọng và tính cần thiết của vấn đề trên,
cùng với sau một thời gian học tập được trang bị cơ sở lý luận và có điều kiện
nghiên cứu tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập, em đã tìm hiểu, nghiên
cứu và chọn đề tài: “ Công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt
Nam hiện nay”. Vấn đề này hiện nay đang được nhiều bộ, ngành quan tâm và
nghiên cứu, nhưng đối với bản thân em- là một cử nhân kinh tế thì việc
nghiên cứu vấn đề này đã thực sự trang bị thêm cho em nhiều kiến thức
quan sâu hơn về chuyên ngành mà em đang học. Và em xin được trình
bày vấn đề này như sau:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề thực tập bao gồm
ba phần:
Phần I. Lý luận chung về BHXH và quản lý nhà nước về chi trả BHXH
Phần II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt
Nam hiện nay
Phần III. Một số định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giao hướng
dẫn Tô Thị Thiên Hương, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn thể cơ quan
BHXH quận Ba Đình đã hỗ trợ em về tài liệu nghiên cứu để em hoàn thành
chuyên đề này.

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A


2


Chương I. lý luận chung về BHXH và quản lý nhà nước về chi
trả BHXH
I.

Lý luận chung về BHXH

1.

Sự cần thiết khách quan của BHXH

Để có của cải vật chất con người phải lao động, để lao động con người
cần phải có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc sống
không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ, khả năng
lao động hoặc may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc
tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược lại
không mấy ai tránh khỏi rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, tai nạn, già yếu, chết
hoặc công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện
sống, sinh hoạt và các tác nhân xã hội khác.
Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà
mất đi. Trái lại còn tăng thêm, thậm chi còn xuất hiện nhu cầu mới. Bởi vậy,
muốn tồn tại con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách
để giải quyết. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho
bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải
được sự bảo trợ của cộng đồng, tập thể, tổ chức, cơ quan Nhà nước và xã hội.
Sự bảo trợ này không thể bằng lời nói, bằng sự động viên thăm hỏi chung
chung mà phải bằng nguồn vật chất cần thiết, nhằm phục hồi nhanh chóng sức
khoẻ, duy trì sức lao động của xã hội góp phần giảm bớt khó khăn cho bản

thân và gia đình người lao động khi gặp khó khăn về thu nhập trong các
trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất
việc làm hoặc khó khăn khi về già… Tất cả những cái đó trở thành đe doạ đối
với cuộc sống bình thường của người lao động. Tình cảnh này đã đưa đến
những hành động tập thể, phát huy truyền thống tương thân, tương ái của giới
chủ, giới thợ và của Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực lượng công
nhân cần thiết cho xã hội.
Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề giữa giới
chủ và giới thợ, cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội, cùng với trình
độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của người lao động ngày càng nâng
cao, cách chủ động đối phó và khắc phục khi không may xảy ra rủi ro ngày
càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì tranh chấp
cũng như việc giải quyết những khó khăn được giải quyết một cách ổn thoả
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

3


và có hiệu quả tốt nhất. Đó là cách giải quyết chung nhất cho toàn xã hội loài
người trong quá trình phát triển của đất nước.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành
viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia vào hệ thống
BHXH; cần thiết phải tiến hành BHXH cho người lao động. Vì vậy, BHXH
trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động; và được thừa nhận là một
nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như
trong tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc họp thông qua
ngày 10-12-1948 đã nêu: “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã
hội có quyền được hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn
các quyền về kinh tế- xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do
phát triển con người”. Vậy, BHXH có thể định nghĩa như sau:

BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất và được
thực hiện khá sớm ở nhiều nước trên thế giới. Cho đến nay hầu như chưa có
một định nghĩa chính thống nào về BHXH. Vì vậy, căn cứ vào những đặc
điểm nổi bật của BHXH có thể đưa ra một định nghĩa như sau: “ BHXH là sự
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp
những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao
động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
Theo tổ chức lao động quốc tế ( ILO): “ BHXH là sự bảo vệ của xã hội
đối với tất cả các thành viên của mình trước những khó khăn về kinh tế xã hội
do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây khó khăn bởi ốm đau, mất
khả năng lao động, tuổi già và chết, cung cấp y tê và trợ cấp cho các gia đình
đông con”.
2.

Bản chất của BHXH

BHXH ra đời vào những năm đầu của thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và
nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Cho
đến nay, dù đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới nhưng nhìn chung
bản chất của các chính sách BHXH ở các nước là tương tự nhau và được thể
hiện qua các nội dung sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội có nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, có mối
quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Nền kinh tế
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

4



càng phát triển thì BHXH càng đa dạng hơn, hoàn thịên hơn. Vì thế khi nói
kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế
của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh từ mối quan hệ ba
bên: bên tham gia BHXH, bên được BHXH và bên được BHXH. Bên tham
gia BHXH chỉ có thể là người lao động hoặc cả người lao động và người sử
dụng lao động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi
có đầy đủ điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể chỉ là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan
của con người như: ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Hoặc có
thể là những trường hợp xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
… Đồng thời có thể là những biến cố xảy ra trong quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động có thể bị mất khi gặp phải những
biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tập trung hoặc tồn
tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu,
ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà Nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Mục tiêu này được cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động một khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu cho họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật cho người lao động
+ Xây dựng điều kiện sống, đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của tuổi già, người tàn tật và trẻ em.
3.

Vai trò của BHXH


3.1. Đối với người lao động
Với tư cách là một chính sách kinh tế- xã hội của đất nước, BHXH góp
phần trợ giúp cá nhân những người lao động gặp phải những rủi ro, bất hạnh;
khắc phục khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, những
điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác,

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

5


tạo niềm tin cho họ vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào tăng năng
suất lao động cho các cơ quan, xí nghiệp và toàn xã hội.
3.2. Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động
dịch vụ, BHXH sản xuất ra những dịch vụ bảo hiểm cho người lao động, một
loại dịch vụ mà bất cứ người lao động nào cũng cần đến.
Thứ hai, BHXH góp phần tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng
suất lao động cá nhân cũng như nâng cao năng suất lao động xã hội.
Thứ ba, quỹ BHXH với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ có tác
động mạnh đến hệ thống tài chính ngân sách nhà nước, tới hệ thống tín dụng
ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho quỹ tiền tệ BHXH là phải bảo tồn
và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có đầu tư phát
triển tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH. Việc đầu tư khoản tiền nhàn rỗi của quỹ có
tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, tạo công ăn
việc làm cho người lao động, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước,
đồng thời tăng tổng sản phẩm quốc nội nói chung và thu nhập cho bản thân
người lao động nói riêng.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công
cụ phân phối lại thu nhập cho những người tham gia BHXH. Sự phân phối thu

nhập này được tiến hành qua hai cách:
- Phân phối theo chiều ngang giữa những người khoẻ mạnh và những
người già, người đang làm việc và người về hưu, người trẻ tuổi và người lớn
tuổi, giữa nam và nữ, giữa người đang hưởng trợ cấp và người chưa được
hưởng trợ cấp.
- Phân phối theo chiều dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh
tế- xã hội. Đó là thu nhập giữa những người có thu nhập cao và những người
có thu nhập thấp.
4.

Đối tượng của BHXH
* Đối tượng được BHXH

Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo thu nhập bị
giảm hoặc mất cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu,.. Chính vì
vậy, đối tượng được BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

6


giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của
người lao động tham gia BHXH. Ngoài ra, hiện nay hệ thống còn có thêm cả
BHYT, có thêm đối tượng được BHXH là sức khỏe của những người tham gia
BHYT.
* Đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tê- xã hội của mỗi nước mà
đối tượng tham gia này có thể là tất cả hoặc chỉ một bộ phận người lao động

nào đó.
Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao
động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH dưới sự bảo trợ của
nhà nước. Người sử dụng lao động góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ
đối với người lao động mà họ sử dụng, còn cơ quan BHXH nhận đóng góp
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động là trách nhiệm quản lý,
sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động.
Mối quan hệ này chính là đặc trưng riêng của BHXH. Nó quyết định sự tồn
tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
5.

Chức năng của BHXH
BHXH có các chức năng chủ yếu sau:

- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiêm vụ,
tính chất, cơ chế tổ chức và hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ là người lao động mà còn có cả người
sử dụng lao động. Các bên tham gia đóng góp hình thành nên quỹ BHXH,
quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho một số người tham gia BHXH khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiềm tỷ lệ
nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông
bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều
ngang.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản
xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A


7


- Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động va người sử
dụng lao động, giữa người lao động với xã hội.
6.

Tính chất của BHXH

BHXH là chính sách không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội của
mỗi quốc gia, nó gắn liền với đời sống người lao động. Do vậy, BHXH có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian
và không gian.
- BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch
vụ.
7.

Một số nguyên tắc của BHXH

BHXH là một chính sách không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội
của mỗi quốc gia, nó gắn lion với đời sống của người lao động và cả người sử
dụng lao động. Một hệ thống BHXH muốn hoạt động thành công và có hiệu
quả thì phải đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc sau:
- Mọi người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm đều có quyền hưởng BHXH.
- Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH cho
người lao động, người lao động phải có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình.

- BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành
quỹ BHXH độc lập, tập trung.
- Nguyên tắc quan trọng trong BHXH là phải lấy số đông bù số ít.
- Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp
ứng nhu cầu BHXH
- Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm,
nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao
động.
- Kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện.
- Bảo đảm tính thống nhất của BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời
phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

8


- BHXH phải được phát triển từng bước phù hợp với điều kiện kinh tếxã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
Mỗi nguyên tắc trên không tồn tại và phát huy tác dụng một cách đơn
lẻ, mà chúng vận dụng trong một hệ thống chặt chẽ. Bởi vậy, cần vận dụng
chúng một cách tổng hợp và hợp lý vào mỗi vấn đề cụ thể thì mới có thể đạt
được hiệu quả như mong muốn.
8.

Những quan điểm cơ bản về BHXH

Thứ nhất, chính sách BHXH là bộ phận cấu thành và quan trọng nhất
của chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
Mục đích chủ yếu của chính sách này là nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động và gia đình họ khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Thực chất đây là một

loại chính sách đối với con người, nhằm đáp ứng những quyền và nhu cầu
hiển nhiên của con người đó là : nhu cầu về an toàn việc làm, an toàn lao
động, an toàn xã hội,… Chính sách BHXH thể hiện trình độ văn minh, tiềm
lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong
một chừng mực nhất định, nó thể hiện tính ưu việt của mỗi chế độ xã hội. Nếu
tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH thì đó sẽ là động lực to lớn phát
huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tếxã hội của đất nước.
Thứ hai, người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động ở đây thực chất là các tổ
chức, các doanh nghiệp, cá nhân thuê mướn lao động. Người sử dụng lao
động phải có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực
hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng theo
đúng pháp luật quy định.
Thứ ba, người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối
với BHXH, không phân biệt tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp,..
Mọi lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn
nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng và quyền lợi hưởng
trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về
BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội, vào mối quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi nền sản xuất phát

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

9


triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham
gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
Thứ tư, mức trợ cấp phụ thuộc vào các yếu tố :
+ Tình trạng mất khả năng lao động

+ Tiền lương lúc đi làm của người lao động
+ Tuổi thọ bình quân của người lao động
+ Điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn tiền lương
lúc đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu của người
lao động. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH giữa những người lao động tham gia
BHXH.
Thứ năm, Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ
máy thực hiện chính sách.
BHXH trước tiên là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nó
vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội. Vì
vậy, vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng. Thực tế đã cho thấy nếu không
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và
người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên
trong BHXH bị phá vỡ.
Thứ sáu, BHXH thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định
chính sách, đảm bảo vật chất đến xét trợ cấp chế độ cho người lao động,.. Do
vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn về mức
độ và phạm vi. Nhà nước sử dụng những công cụ chủ yếu như pháp luật, bộ
máy tổ chức để thực hiện quản lý BHXH. Nhìn chung ở hầu hết các nước trên
thế giới việc quản lý vĩ mô BHXH được Nhà nước giao cho Bộ lao động hoặc
Bộ xã hội trực tiếp điều hành.
9.

Quỹ BHXH và mục đích sử dụng

9.1. Nguồn quỹ BHXH
* Khái niệm
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân

sách Nhà nước. Quỹ là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

10


gia bảo hiểm nhằm mục đích chi trả trợ cấp BHXH và đảm bảo cho hoạt động
cho bộ máy BHXH. Mục tiêu cơ bản và lâu dài của quỹ BHXH là hoàn thiện
và đảm bảo chính sách BHXH cho tất cả mọi người lao động. Chính vì vậy,
công tác xác lập, nâng cao vị thế của quỹ ; bảo đảm sự phát triển của quỹ
trong khuôn khổ pháp luật ; bảo đảm sự an toàn, tăng trưởng quỹ và sự tin cậy
của quỹ làm yên lòng người lao động tham gia BHXH, góp phần đắc lực đẩy
mạnh sự tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơ quan
BHXH và Nhà nước.

* Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện đóng góp ủng hộ,
lãi do đầu tư quỹ nhàn rỗi,…
Trên thế giới hiện nay, quỹ BHXH của các nước đều được hình thành
chủ yếu từ các nguồn trên. Tuy nhiên có sự khác nhau trong phương thức
đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia:
- Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử
dụng lao động hiện đang còn tồn tại hai quan điểm:
Thứ nhất, là phải căn cứ vào mức tiền lương cá nhân và quỹ lương của
cơ quan, doanh nghiệp.
Thứ hai, là phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được

cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
- Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao
động phải chịu toàn bộ mọi chi phí cho chế độ tai nạn lao động; Chính phủ trả
chi phí cho trợ cấp y tê và trợ cấp gia đình; các chế độ còn lại cả người lao
động và người sử dụng lao động phải cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng
nhau. Một số nước phải quy định khác, chính phủ bù thiếu cho quỹ hoặc chịu
toàn bộ chi phí quản lý BHXH,…
Bảng1: Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

11


Tên nước
CHLB Đức
CH pháp
Indônêxia
Philipin
Malaxia

chính phủ
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Chi toàn bộ
chế độ ốm
đau, thai sản

Tỷ lệ đóng góp của người lao

động so với tiền lương(%)
14,8-18,8
11,82
3.0
2,85-9,25
9,5

Tỷ lệ đóng góp của người lao
động so với quỹ lương(%)
16,3-22,6
19,68
6,5
6,85-8,05
12,75

Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới
9.2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng cho hai mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí quản lý sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế( ILO) quỹ được sử dụng
để chi trả trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102
tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ đó là:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ câp tuổi già
4. Trợ cấp thất nghiệp
5. Trợ câp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ

8. Trợ cấp tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng).
Chín chế độ trợ cấp này hình thành nên một hệ thống chế độ BHXH. Tuy
nhiên, tuỳ vào điều kiện kinh tế- xã hội mà mỗi quốc gia tham gia thực hiện
các chế độ ở các mức độ khác nhau, nhưng theo ILO thì ít nhất mỗi quốc gia
cũng phải thực hiện 3 chế độ và trong đó bắt buộc phải có một trong 5 chế độ
sau: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp,
trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống. Mỗi chế độ trong hệ thống

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

12


trên khi xây dựng đều phải dựa trên cơ sở kinh tế- xã hội; tài chính; thu nhập;
tiền lương; v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến
các yếu tố như: sinh học, tuổi thọ trung bình của quốc gia, nhu cầu dinh
dưỡng, xác suất tử vong,..
II. Quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH
1.

Khái niệm

1.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH
* Quản lý nhà nước
Hiểu theo nghĩa rộng thì quản lý nhà nước là việc thực hiện quyền lực
nhà nước về chính trị, kinh tế và hành chính để quản lý công việc quốc gia.
Nói một cách khác đó là việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước trong việc
quản lý các nguồn lực xã hội và kinh tế phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Theo nghĩa này quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước trong mối quan hệ tương quan của các nhân tố trong xã hội
để quản lý có hiệu lực, hiệu quả các công việc của đất nớc. Theo nghĩa hẹp thì
việc quản lý tổ chức thực thi quyền hành pháp một cách dân chủ để quản lý
các hoạt động kinh tế của đất nước, được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước được đề cập đến trong đề tài này là quản lý nhà nước
được hiểu theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước vừa là hoạt động chấp hành vừa
là hoạt động điều hành. Chấp hành là việc thực hiện trên thực tế các văn bản
luật của nhà nước. Điều hành là chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị
quản lý. Trong hoạt động điều hành, cơ quan quản lý có thể áp dụng các hình
thức tổ chức có lợi trực tiếp và các hình thức ít mang tính pháp lý khác. Đặc
trưng của hoạt động điều hành là các văn bản dưới luật mang tính chất pháp lý
thì quyền lực được đảm bảo bằng khả năng áp dụng cưỡng chế, chủ yếu là các
văn bản cụ thể.
* Quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH
Quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH là quá trình tác động và
điều hành của nhà nước đối với việc hình thành sử dụng quỹ BHXH nhằm
đảm bảo cho việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH đúng mục đích, đúng
quy định trong việc thực hiện tốt chính sách BHXH. Đồng thời đảm bảo an
toàn tài chính cho BHXH, đảm bảo chi trả đúng chế độ, đúng đối tượng hưởng theo quy định của nhà nước.
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

13


1.2. Quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH
BHXH là chế độ bồi thường kinh tế được xây dựng trên cơ sở sự hỗ trợ
lẫn nhau của những người cùng tham gia bảo hiểm về kinh tế- xã hội. BHXH
là những chế độ và biện pháp mà Nhà nước hoặc xã hội áp dụng để trợ giúp
vật chất cho các thành viên trong xã hội khi họ già yếu, mất khả năng lao

động và có những khó khăn đặc biệt khác.
Xét về góc độ tài chính thì BHXH là hình thức chủ yếu để tổ chức hình
thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung để cung cấp đảm bảo vật chất cho
những người già yếu, mất khả năng lao động và những người có khó khăn đặc
biệt khác.
Bất kỳ nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự nghèo
đói của những người dân do ốm đau, tai nạn, thất nghiệp…. gây ra không phải
do trách nhiệm của bản thân họ mà còn phải là trách nhiệm chung của toàn
xã hội; do đó để giải quyết vấn đề này thì không phảI chi do mỗi người dân
mà phải có cả Nhà Nước.
BHXH là một chính sách kinh tế xã hội lớn và quan trọng của mỗi quốc
gia. Vì vậy, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động của
BHXH. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của BHXH, nhà
nước luôn là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất tới định hướng phát triển
của ngành.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, hoạt động BHXH không ngừng
phát triển cả về nội dung và hình thức tổ chức thực hiện theo hướng đa dạng
hoá, xã hội hoá. Do vậy, vai trò của nhà nước ngày càng tăng lên và luôn giữ
vai trò quan trọng trong các hoạt động của BHXH. Thông qua các chức năng
lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhà nước xây dựng các chính sách, pháp luật
về BHXH đông thời thực hiện định hướng quản lý và điều hành các hoạt động
BHXH trong khuôn khổ pháp luật.
Trong đó, chức năng quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH cũng
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vì: chi trả BHXH cho ngời lao động là một
vấn đề quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH của mỗi quốc gia.
Hoạt động này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của ngời tham gia BHXH
sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp BHXH của mình. Quản lý nhà nước về
chi trả BHXH là nhằm xây dựng những chính sách, chế độ, mức hưởng phù
hợp cho người lao động. Đồng thời cũng đảm bảo công tác chi trả được thực
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A


14


hiện đúng, kịp thời và chính xác,… để chính sách BHXH thực sự trở thành
chính sách an sinh xã hội lớn của đất nước.
Vậy có thể định nghĩa công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH như
sau: Quản lý Nhà nước về chi trả BHXH là sự tác động, điều hành của Nhà
nước trong việc thực hiện chi trả BHXH cho người lao động nhằm bảo đảm
cho công tác chi trả các chế độ BHXH được thực hiện công bằng, kịp thời và
hiệu quả, đảm bảo được cuộc sống của người lao động khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập khi gặp rủi ro hoặc mất khả năng lao động.
2.

Mục tiêu của công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH

Cũng như các hoạt động quản lý khác, công tác quản lý nhà nước về chi
trả BHXH được khởi đầu với việc xác định mục tiêu. Đây là căn cứ đầu tiên
của quá trình quản lý.
Hơn nữa, BHXH là một chính sách an sinh xã hội lớn nhằm mục đích
bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
giảm hoặc mất khả nămg lao động, mất việc làm. Do đó, trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về chi trả BHXH, các mục tiêu chỉ ra phương hướng, yêu cầu số
lượng cho hoạt động quản lý nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản
trong công tác chi trả BHXH. Như vậy, quản lý nhà nước về công tác chi trả
BHXH là nhằm các mục tiêu sau:
- Đảm bảo và ổn định thu nhập cho người lao động khi họ gặp những
biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Làm cho công tác chi trả BHXH thực sự
có ý nghĩa và cần thiết đối với người lao động khi họ gặp khó khăn.
- Đảm bảo sự công bằng trong công tác chi trả BHXH cho ngời lao động

- Đảm bảo cho công tác chi trả phảI kịp thời, chính xác, đúng đối tượng,
đúng chế độ chính sách BHXH
- Đảm bảo sự cân đối của quỹ tài chính BHXH
- Tránh tình trạng trục lợi BHXH
3.

Đối tượng của quản lý nước về chi trả BHXH

3.1. Cơ quan quản lý nhà nước về chi trả BHXH
BHXH trên thế giới đã có sự phát triển từ lâu đời và đa dạng. Các nước
có bộ máy chính trị khác nhau thì có mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về
BHXH cũng như quản lý nhà nước về chi trả BHXH cũng khác nhau. Nhìn
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

15


chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được
Nhà nước giao cho Bộ Lao Động hoặc Bộ Xã Hội trực tiếp điều hành. Bộ tài
chính kiểm soát hoạt động tài chính, Bộ Y Tế giám sát chăm sóc y tế. Hoạt
động chuyên trách về quản lý nghiệp vụ thường có một hệ thống riêng. Và
công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH cũng do Bộ Lao Động Thương
Binh và Xã Hội hoạch định chính sách chi trả, Bộ Tài Chính quản lý tài chính
chi trả BHXH, các bộ ban nghành có liên quan như bộ Quốc Phòng, bộ Công
An, Bộ Nội Vụ,…cùng nhau thực hiện chức năng hướng dẫn, kiểm tra công
tác thực hiện chi trả BHXH cho người lao động.
3.2. Đối tượng bị quản lý
Các cơ quan quyền lực nhà nước về BHXH, chi trả BHXH thực hiện
chức năng quản lý nhà nước của mình bằng cách chi phối, tác động lên các
chủ thể như : cơ quan BHXH các cấp , đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội,

đối tượng hưởng BHXH- đó chính là đối tượng bị quản lý nhà nước về chi trả
BHXH.
- Cơ quan BHXH các cấp : Có nhiệm vụ nhận sự đóng góp của người lao
động và người sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để
thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH: Là người lao động, chủ sử dụng lao động
tham gia vào hệ thống BHXH. Người lao động tham gia vào hệ thống BHXH
là nhằm bảo hiểm cho mình; người sử dụng lao động tham gia vào hệ thống là
mục đích bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Tuỳ vào điều
kiện phát triển kinh tế- xã hội cụ thể của mỗi nước mà đối tượng này có thể là
tất cả hoặc một bộ phận người lao động nào đó.
- Đối tượng hưởng BHXH: là người lao động và thân nhân của họ khi bị
biến động giảm hoặc mất thu nhập do người lao động bị giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân: ốm đau, tai nạn, già yếu,..
Tất cả các đối tượng trên đều chịu sự quản lý của các cơ quan Nhà nước
trong quá trình thực hiện BHXH, chi trả BHXH.
4.

Nội dung của công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH

BHXH là một chính sách lớn của đảng và nhà nước, việc thực hiện tốt
chính sách BHXH có ý nghĩa to lớn góp phần đảm bảo cho sự phát triển sản
xuất, đảm bảo công bằng, ổn định chính trị, trật tự an toàn và tiến bộ xã hội.
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

16


Do đó, công tác quản lý nhà nớc về BHXH nói chung, công tác quản lý nhà
nước về chi trả BHXH nói riêng có vai trò rất lớn trong việc thực hiện tiêu

trên. Vậy công tác quản lý nhà nớc trong chi trả BHXH cần phải thực hiện
một số nội dung sau:
4.1. Xây dựng dự án luật, các văn bản pháp quy về thực hiện chi trả
BHXH
Luật là công cụ quản lý chủ yếu của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực, mỗi
ngành nghề trong xã hội. Và BHXH cũng vậy, cần phải có luật về BHXH, các
văn bản pháp quy về BHXH. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi chính sách
chi trả BHXH thì sẽ có một số bất cập nảy sinh, đòi hỏi phải được điều chỉnh
bằng những chế định pháp luật rõ ràng, cụ thể có tính hiệu quả cao.
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nớc mà luật pháp về BHXH có
những quy định khác nhau.Có nước ban hành một hoặc nhiều đạo luật riêng
vê BHXH. Có nước lại ban hành luật BHXH nằm trong các loại luật như:
Luật lao động, luật công chức, luật dân sự….Ngoài luật về BHXH, ở nhiều
nước còn có các văn bản do nhà vua, tổng thống, thủ tướng ban hành các văn
bản pháp quy về BHXH. Chẳng hạn như ở nước ta: Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
ban hành các sắc lện 76/Sl, 77/SL ấn định chế độ BHXH đối với công nhân
viên chức và lực lượng vũ trang nhân dân và một số văn bản do Thủ Tướng
ban hành như các quyết định về việc thực hiện BHXH,…v.v
Và trong công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH thì việc xây dựng,
ban hành các văn bản pháp quy về chi trả là rất cần thiết và quan trọng để nhà
nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
4.2. Hoạch định chính sách chi trả BHXH
Việc hoạch định chính sách chi trả BHXH là khâu rất quan trọng trong
quản lý nhà nước về chi trả BHXH. Trong công tác hoạch định chính sách chi
trả BHXH thì tính toán mức trợ cấp cho các chế độ, xác đinh đối tượng hưởng, thực hiện chi trả trợ cấp BHXH. Tiếp đến là phạm vi các chế độ hưởng:
ốm đau, thai sản, …sau đó là mức độ, hình thức đảm bảo vật chất: mức độ trợ
cấp; điều kiện trợ cấp BHXH.
Trong khi xây dựng mức chi trả các chế độ BHXH cần phải căn cứ được
tính toán dựa trên nhiều yếu tố cấu thành, nhưng yếu tố quan trọng nhất là
mức đóng của người lao động trong thời giant ham gia BHXH trước đó.


SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

17


Khi ban hành các chế độ cần xem xét những loại chế độ nào được trả
định kỳ thường xuyên vĩnh viễn, chi trả thường xuyên tạm thời, chi trả một
lần,.. Tuy nhiên, phần lớn các chế độ nên thực hiện chi trả định kỳ. Việc đưa
ra phương thức chi trả này là nhằm ổn định một cách tốt nhất cuộc sống cho
người lao động.
Việc hoạch định chính sách chi trả BHXH nó liên quan trực tiếp đến các
vấn đề quản lý, sử dụng lao động, thu nhập, thuế và bảo đảm xã hội. Bên cạnh
đó trong hoạch định chính sách chi trả BHXH nó còn phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, trong công tác hoạch định chính sách về chi trả BHXH phải
chú ý đến điều kiện sống của người lao động,phải đảm bảo cho họ có mức
sống tối thiểu, thoả mãn các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Để hệ thống các chính sách BHXH nói chung và chính sách chi trả
BHXH nói riêng ngày càng hoàn thịên và ngày càng thiết thực, đảm bảo được
cuộc sống cho người lao động thì việc quản lý nhà nước trong việc hoạch định
chính sách là cần thiết và quan trọng.

4.3. Xác định các chế độ trợ cấp BHXH phù hợp với các loại đối tượng
khác nhau
Việc xác định các loại chế độ trợ cấp BHXH là rất quan trọng trong
hoạch định và thực hiện chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Một chế độ
BHXH cũng như mọi quy định pháp lý đều phải được xây dựng một cách chặt
chẽ, tránh tình trạng lạm dụng, nhng đồng thời cũng không gây tổn hại lợi ích
vật chất, tinh thần của các bên tham gia BHXH. Ngoài ra khi nhà nước xây

dựng một chế độ chính sách về BHXH cũng cần phải quan tâm tới công ước
của liên hợp quốc. Để xây dựng một chế độ phải xác định các yếu tố sau: Đối
tượng hưởng BHXH, các trờng hợp được hưởng, điều kiện hưởng, mức trợ
cấp và thời hạn hưởng trợ cấp.
4.4. Nhà nước quy định việc sử dụng quỹ BHXH, điều kiện và mức trợ cấp
BHXH trong công tác chi trả BHXH
* Việc quy định sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành nhằm mục đích chi trả các chế độ trợ cấp
cho các chế độ BHXH. Để công tác chi trả BHXH được thực hiện tốt thì việc
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

18


nhà nước quy định mục đích sử dụng quỹ, công tác quản lý quỹ BHXH là rất
quan trọng. Công tác quản lý sử dụng quỹ tốt thì sẽ thiết lập được một nền tài
chính của BHXH an toàn, vững mạnh,… là cho công tác chi trả BHXH được
thực hiện tốt hơn.
Chính vì vậy mà nhà nước cần phải có những quy định pháp lý trong
việc sử dụng quỹ để chi trả cho người lao động hưởng trợ cấp BHXH.
* Xác định điều kiện hưởng và mức trợ cấp BHXH
Để xây dựng được điều kiện hưởng và mức trợ cấp BHXH, phải dựa trên
nhều căn cứ khác nhau, nhưng cơ sở chung nhất có thể gồm các nhu cầu cần
thiết trong trường hợp được BHXH và các cơ sở kinh tế xã hội. Đó là:
- Về việc xác định điều kiện hưởng thì phảI căn cứ vào: điều kiện sinh
học, điều kiện lao động và môi trường, điều kiện kinh tế- xã hội, điều kiện
quan hệ tài chính BHXH.
- Về việc xác định trợ cấp BHXH thì cơ sở làm căn cứ xác định trợ cấp
BHXH là: những chi phí cần thíêt để đáp ứng nhu cầu BHXH trong từng
trường hợp, mức độ giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao

động, điều kiện lao động và môI trường sống, mức thu nhập theo nghề nghiệp
của người lao động, mức sống của dân cư, mức và thời hạn đóng phí BHXH.
4.5. Nhà nước kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn công tác chi trả BHXH
Song song với các công tác trên thì công tác kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH của nhà nước là không thể
thiếu. Nhà nước phải thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra các
hoạt động chi trả BHXH đến tay người lao động.
Việc kiểm tra, thanh tra thực hiện của nhà nớc sẽ đảm bảo cho việc thực
hiện chi trả BHXH luôn luôn đợc thực hiện tốt: chi trả đúng chế độ, đúng đối
tượng tránh tình trạng gian lận, trục lợi, làm không đến nơi trong việc thực
hiện tổ chức chi trả BHXH. Đồng thời trong công tác quản lý nhà nớc cũng
phải có hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH đã đưa ra
trong đó có công tác chi trả BHXH.
Bên cạnh đó, công tác chi trả BHXH là rất phức tạp, nó gắn với quyền
lợi và lợi ích của ngời lao động khi họ đã tham gia đóng góp vào BHXH. Vì
vậy, thanh tra, kiểm tra các hoạt động chi trả BHXH là nhằm đảm bảo cho các
bên liên quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong công
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

19


tác chi trả BHXH, đồng thời cũng nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra thường bao gồm: thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện chi trả BHXH cho ngời lao động của cơ quan BHXH, các
trường hợp chi trả có đúng với quy định không, thanh tra hoạt động tài chính
của BHXH,… Đây là một hoạt động có tính chất thờng xuyên trọng quản lý
nhà nước về BHXH nói chung và quản lý nhà nước về công tác chi trả nói
riêng.
4.6. Nhà nước bảo hộ cho quỹ BHXH trong công tác chi trả BHXH
BHXH là một chính sách an sinh xã hội, không phải vì mục đích sinh

lời. Vì vậy, ngoài quỹ BHXH được dùng để chi trả BHXH thì còn có sự bù
thiếu của ngân sách nhà nước. Việc nhà nước bảo hộ cho quỹ BHXH sẽ tạo
điều kiện để công tác chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động được đảm bảo
hơn, làm cho người lao động yên tâm hơn.
Sự bảo hộ, bảo trợ của nhà nước cho quỹ thể hiện ở một số điểm sau:
đảm bảo giá trị của quỹ tài chính BHXH trong các tài khoản tại ngân hàng để
đảm bảo mức chi trả cho đối tượng hưởng BHXH, bảo đảm các trợ cấp
BHXH cho các đối tượng hưởng trước những biến động kinh tế- xã hội và
chính trị; bảo hộ cho quỹ tài chính BHXH trong hoạt động đầu tư bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Nhà nước ưu tiên cho quỹ tài chính được đầu tư phần nhàn
rỗi vào lĩnh vực an toàn, rủi ro thấp nhất và thuận lợi khi thu hồi vốn để kịp
thời chi trả các khoản chi BHXH khi có nhu cầu lớn; bảo trợ về tài chính cho
quỹ tài chính BHXH trong trường hợp quỹ bị thâm hụt vì những lý do bất khả
kháng… nhằm đảm bảo chi trả cho các chế độ BHXH luôn luôn kịp thời.
5.

Công cụ quản lý nhà nước về chi trả BHXH

Nhà nước với vai trò quản lý, điều hành xã hội, có rất nhiều công cụ để
thực hiện chức năng của mình. Đối với mỗi đối tượng quản lý khác nhau nhà
nước sử dụng các công cụ khác nhau. Các công cụ chủ yếu của nhà nước
nhằm quản lý chi trả BHXH là:
5.1. Văn bản pháp quy
Để thực hiện chức năng quản lý của mình thì luật là một công cụ quan
trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất; đặc biệt là trong chức năng quản lý
chi trả BHXH. Hệ thống các văn bản luật về BHXH nói chung và về công tác
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

20



chi trả nói riêng thường do chính phủ, bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội,
bộ Tài Chính,… ban hành. Bên cạnh đó thì còn có hệ thống các văn bản pháp
quy do nhà vua, tổng thống, thủ tướng, các bộ trưởng ban hành nhằm quản lý
công tác chi trả BHXH. Có thể nói các văn bản luật là các công cụ không thể
thiếu được trong công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác quản lý chi
trả BHXH nói riêng.
5.2. Hồ sơ đăng ký của người lao động
Hồ sơ đăng ký tham gia BHXH là tài liệu quan trọng để quản lý đối
tượng tham gia BHXH nói chung và đối tượng hưởng BHXH nói riêng. Căn
cứ vào hồ sơ tham gia của người lao động mà cơ quan quản lý nhà nước có
thể xác định được số lượng người lao động đăng ký tham gia vào hệ thống
cũng như số đối tượng hưởng BHXH sau này. Trong công tác quản lý nhà
nước về chi trả BHXH thì việc ban hành các thủ tục, quy trình hồ sơ đăng ký
tham gia cho người lao động phải đơn giản tránh gây phiền hà, lắm thủ tục sẽ
làm cho công tác chi trả sau này thuận lợi, nhanh chóng hơn.
5.3. Sổ BHXH, các biểu mẫu
Sổ BHXH và các biểu mẫu là công cụ quản lý trực tiếp của cơ quan quản
lý nhà nước về BHXH đặc biệt là trong công tác quản lý nhà nước về chi trả
BHXH. Với chức năng quản lý của mình, các cơ quan quản lý nhà nước về
lĩnh vực này có thể ban hành các loại hồ sơ liên quan đến đối tượng hưởng,
các hồ sơ, thủ tục trong giải quyết chi trả BHXH,…Một trong những hồ sơ
quan trọng nhất là mẫu sổ BHXH( thẻ BHXH). Để quản lý sổ ( thẻ) BHXH cơ
quan quản lý nhà nước quy định thống nhất mã số sổ hoặc uỷ quyền cho cơ
quan quản lý sự nghiệp BHXH thực hiện nhưng phải quy định nguyên tắc
chung. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước về BHXH còn ban hành các biểu
mẫu thống kê như báo cáo về đối tượng, báo cáo về số lượng người lao động,
báo cáo tài chính, báo cáo tình hình chi trả…
5.4. Tiền lương, thu nhập của ngời lao động
Tiền lương là hình thức thù lao cho người lao động nhằm mục đích tái

sản xuất sức lao động. Tiền lương, thu nhập có vai trò tạo nguồn BHXH, đó là
việc người lao động và người sử dụng lao động đóng góp thông qua tiền
lương, thu nhập của họ và của doanh nghiệp; người lao động tham gia BHXH
trên cơ sở thu nhập của họ. Vì vậy dưới giác độ thu thì, quy mô của quỹ
BHXH phụ thuộc trực tiếp vào tiền lương thu nhập của người lao động và
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

21


hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi người lao động có tiền
lương thu nhập cao thì họ sẽ đóng cho quỹ ở mức nhiều hơn. Và đồng thời dới
giác độ chi BHXH thì quỹ BHXH phụ thuộc vào tiền lương, thu nhập của
người lao động.Và đồng thời tiền lương cũng còn là căn cứ để xây dựng các
chính sách BHXH, là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước tính toán ra mức
trợ cấp, mức chi trả hợp lý trên cơ sở nguyên tắc tương đương giữa đóng và
hưởng, người nào đóng cao hơn thì hưởng nhiều hơn và ngược lại; nhằm đảm
bảo cuộc sống cho người lao động khi hưởng chính sách BHXH. Đồng thời
tiền lương, thu nhập của người lao động còn là căn cứ để xác định mức chi
trả, cơ sở để kiểm tra công tác chi trả đã thực hiện đúng chưa. Với chức năng
quản lý nhà nước của mình thì việc đưa ra chính sách tiền lương, thu nhập
hợp lý cũng như xây dựng các mức trợ cấp BHXH đáp ứng được cuộc sống
cho người lao động là vô cùng quan trọng để đưa chính sách BHXH ngày
càng hoàn thịên hơn.
5.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, các chế độ báo cáo tài chính
Trong quản lý nhà nước thì không thể thiếu các hoạt động thanh tra,
kiểm tra. Và trong quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH cũng vậy,
thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên. Việc thanh kiểm tra
nhằm xem xét công tác chi trả BHXH có thực hiện đúng chính sách, đúng chế
độ hay không. Qua công tác kiểm tra thì cũng rút ra được những thành tựu đạt

được cũng như những cái chưa đạt được để rút ra bài học kinh nghiệm để làm
cho công tác quản lý được tốt hơn.
Bên cạnh công tác thanh kiểm tra thì chế độ báo cáo tài chính cũng là
công cụ cần thiết để phục vụ cho công tác quản lý. Cơ quan quản lý nhà nước
có thể ban hành chế độ báo cáo và chế độ thống kê. Dựa vào các báo cáo cơ
quan quản lý nhà nớc có thể kiểm tra, theo dõi được tình hình công tác chi trả
được thực hiện như thế nào. Các chế độ báo cáo được quy định như: báo cáo
nhanh, báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo 6 tháng, báo cáo năm, báo cáo
thanh tra, kiểm tra,…
6.

Một số mô hình tổ chức quản lý chi trả BHXH trên thế giới

BHXH là loại hình bảo hiểm đầu tiên, ra đời sớm nhất trên thế giới, và
được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở mỗi nước thì có
các chế độ chính trị khác nhau do vậy việc tổ chức quản lý thực hiện BHXH
khác nhau. Sau đây là một số mô hình tổ chức quản lý chi trả BHXH trên thế
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

22


giới hiện nay.
Cộng hoà Liên Bang Đức là một quốc gia có hệ thống BHXH ra đời
sớm nhất và tiên tiến nhất ở châu âu. BHXH ở nước này được tổ chức theo
mô hình tách bạch công tác quản lý nhà nớc với công tác quản lý quỹ, thực
hiện chi trả trợ cấp cho người thụ hưởng.
ở đây nhà nớc thực hiện chức năng quản lý chung, còn quản lý quỹ, tổ
chức chi trả chủ yếu theo hình thức tự quản và độc lập lẫn nhau theo các chế
độ BHXH. Chức năng quản lý chi trả BHXH được giao cho các tổ chức: y tế,

tổ chức quản lý quỹ hưu trí thực hiện.
Trung Quốc, là một quốc gia đang phát triển, hệ thống BHXH ở nước
này được thực hiện rất sớm ngay sau khi dành được độc lập. Hệ thống tổ chức
quản lý BHXH của Trung Quốc được xây dựng theo mô hình:Nhà nước ban
hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, công tác quản lý sự
nghiệp BHXH được giao cho cơ quan BHXH nhà nước thực hiện, song bên
trên cơ quan này là do một hội đồng quản lý điều hành. Như vậy, công tác
quản lý nhà nước về BHXH ở Trung Quốc cũng tơng tự nh ở các nước khác
tức là Nhà nước thực hiện ban hành thể chế, điều tiết hoạt động cũng như điều
tiết quỹ tài chính BHXH. Còn việc tiến hành chi trả trợ cấp BHXH được giao
trực tiếp cho chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH ở các địa phương.
Malaxia, là quốc gia có hệ thống BHXH đợc thực hiện sớm nhất trong
khối ASEAN. Tuy nhiên hệ thống quản lý nhà nước về BHXH ở nước này
khá phức tạp. Các chế độ dài hạn như: hưu trí, mất sức và tử tuất do bộ tài
chính quản lý. Bảo hiểm y tế lại do bộ y tế quản lý. Như vậy tham gia quản lý
nhà nước ở Malaxia có 3 cơ quan khác nhau của chính phủ quản lý với bộ
máy thực hiện khác nhau với các nhóm đối tượng khác nhau. Cụ thể: Chính
phủ tài trợ và chi trả cho hai chế độ ốm đau và thai sản; việc quản lý quỹ tài
chính do các bên đóng góp được phân bổ theo ba tài khoản dùng để chi trả
cho các chế độ: tử tuât, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

23


Chương II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về chi trả
BHXH ở việt nam hiện nay
I.


quá trình hình thành và phát triển của BHXH ở nước ta

BHXH Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài trên nửa thế kỷ và có
thể chia làm hai thời kỳ chính: thời kỳ trước năm 1995- thời kỳ bao cấp trước
khi có bộ luật lao động; thời kỳ từ năm 1995 đến nay- bộ luật lao động ra đời
và là thời kỳ cải cách về BHXH theo hướng xoá bỏ bao cấp, phù hợp với tiến
trình đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.

Trước năm 1995

Ngay từ khi thành lập nước, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành, sửa
đổi và bổ sung chính sách BHXH và trợ cấp xã hội. Sau khi cách mạng tháng
8 năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Đảng và
Chính Phủ đã sớm thông qua sắc lệnh 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định điều
kiện cho công chức để họ yên tâm chăm sóc, cải thiện đời sống cho người lao
động. Vì vậy, Chính Phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH như:
Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công
chức.
Sắclệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể về chế độ trợ cấp hưu trí,
thai sản, chăm sóc y tế, thất nghiệp, tiền tuất đối với công chức.
Năm 1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 76/SL ngày
20/5/1950 ban hành quy chế công chức và sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950
ban hành quy chế công nhân, trong đó quy định điều kiện và chế độ nghỉ hưu
đối với công chức và công nhân. Ngày 27/12/1961, Chính Phủ ban hành điều
lệ tạm thời về các chế độ BHXH kèm theo Nghị Định 218/CP. Theo điều lệ
này, đối tượng tham gia BHXH là công nhân viên chức nhà nước và lực lượng
vũ trang với 6 chế độ BHXH là: chế độ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguồn chi trả BHXH được hình thành trên
cơ sở đóng góp của các xí nghiệp(4,7% so với quỹ lương) và từ ngân sách nhà

nước.
Từ năm 1985, cùng với việc thực hiện cải tiến chế độ tiền lương, chính
sách BHXH đã có những bước thay đổi. Ngày 18/9/1985 Hội đồng Bộ trưởng

SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

24


( nay là Chính phủ) đã ban hành nghị định 236/HĐBT bổ sung, sửa đổi chế độ
BHXH cho công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang. Nguồn tài
chính để thực hiện chính sách BHXH do các đơn vị sản xuất, kinh doanh
đóng( 13% so với tổng quỹ lương, trong đó 5% chi cho chế độ ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp), phần còn thiếu do ngân sách Nhà
nước cấp. Trong suốt thời gian từ năm 1961 đến năm 1995 việc tổ chức quản
lý và thực hiện chính sách BHXH giao cho 2 cơ quan: ngành Lao Động và
Thương Binh Xã Hội quản lý và tổ chức thực hiện chi trả 3 chế độ: hưu trí,
mất sức lao động, tử tuất; Tổng công đoàn Lao động Việt Nam quản lý và
thực hiện chi trả 3 chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
Thời kỳ này đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn đối với công nhân
viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân,
còn đại bộ phận(88%) lao động làm việc ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh,
tập thể và cá thể chưa được tham gia BHXH. Nguồn chi trả BHXH cơ bản từ
ngân sách Nhà nước. Trách nhiệm tham gia BHXH chủ yếu là cơ quan, xí
nghiệp nhà nước, người lao động không phải đóng BHXH.
2.

thời kỳ từ năm 1995 đến nay


Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi
về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi thích ứng về chính sách xã hội nói
chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 nêu rõ:” Nhà
nước thực hiện chế độ chính sách đối với công chức Nhà nước làm công ăn
lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác với người lao
động”. Trong văn kiện đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chỉ rõ
cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị
kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống
nhất tách quỹ ra khỏi ngân sách Nhà nước. Tiếp đến văn kiện đại hội Đảng lần
thứ VIII cũng đã nêu lên:” mở rộng chế độ BHXH đối với mọi người lao động
thuộc các thành phần kinh tế”. Và tại Quốc Hội khóa I X kỳ họp thứ V ngày
28/6/1994 đã thông qua Bộ Luật Lao Động, trong đó các nguyên tắc về
BHXH đã được quy định khá rõ rệt và điều quan trọng là việc quy định lập
quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nưởc trên cơ sở thu BHXH để đảm bảo
chi. Các văn bản trên của Đảng và Nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc đổi mới chính sách BHXH ở nước ta theo cơ chế thị trường. Cùng với
SV: Nguyễn Thị Thanh -BH44A

25


×