Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội trên địa bàn quận 9 Tp.HCM (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 105 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng; là
tiêu chí của tiến bộ, bình đẳng và công bằng xã hội; thể hiện sự văn minh, phát triển
của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm xây dựng
và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH hƣớng đến con ngƣời; xem đây vừa là
động lực phát triển, vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, vì mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chính sách BHXH ở nƣớc ta đƣợc triển khai thực hiện từ năm 1945, hoạt
động ban đầu dựa trên Sắc lệnh số 54_SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ấn
định các điều kiện cho công chức về hƣu trí, sau đó đƣợc bổ sung điều chỉnh bằng
nhiều Sắc lệnh và Nghị định. Đến năm 1961, Chính phủ ban hành Nghị định số
218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên
chức nhà nƣớc; năm 1964, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 161-CP kèm
theo Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân. Có thể nói hai Điều lệ trên
là hai văn bản pháp luật đầu tiên quy định 06 chế độ BHXH ở nƣớc ta là ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hƣu trí và tử tuất.
Từ chủ trƣơng của Đảng trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung
ƣơng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006): “Đổi mới hệ thống bảo
hiểm xã hội theo hƣớng đa dạng hóa hình thức và phù hợp với kinh tế thị trƣờng”,
vào Kỳ họp thứ 9 ngày 29/06/2006, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật BHXH, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, đây là một bƣớc tiến quan trọng trong việc
tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ BHXH đối với ngƣời lao
động. Qua hơn 07 năm thực hiện, Luật BHXH đã đi vào cuộc sống, đáp ứng nguyện
vọng của đông đảo ngƣời lao động, góp phần bảo đảm ASXH. Nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong tiến trình hội nhập quốc tế, tại Kỳ
1


họp thứ 8 ngày 20/11/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BHXH sửa đổi


(gọi là Luật BHXH năm 2014), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.
Có thể nói, hơn 70 năm hình thành và phát triển, chính sách BHXH ở nƣớc ta
đã và đang hoàn thành tốt vai trò đảm bảo ASXH, đáp ứng một phần nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống cho hàng triệu ngƣời lao động, khi họ bị giảm thu nhập do ốm
đau, sinh con, bị tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hay tuổi già. Sự quan tâm của
Đảng và Nhà nƣớc trong hoàn thiện Luật BHXH đã đảm bảo quyền lợi cho các bên
tham gia BHXH, là cơ sở để ngƣời lao động thụ hƣởng chính sách BHXH một cách
đầy đủ và đƣợc pháp luật bảo vệ khi quyền lợi của họ bị vi phạm.
Thời gian qua, việc triển khai thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt là công tác
chi trả BHXH, của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đạt nhiều kết quả tốt, từng
bƣớc đƣa đƣợc chính sách BHXH đi vào đời sống ngƣời lao động. Công tác quản lý
quỹ BHXH đƣợc thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, có hiệu quả. Công tác giải quyết
và chi trả các chế độ BHXH kịp thời, đúng quy định của Luật BHXH. Bên cạnh đó,
chủ trƣơng cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào giải
quyết nghiệp vụ, đa dạng phƣơng thức chi trả BHXH theo hƣớng hiện đại đã góp
phần phục vụ tốt hơn đối với ngƣời lao động.
Tuy nhiên, tình trạng cố ý lợi dụng các kẻ hở của pháp luật và sự quản lý chƣa
tốt của các cơ quan nhà nƣớc để trục lợi từ quỹ BHXH còn xảy ra ở nhiều địa
phƣơng với số lƣợng ngày càng tăng, số tiền ngày càng lớn; làm ảnh hƣởng đến sự
công bằng trong thụ hƣởng chính sách BHXH của ngƣời lao động. Trên thực tế đã
xảy ra những hành vi lạm dụng quỹ BHXH nhƣ: lập hồ sơ hƣởng chế độ BHXH
giả; sửa chữa, mua, bán sổ BHXH; “cò mồi” nhận “uỷ quyền” “làm hộ” hồ sơ
hƣởng BHXH; tƣ vấn “lách” luật, “lách” các quy định của pháp luật để tham gia
BHXH và hƣởng các chế độ BHXH, làm ảnh hƣởng đến sự an toàn và phát triển
của quỹ BHXH.

2


Mặc khác việc gian lận, lạm dụng quỹ BHXH về lâu dài sẽ làm mất cân bằng

cán cân thanh toán, ảnh hƣởng đến sự tăng trƣởng quỹ BHXH và quyền lợi của
ngƣời tham gia BHXH.
Cũng nhƣ các quận - huyện khác, mặc dù có nhiều có gắng trong công tác
QLNN về chi trả BHXH, tại Quận 9 - thành phố Hồ Chí Minh hoạt động này vẫn
còn có một số hạn chế cần phải khắc phục. Điển hình nhƣ: tình trạng chậm đóng và
nợ BHXH, BHYT, BHTN kéo dài của một số doanh nghiệp; số tiền nợ BHXH đã
làm ảnh hƣởng đến quyền thụ hƣởng các chế độ BHXH của ngƣời lao động khi có
phát sinh. Hàng năm, số lƣợng đơn vị và ngƣời lao động tham gia BHXH trên địa
bàn Quận 9 tăng lên đáng kể, đồng thời số đơn vị chậm nộp BHXH và số tiền nợ
đọng của các đơn vị cũng tăng lên. Việc lập hồ sơ đóng BHXH với mức lƣơng thấp
hơn so với thực tế (để giảm tiền đóng BHXH) làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của
ngƣời lao động khi hƣởng chế độ, việc báo tăng mức đóng khi ngƣời lao động sắp
sinh con để đƣợc hƣởng chế độ thai sản với mức cao hơn hay việc lập hồ sơ giả để
hƣởng chế độ BHXH cũng thƣờng xuyên xảy ra.
Trƣớc thực trạng đó, với những kiến thức đã học của chuyên ngành Quản lý
công, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo hiểm xã hội
trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” với mong muốn tìm hiểu nguyên
nhân của những hạn chế, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
QLNN trên lĩnh vực BHXH, từ đó đƣa chính sách BHXH đến với ngƣời lao động
trên địa bàn Quận 9 một cách đầy đủ theo quy định của pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau về
BHXH cũng nhƣ chi trả BHXH ở quy mô tỉnh, thành phố; quy mô quận, huyện;
trƣớc và sau khi Luật BHXH đƣợc ban hành đến nay, điển hình nhƣ:
Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Huy Ban (năm 1996) với đề
tài “Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn”. Đây là
luận án phó tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề lý luận về BHXH và đánh giá thực trạng
3



công tác xây dựng pháp luật BHXH ở Việt Nam. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất
mô hình xây dựng Luật BHXH trong đó có đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp
và xử lý vi phạm về BHXH.
Đề tài nghiên cứu năm 1996 của TS. Nguyễn Văn Châu“Thực trạng quản lý
thu bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
thu”. Đề tài tập trung nghiên cứu tìm hiểu một số kinh nghiệm quản lý thu BHXH
của một số nƣớc trên thế giới, đánh giá thực trạng về hoạt động của nghiệp vụ thu
BHXH trong thời kỳ trƣớc khi thành lập hệ thống BHXH (năm 1995) và trong thời
kỳ từ năm 1995-1996, đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm cải tiến quản lý thu
BHXH ở Việt Nam.
Đề tài khoa học “Thực trạng công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại thành
phố Hồ Chí Minh và những vấn đề cần hoàn thiện” năm 2002 do thạc sĩ Đỗ Quang
Khánh làm chủ nhiệm. Đề tài đã giới thiệu đặc điểm kinh tế-xã hội của thành phố
Hồ Chí Minh và cơ sở pháp lý để thực hiện công tác thu BHXH. Đánh giá thực
trạng công tác quản lý thu BHXH ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1996-2001.
Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở
thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài nghiên cứu cấp ngành của tác giả Hà Văn Chi (BHXH Việt Nam) với
đề tài “Chế độ lương hưu của các đối tượng nghỉ hưu thời kỳ trước và sau năm
1995, thực trạng và giải pháp” (năm 2003). Nội dung đề tài nêu lên sự bất hợp lý
trong quy định của pháp luật về chế độ hƣu trí trong các chính sách BHXH trƣớc và
sau năm 1995 từ đó đƣa ra các kiến nghị về điều chỉnh tiền lƣơng hƣu đối với các
đối tƣợng nghỉ hƣu trƣớc năm 1995.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hồ Văn Phú (năm 2009) với đề tài “Hoàn thiện
quản lý nhà bước về bảo hiểm xã hội”. Nội dung luận văn chủ yếu tập trung phân
tích thực trạng QLNN về BHXH trong những năm gần đây, những chủ trƣơng chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc về BHXH. Qua đó thấy đƣợc đây là những chủ trƣơng,
chính sách lớn, lâu dài của Nhà nƣớc đƣợc sự đồng thuận của xã hội, bên cạnh
4



những thành tựu đạt đƣợc, BHXH Việt Nam cần đề ra các giải pháp để phải khắc
phục những mặt còn hạn chế.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Đoàn Thị Lệ Hoa (năm 2012) với đề tài “Hoàn
thiện công tác kiểm soát chi bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố Đà
Nẵng”. Nội dung luận văn đánh giá thực trạng công tác kiểm soát chi tại Bảo hiểm
xã hội thành phố Đà Nẵng còn những hạn chế do viên chức nghiệp vụ chƣa thực
hiện tốt việc xét duyệt, thẩm định hồ sơ hƣởng BHXH, chƣa chặt chẽ trong việc
theo dõi quản lý đối tƣợng hƣởng chế độ. Tại Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng,
chƣa có chƣơng trình liên thông số sổ BHXH nên khó kiểm soát đƣợc số sổ đã
hƣởng chế độ, dẫn đến chi trùng. Từ những hạn chế trên tác giả luận văn đã đƣa ra
một số giải pháp để hoàn thiện kiểm soát chi tại BHXH thành phố Đà Nẵng.
Từ những nội dung nghiên cứu cơ sở lý luận BHXH và đánh giá thực trạng
QLNN về BHXH của các luận văn nêu trên, trong đó có luận văn của tác giả Đoàn
Thị Lệ Hoa đề cập đến nội dung chi trả BHXH; luận văn của tôi sẽ kế thừa sử dụng
làm nguồn tài liệu tham khảo trực tiếp. Tại Quận 9 - thành phố Hồ Chí Minh, chƣa
có đề tài nào nghiên cứu cụ thể vấn đề QLNN về chi trả BHXH; vì vậy, hƣớng đề
tài mà tôi lựa chọn sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
 Mục đích
Từ cơ sở lý luận và kết quả đánh giá thực trạng QLNN về chi trả BHXH, luận
văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về chi trả BHXH
trên địa bàn Quận 9.
 Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu nhƣ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận chi trả BHXH và QLNN về chi trả BHXH, trong đó
làm rõ sự cần thiết khách quan Nhà nƣớc phải quản lý công tác chi trả BHXH; nội

5



dung quản lý chi trả BHXH; cơ sở pháp lý và hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về
chi trả BHXH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN trong công tác chi trả BHXH trên địa
bàn Quận 9; đƣa ra những ƣu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
trong QLNN về chi trả BHXH.
- Đƣa ra một số định hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
QLNN về chi trả BHXH trên địa bàn Quận 9 trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Công tác QLNN về chi trả các chế độ BHXH bắt buộc cho ngƣời lao động và
ngƣời hƣởng chế độ BHXH hàng tháng theo quy định của Luật BHXH trên địa bàn
Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
 Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2014 đến nay.
Không gian nghiên cứu: địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thu thập thông tin: từ nguồn tài liệu liên quan đến lĩnh vực
BHXH, văn bản hƣớng dẫn thi hành pháp luật BHXH, các văn bản Luật khác có
liên quan, Văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội, các Báo cáo của Chính phủ trình
Quốc hội về tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH hàng năm, các Báo cáo hoạt
động của ngành BHXH, tham khảo ý kiến của chuyên gia; từ đó, tác giả có cái nhìn
toàn diện và khách quan để phân tích, đánh giá những ƣu điểm và hạn chế trong
QLNN đối với hoạt động chi trả BHXH.
- Phƣơng pháp định tính: phân tích tổng hợp số liệu thu thập đƣợc.
6



- Phƣơng pháp định lƣợng: trên cơ sở số liệu thống kê, tác giả so sánh, xử lý
số liệu, đồ thị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ về mặt lý luận chi trả BHXH, sự cần thiết khách quanQLNN
về chi trả BHXH; đồng thời qua việc phân tích đánh giá những mặt đạt đƣợc, những
hạn chế của hoạt động QLNN về chi trả BHXH trên địa bàn Quận 9 để đƣa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về chi trả BHXH trong thời
gian tới, góp phần đảm bảo quyền lợi BHXH cho ngƣời lao động.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo để hoàn thiện công tác QLNN về chi trả
BHXH đối với các quận, huyện có đặc điểm phù hợp, tƣơng đồng với Quận 9, thành
phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; luận
văn đƣợc chia thành ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của hoạt động chi trả BHXH và QLNN về
chi trả BHXH.
Chƣơng 2: Thực trạng QLNN về chi trả BHXH trên địa bàn Quận 9, thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2014-2016.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về chi trả
BHXH trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

7


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG CHI
TRẢ BHXH VÀ QLNN VỀ CHI TRẢ BHXH

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Bảo hiểm
 Khái niệm

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm đƣợc xây dựng dựa trên từng
góc độ nghiên cứu: xã hội, kinh tế, pháp lý nhƣ:
- Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít [24, tr. 21].
- Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là ngƣời đƣợc bảo hiểm cam
đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn cho mình
hoặccho ngƣời thứ ba, trong trƣờng hợp xảy ra rủi ro, sẽ nhận đƣợc một khoản đền
bù các tổn thất đƣợc trả bởi một bên khác, đó là ngƣời bảo hiểm. Ngƣời bảo hiểm
nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phƣơng
pháp của thống kê [24, tr. 22].
Mỗi định nghĩa nêu trên thiên về một góc độ nghiên cứu về xã hội, kinh tế và
pháp luật khác nhau. Để đáp ứng cả ba khía cạnh này, có thể nêu khái quát khái
niệm bảo hiểm nhƣ sau: “Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền
đƣợc hƣởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho ngƣời thứ ba
trong trƣờng hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có
trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phƣơng pháp
của thống kê” [24, tr. 22].
 Phân loại
- Phân loại theo phương thức quản lý: bảo hiểm đƣợc chia làm 2 hình thức là
bắt buộc và tự nguyện, trong đó:

8


+ Bảo hiểm tự nguyện là những loại bảo hiểm mà hợp đồng đƣợc thiết lập dựa
hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của ngƣời đƣợc bảo hiểm. Đây là tính chất
vốn có của bảo hiểm thƣơng mại khi nó có vai trò nhƣ là một dịch vụ đối với hoạt
động sản xuất và sinh hoạt của con ngƣời.
+ Bảo hiểm bắt buộc đƣợc hình thành trên cơ sở luật định, nhằm bảo vệ lợi ích
của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất về ngƣời và tài chính trầm trọng

gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp, thƣờng là đối tƣợng của sự bắt buộc
này. Ví dụ: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của ngƣời vận chuyển hàng không đối với hành khách, bảo hiểm cháy, nổ.
- Phân loại theo mục đích hoạt động: bảo hiểm đƣợc chia làm 2 loại là bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm thƣơng mại, trong đó:
+ Bảo hiểm xã hội là biện pháp bảo đảm, thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của ngƣời lao động do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động,mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ đƣợc tập trung từ sự đóng góp của
ngƣời lao động. BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia.
+ Bảo hiểm thương mại là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục
đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của ngƣời đƣợc bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
ngƣời thụ hƣởng hoặc bồi thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.
1.1.2. Bảo hiểm xã hội
 Khái niệm bảo hiểm xã hội
BHXH có lịch sử khá lâu và đã đƣợc thực hiện ở nhiều nƣớc trên thế giới.
Năm 1850, đạo luật BHXH đầu tiên đƣợc ban hành ở nƣớc Đức dƣới thời Thủ
tƣớng Bismark. Theo đạo luật này, sự tham gia BHXH là bắt buộc và không chỉ
ngƣời lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nƣớc cũng phải thực hiện nghĩa vụ
9


của mình (theo cơ chế ba bên). Năm 1935, Mỹ ban hành đạo luật đầu tiên về
ASXH. Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ độ tử tuất,
tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Theo Công ƣớc số 102, đƣợc gọi là Công ƣớc về
ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu); do Hội toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
thông qua ngày 25/06/1952; “chế độ về ASXH gồm 9 nội dung: (1)Hệ thống chăm
sóc y tế; (2)Hệ thống trợ cấp ốm đau; (3)Trợ cấp thất nghiệp; (4)Hệ thống trợ cấp
tuổi già; (5)Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (6)Trợ cấp gia đình;

(7)Trợ cấp thai sản; (8)Hệ thống trợ cấp cho tình trạng không tự chăm sóc đƣợc bản
thân; (9)Trợ cấp tiền tuất. Đồng thời ILO khuyến nghị các nƣớc thành viên phải
thực hiện ít nhất 05 trong số 09 nội dung nêu trên bao gồm: trợ cấp thất nghiệp, trợ
cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật và trợ cấp
tiền tuất” [10, tr 306].
Tuy nhiên, cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều
tranh luận vì đƣợc tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác
nhau. Cụ thể nhƣ:
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ ngƣời lao động,
sử dụng tiền đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và đƣợc sự tài
trợ, bảo hộ của Nhà nƣớc, nhằm trợ cấp vật chất cho ngƣời đƣợc bảo hiểm và gia
đình trong trƣờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thƣờng do ốm đau, tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật
(nghỉ hƣu) hoặc chết.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo
đời sống vật chất cho ngƣời lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã
hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Khái niệm BHXH đƣợc khái quát một cách đầy đủ nhất trong Điều 3.1 Luật
Bảo hiểm xã hội đã đƣợc Quốc hội Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khóa XIII, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014 nhƣ sau “Bảo hiểm xã hội là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
10


giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [13, tr. 9].
 Khái niệm ba bên trong hoạt động bảo hiểm xã hội
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH, trong đó:
- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định

của pháp luật; gồm có ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và Nhà nƣớc (trong
một số trƣờng hợp).
- Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những ngƣời tham gia BHXH. Bên
BHXH thƣờng là một số tổ chức do Nhà nƣớc lập ra và đƣợc Nhà nƣớc bảo trợ,
nhận sự đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH.
Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên đƣợc BHXH khi có
nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là bên đƣợc quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh nhu
cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro đƣợc bảo hiểm gây ra.
Trong BHXH, bên đƣợc BHXH là ngƣời lao động tham gia BHXH và thân nhân
của họ, khi họ có phát sinh nhu cầu đƣợc BHXH.
 Đặc trưng của bảo hiểm xã hội
Từ việc nghiên cứu khái niệm về BHXH ở trên, ta có thể thấy BHXH có
những đặc trƣng cơ bản nhƣ sau:
- BHXH là sự đảm bảo bù đắp thu nhập cho ngƣời lao động trong và sau quá
trình lao động, đồng thời quyền lợi hƣởng các chế độ BHXH chỉ đƣợc chi trảkhi họ
và ngƣời sử dụng lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH.
- Các hoạt động và các chế độ BHXH đƣợc thực hiện theo quy định của pháp
luật. Nhà nƣớc quản lý và bảo hộ các hoạt động BHXH. Ngoài ra, hoạt động BHXH
còn chịu sự giám sát chặt chẽ của ngƣời lao động thông qua tổ chức công đoàn và
ngƣời sử dụng lao động thông qua tổ chức của giới chủ, theo cơ chế ba bên.
11


 Nội dung của bảo hiểm xã hội
BHXH là một hệ thống đa dạng và phức tạp với những nội dung khác nhau.
Tuy nhiên, có thể tập trung vào bốn nhóm nội dung cơ bản sau:
- Một là đối tượng bảo hiểm xã hội
+ Ngƣời lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tƣợng tham gia, vừa là đối
tƣợng đƣợc bảo hiểm và họ cũng là đối tƣợng đƣợc hƣởng quyền lợi BHXH chiếm

phần lớn trong các trƣờng hợp phát sinh trách nhiệm BHXH.
+ Đối tƣợng tham gia BHXH không chỉ có ngƣời lao động mà còn có ngƣời
sử dụng lao động và Nhà nƣớc. Ngƣời sử dụng lao động tham gia BHXH là vì họ
thấy đƣợc lợi ích thiết thực cho họ, đồng thời là do sự ép buộc của Nhà nƣớc thông
qua quy định của pháp luật. Đối với Nhà nƣớc thì khác, Nhà nƣớc tham gia BHXH
với tƣ cách là chủ sở hữu lao động đối với tất cả công nhân viên chức làm việc
trong bộ máy Nhà nƣớc, đồng thời với tƣ cách bảo hộ cho sự tăng trƣởng của quỹ
BHXH, nhằm tạo sự ổn định cho quỹ và sự an toàn của xã hội.
+ Đối tƣợng đƣợc hƣởng quyền lợi BHXH là ngƣời lao động trong trƣờng hợp
họ gặp rủi ro nhƣ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hƣu trí.
Nhƣng trong trƣờng hợp ngƣời lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tƣợng
hƣởng quyền lợi BHXH lại là thân nhân của ngƣời lao động nhƣ: cha, mẹ, vợ,
chồng, con.
- Hai là các chế độ bảo hiểm xã hội
Theo Điều 4, Luật BHXH năm 2014, các chế độ BHXH đƣợc quy định nhƣ
sau: bảo hiểm xã hội bắt buộc có 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hƣu trí, tử tuất;bảo hiểm xã hội tự nguyện có 2 chế độ là hƣu trí
và tử tuất; bảo hiểm hƣu trí bổ sung do Chính phủ quy định.
- Ba là quỹ bảo hiểm xã hội
“Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nƣớc, đƣợc
hình thành từ đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và có sự hỗ trợ
12


của Nhà nƣớc” [13, tr. 10]. Ngoài ra, nguồn hình thành quỹ còn có “Tiền sinh lời
của hoạt động đầu tƣ từ quỹ”, “Các nguồn thu hợp pháp khác” [13, tr. 68]. Các quỹ
thành phần của quỹ BHXH bao gồm: quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; quỹ hƣu trí và tử tuất [13, tr 68].
- Bốn là tổ chức, quản lý bảo hiểm xã hội
Theo khoản 1, Điều 93 và khoản 1, khoản 2, Điều 94 - Luật BHXH năm 2014:
“Cơ quan bảo hiểm xã hội là cơ quan nhà nƣớc có chức năng thực hiện chế độ, chính

sách bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp; thanh tra việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
y tế ...” [13, tr.77]. “Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội đƣợc tổ chức ở cấp quốc gia
có trách nhiệm chỉ đạo, giám sát hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội và tƣ vấn
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Hội đồng quản
lý bảo hiểm xã hội gồm đại diện Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, tổ chức đại
diện ngƣời sử dụng lao động, cơ quan quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã hội, cơ
quan quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và tổ chức khác
có liên quan” [13, tr.77-78].
1.1.3. Chi trả bảo hiểm xã hội
 Khái niệm
Chi trả BHXH là quá trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi các chế độ
BHXH và đảm bảo các hoạt động của hệ thống BHXH. Trong đó:
- Phân phối quỹ BHXH là quá trình phân bổ các nguồn tài chính từ quỹ
BHXH để hình thành các quỹ thành phần nhƣ quỹ ốm đau và thai sản, quỹ tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp, quỹ hƣu trí và tử tuất hoặc phân bổ cho các mục đích
sử dụng khác nhau nhƣ quỹ đầu tƣ phát triển và quỹ chi trả các chế độ BHXH.
- Sử dụng quỹ BHXH là quá trình chi tiền của quỹ BHXH đến tay đối tƣợng
đƣợc thụ hƣởng hoặc cho từng mục đích sử dụng cụ thể.

13


Phân phối và sử dụng quỹ BHXH là hai quá trình khác nhau, nhƣng trong thực
tế, hai quá trình này thƣờng đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng có những trƣờng
hợp, từ mục đích sử dụng quỹ đòi hỏi phải tách riêng hai quá trình này theo thứ tự
trƣớc sau. Ví dụ: phải phân phối quỹ đủ cho mục đích chi trả các chế độ BHXH, số
còn lại mới phân phối vào quỹ bảo toàn và tăng trƣởng,nghĩa là quỹ phải có số dƣ
mới thực hiện đầu tƣ tăng trƣởng.
 Phân biệt giữa chi trả bảo hiểm xã hội với các loại hình chi trả bảo hiểm

khác
Căn cứ vào mục đích hoạt động, có hai loại hình bảo hiểm là BHXH và bảo
hiểm thƣơng mại. Hoạt động chi trả quyền lợi cho ngƣời thụ hƣởng của hai loại
hình bảo hiểm này có những điểm giống và khác nhau, cụ thể ở một số tiêu chí nhƣ
sau:
Giống nhau: BHXH và bảo hiểm thƣơng mại đƣợc thực hiện trên cùng một
nguyên tắc làcó tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới đƣợc hƣởng quyền lợi. Hoạt
động chi trả quyền lợi bảo hiểm đều nhằm bù đắp tài chính cho ngƣời tham gia bảo
hiểm khi gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại, trong khuôn khổ loại hình bảo hiểm
họ tham gia. Phƣơng thức hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều mang tính “cộng
đồng - lấy số đông bù số ít” tức là dùng số tiền đóng góp của số đông ngƣời tham
gia để bù đắp, chia sẻ cho một số ít ngƣời gặp phải biến cố rủi ro gây ra tổn thất.
Khác nhau:
- Về mục tiêu, BHXH nhằm thực hiện chính sách ASXH của Nhà nƣớc, còn
bảo hiểm thƣơng mại là lợi nhuận.
- Về nội dung chi trả bảo hiểm thƣơng mại gồm nhiều lĩnh vực nhằm đảm bảo
các rủi ro về con ngƣời giống nhƣ BHXH, ngoài ra bảo hiểm thƣơng mại còn đảm
bảo các rủi ro khác nhƣ tài sản và trách nhiệm.
- Hoạt động chi BHXH đƣợc thực hiện bởi cơ quan BHXH, là một tổ chức sự
nghiệp của Nhà nƣớc nhằm chăm lo phúc lợi xã hội, còn bảo hiểm thƣơng mại đƣợc
14


thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp cho xã hội một
loại hàng hóa, dịch vụ, trên cơ sở đó tìm kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo
hiểm.
1.1.4. Quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo hiểm xã hội
 Quản lý
Quản lý xuất hiện trong mọi tổ chức, vì sự tồn tại và phát triển của một thực
thể là tất yếu khách quan. Trong thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý.

Theo F.W.Taylor, quản lý là “biết chính xác điều bạn muốn ngƣời khác làm và sau
đó biết đƣợc rằng họ đã hoàn thành công việc đó một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
Henry Fayol định nghĩa “quản lý là một tiến trình bao gồm tất cả các khâu lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nỗ lực của mỗi thành viên trong tổ chức và
sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức nhằm đạt mục tiêu đã định
trƣớc”.
Từ các quan điểm trên, có thể tổng hợp định nghĩa về quản lý nhƣ sau: “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên các khách thể nhằm đạt
được mục tiêu định trước” [11, tr.22].
 Quản lý nhà nước và đặc điểm của quản lý nhà nước
- Quản lý nhà nước
+ Theo nghĩa bao quát: QLNN là hoạt động của hệ thống các cơ quan Nhà
nƣớc trong bộ máy Nhà nƣớc, bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp.
+ Theo nghĩa hẹp: QLNN không bao gồm hoạt động lập pháp và tƣ pháp của
Nhà nƣớc, mà đó là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nƣớc (cơ quan hành
pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội theo pháp luật.
- Đặc điểm của quản lý nhà nước

15


+ QLNN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao, tính điều chỉnh và
tính mệnh lệnh đơn phƣơng. QLNN tác động mang tính liên tục và ổn định lên các
quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội.
+ Các yếu tố tạo nên hoạt động QLNN bao gồm mục đích, nhiệm vụ của
QLNN; phƣơng pháp QLNN và chƣơng trình QLNN. Trong đó: mục đích, nhiệm
vụ của QLNN là mục tiêu hƣớng tới của chủ thể quản lý đối với đối tƣợng bị quản
lý. Phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc là phƣơng thức, cách thức mà Nhà nƣớc tác động
lên khách thể quản lý nhằm đạt đƣợc những mục đích quản lý; có các phƣơng pháp
quản lý nhƣ: thuyết phục, kinh tế, kiểm tra, hành chính, cƣỡng chế. Chƣơng trình

QLNN gồm các bƣớc: đánh giá tình hình các vấn đề cần giải quyết; chuẩn bị dự
thảo quyết định; thông qua quyết định; ban hành quyết định; tổ chức thực hiện
quyết định và kiểm tra đánh giá thực hiện các quyết định.
 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm
xã hội
- Quản lý nhà nước về chi trả BHXH: là sự tác động, điều hành của Nhà
nước trong thực hiện các nội dung QLNN về BHXH trên lĩnh vực chi trả BHXH,
nhằm đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho người thụ hưởng theo đúng quy định
của pháp luật và đảm bảo được mục tiêu ASXH.
- Nhà nƣớc là chủ thể tổ chức và quản lý các hoạt động chi trả BHXH. Nhà
nƣớc sử dụng hệ thống pháp luật và công cụ cƣỡng chế mang tính quyền lực nhà
nƣớc để tác động và điều chỉnh hoạt động chi trả BHXH.
- QLNN về chi trả BHXH đƣợc thống nhất từ cơ quan Nhà nƣớc cấp trung
ƣơng đến cấp địa phƣơng. QLNN về chi trả BHXH cần tuân thủ đúng các nguyên
tắc sau: “đúng chế độ, chính sách hiện hành, đúng ngƣời đƣợc hƣởng; bảo đảm chi
trả kịp thời và đầy đủ chế độ của ngƣời hƣởng; thủ tục chi trả đơn giản, thuận tiện;
đảm bảo an toàn tiền mặt trong chi trả; chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp đƣợc quản lý thống nhất, công khai, minh bạch” [7, tr.5].
1.1.5. Một số nhân tố tác động đến chi trả bảo hiểm xã hội
16


 Sự phát của nền kinh tế
Khi nền kinh tế của đất nƣớc phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu
cầu lao động của doanh nghiệp sẽ đƣợc mở rộng, việc tham gia BHXH của doanh
nghiệp cũng trở thành một trong những tiêu chí cạnh tranh trên thƣơng trƣờng. Còn
ngƣời lao động, họ cũng mong muốn đƣợc tham gia BHXH với mức lƣơng cao để
đƣợc hƣởng quyền lợi cao. Từ đó, số thu BHXH sẽ gia tăng dẫn đến việc giải quyết
chế độ và chi trả BHXH cũng tăng để đáp ứng nhu cầu thụ hƣởng chính sách
BHXH cho ngƣời lao động.

 Sự nhận thức của xã hội về bảo hiểm xã hội
Khi ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động cũng nhƣ toàn xã hội nhận thức
đƣợc tầm quan trọng và vai trò của chính sách BHXH, họ sẽ có ý thức chấp hành tốt
pháp luật BHXH. Việc tuân thủ pháp luật BHXH của ngƣời lao động, ngƣời sử
dụng lao động và cơ quan BHXH sẽ góp phần đƣa chính sách BHXH vào đời sống;
ngƣời lao động đƣợc hƣởng chế độ theo đúng quy định; hạn chế đƣợc hành vi trục
lợi quỹ BHXH, bảo đảm an toàn và phát triển quỹ BHXH.
 Sự điều chỉnh về chính sách, pháp luật của nhà nước
- Chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
có ảnh hƣởng sâu sắc đến hoạt động chi trả BHXH, có thể kể ra nhƣ sau:
+ Chính sách tiền lƣơng và chính sách BHXH có mối quan hệ rất chặt chẽ với
nhau. Chính sách tiền lƣơng là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện chính sách
BHXH, vì cơ sở để tính toán mức đóng và hƣởng BHXH hiện nay phụ thuộc vào hệ
thống thang bảng lƣơng do Nhà nƣớc ban hành, mức lƣơng cơ sở và mức lƣơng tối
thiểu vùng do Nhà nƣớc quy định. Nhƣ vậy, khi Nhà nƣớc nâng mức lƣơng cơ sở và
mức lƣơng tối thiểu vùng, đồng nghĩa với việc tăng mức đóng BHXH. Số thu
BHXH và chi trả quyền lợi BHXH cũng tăng lên.
+ Bên cạnh đó, khi Nhà nƣớc điều chỉnh, bổ sung chính sách BHXH về mở
rộng đối tƣợng tham gia, đối tƣợng hƣởng và mức thụ hƣởng BHXH cũng sẽ làm
tăng quy mô quản lý về đối tƣợng hƣởng và số tiền chi trả.
17


- Ngoài ra, còn các chính sách khác của Nhà nƣớc tác động đến chi trả
BHXH nhƣ: chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, chính sách việc làm.
1.2. Sự cần thiết khách quan và nội dung quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo
hiểm xã hội
1.2.1. Sự cần thiết khách quan QLNN về chi trả bảo hiểm xã hội
 Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động chi trả bảo hiểm xã hội
- Đối với đối tượng thụ hưởng chính sách BHXH:

Theo quy định hiện hành, chủ sử dụng lao động và ngƣời lao động thuộc đối
tƣợng tham gia BHXH bắt buộc phải đóng BHXH thì ngƣời lao động mới đƣợc
hƣởng các chế độ BHXH. Nhƣng để ngƣời lao động nhận đƣợc tiền trợ cấp từ quỹ
BHXH, doanh nghiệp, ngƣời lao động và cơ quan BHXH phải thực hiện hàng loạt
các hoạt động thuộc nghiệp vụ quản lý chi. Không có các hoạt động này thì ngƣời
tham gia BHXH không nhận đƣợc các khoản trợ cấp BHXH và do đó quyền lợi của
họ không đƣợc đảm bảo.
- Đối với hệ thống ASXH:
+ Chi trả BHXH góp phần đảm bảo đời sống cho ngƣời lao động tham gia
BHXH trong và sau khi ra khỏi quá trình lao động, liên quan trực tiếp đến đời sống
hàng ngày của con ngƣời. Quản lý, định hƣớng chi trả BHXH theo đúng quy định
của pháp luật sẽ góp phần đảm bảo nguyên tắc công bằng, đoàn kết, chia sẻ “lấy số
đông bù số ít, lấy không rủi ro bù cho rủi ro” giữa những ngƣời lao động với nhau.
+ Chi trả BHXH là nhu cầu thiết yếu và quan trọng nhất của ngƣời lao động
trong số những nhu cầu về ASXH của con ngƣời (nhu cầu tiếp cận và thoả mãn các
dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục, kế hoạch hoá gia đình, nƣớc sạch; nhu cầu trợ giúp
xã hội thƣờng xuyên đối với các đối tƣợng yếu thế; nhu cầu cứu trợ đột xuất.v.v.)
mà Nhà nƣớc và cộng đồng phải có trách nhiệm chia sẻ, cung cấp không vì mục tiêu
lợi nhuận cho xã hội.
 Xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động chi trả bảo hiểm xã hội
18


- Hoạt động chi trả BHXH có liên quan đến nhiều đối tƣợng nhƣ ngƣời lao
động, ngƣời sử dụng lao động, ngƣời hƣởng chính sách BHXH (là thân nhân của
ngƣời lao động) và cơ quan BHXH. Mỗi đối tƣợng đều có nghĩa vụ và quyền lợi về
BHXH khác nhau theo quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, chi trả BHXH còn liên quan đến nhiều nghiệp vụ bao gồm thu,
thẩm định hồ sơ, thực hiện chi trả .v.v. Mỗi khâu nghiệp vụ đòi hỏi tính chính xác,
chặt chẽ theo quy trình. Nếu có sai sót ở bất kỳ khâu nghiệp vụ nào, cũng sẽ ảnh

hƣởng đến quyền lợi thụ hƣởng chế độ BHXH của ngƣời lao động.
 Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội là yêu cầu của nền kinh tế xã hội
Chi trả BHXH cho ngƣời lao động là một bƣớc quan trọng trong việc thực
hiện chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Hoạt động này có tác động trực tiếp đến
quyền lợi của ngƣời tham gia BHXH sau khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ nộp
BHXH. QLNN về chi trả BHXH là một trong những nhiệm vụ của Nhà nƣớc nhằm
định hƣớng cho hoạt động chi trả diễn ra đúng quy định của pháp luật, thể hiện
đƣợc vai trò bù đắp thu nhập cho ngƣời lao động khi gặp rủi ro, giúp ngƣời lao động
nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, yên tâm làm việc, nâng cao năng suất lao động,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo hiểm xã hội
Theo Điều 7, Luật BHXH năm 2014, quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã hội bao
gồm 7 nội dung:“(1)Ban hành, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật, chiến lƣợc,
chính sách bảo hiểm xã hội. (2)Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo
hiểm xã hội. (3)Thực hiện công tác thống kê, thông tin về bảo hiểm xã hội. (4)Tổ
chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo, tập huấn nguồn nhân lực làm công
tác bảo hiểm xã hội. (5)Quản lý về thu, chi, bảo toàn, phát triển và cân đối quỹ bảo
hiểm xã hội. (6)Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội;
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội. (7)Hợp

19


tác quốc tế về bảo hiểm xã hội’ [13, tr. 12-13]. Theo đó, QLNN về chi trả BHXH
bao gồm những nội dung sau:
 Một là, ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về chi trả bảo
hiểm xã hội
- Nhà nƣớc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về BHXH bao gồm
Luật và các văn bản dƣới luật để thực hiện chính sách BHXH thống nhất trong
phạm vi cả nƣớc. Đối với bảo hiểm thƣơng mại, Nhà nƣớc chỉ ban hành những

điều, những nội dung cơ bản nhất còn các chính sách, chiến lƣợc cụ thể là do các
công ty bảo hiểm thực hiện; còn đối với BHXH, Nhà nƣớc quy định bằng văn bản
pháp luật rất cụ thể và chặt chẽ các nội dung của chính sách BHXH, các cơ quan
BHXH không đƣợc tự ý đặt ra bất kỳ chế độ hay bất kỳ quy định nào.Vì vậy, xây
dựng pháp luật BHXH có thể coi là nội dung quan trọng nhất của quản lý Nhà nƣớc
về BHXH.
- Theo phân cấp, cơ quan QLNN ở cấp tỉnh, cấp huyệncó trách nhiệm tổ
chức thực hiện, đƣa chính sách vào đời sống xã hội trên cơ sở Luật BHXH, các văn
bản hƣớng dẫn thi hành Luật của Chính phủ, các Bộ, Ngành và Bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
 Hai là, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội
- Tuyên truyền cho ngƣời lao động và nhân dân hiểu rõ chính sách BHXH là
trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
nhằm ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng. Qua đó, đề cao tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tăng cƣờng sự
phối hợp giữa các cơ quan QLNN và cơ quan BHXH từ trung ƣơng đến địa phƣơng
trong việc tổ chức thực hiện chế độ BHXH.
- Tuyên truyền chính sách BHXH phải theo nguyên tắc có đóng có hƣởng,
quyền lợi tƣơng ứng với nghĩa vụ, có sự chia sẻ giữa ngƣời lao động với nhau, bảo
đảm công bằng bền vững hệ thống BHXH. Công tác tuyên truyền cần tiến hành
thƣờng xuyên, đồng bộ ở các cấp; phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, tổ

20


chức và triển khai các hoạt động tuyên truyền thiết thực, hiệu quả, đƣa thông tin đến
với mọi ngƣời lao động và nhân dân.

 Ba là, tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực làm công tác chi trả bảo hiểm xã hội

- Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị đƣợc Chính Phủ giao nhiệm vụ triển
khai thực hiện chính sách BHXH. Hệ thống BHXH đƣợc tổ chức theo nhiều cấp từ
Trung ƣơng xuống địa phƣơng, có mối quan hệ chặt chẽ và chịu sự QLNN của chính
quyền cùng cấp. Từ đó việc QLNN về BHXH là nhiệm vụ của UBND các cấp và
các ban ngành có liên quan, còn BHXH là cơ quan trực tiếp thực hiện.
- Hiện nay, chính sách BHXH ngày càng đƣợc mở rộng về đối tƣợng tham
gia cũng nhƣ đối tƣợng thụ hƣởng, do đó để làm tốt công tác QLNN về BHXH và
chi trả BHXH, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức đủ về tiêu chuẩnchức
danhđáp ứng đƣợc yêu cầu công tác. Đồng thời, tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội
ngũ cán bộ, viên chức; đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành BHXH. Trên thực tế, công tác chi trả
BHXH có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản lý, năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của viên chức đƣợc phân công nhiệm vụ;vì vậy
trong phân công bố trí cán bộ, viên chức thực thi nhiệm vụ chi trả chế độ BHXH
cần chú trọng đến đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp và giải quyết tình huống,
sự am hiểu chính sách cũng nhƣchủ trƣơng của Đảng, pháp luật Nhà nƣớc và của
Ngành BHXH để thực hiện tốt công tác đƣợc giao.
 Bốn là, quản lý về thu - chi trả bảo hiểm xã hội, bảo toàn quỹ bảo hiểm
xã hội
- Cơ sở để hƣởng chế độ BHXH là có tham gia BHXH, vì vậy để đảm bảo
cho ngƣời lao động đƣợc hƣởng các chế độ khi gặp “rủi ro” thì việc thu đúng, thu
đủ, không để nợ BHXH của đơn vị sử dụng lao động là yếu tố quyết định. Bên cạnh
việc quản lý công tác chi trả một cách chặt chẽ, QLNN về chi trả BHXH còn phải
quan tâm đến công tác phát triển, mở rộng nguồn thu, quản lý tốt công nợ; không để
21


thất thoát quỹ BHXH. Đây là vấn đề cốt lõi mà cơ quan nhà nƣớc các cấp cần phải
quan tâm thực hiện.
- Ngoài ra, xây dựng và đổi mới các quy trình chi trả theo hƣớng hiện đại là

yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lƣợng phục vụ ngƣời tham gia, ngƣời thụ hƣởng
chính sách và quản lý quỹ BHXH trong giai đoạn hiện nay.
 Năm là, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội, xử
lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
- Do hoạt động BHXH liên quan đến các bên nhƣ ngƣời lao động, ngƣời sử
dụng lao động với những lợi ích khác nhau vì vậy họ thƣờnglợi dụng kẻ hở của
pháp luật BHXH để trục lợi cho mình. Mặt khác, chính sách BHXH bao gồm nhiều
nội dung chi tiết và phức tạp nên cả ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động cũng
nhƣ cơ quan BHXH khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện. Chính
vì vậy, thanh tra, kiểm tra các hoạt động BHXH là cần thiết nhằm đảm bảo cho các
bên liên quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của họ.
- Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật BHXH là
một trong những công cụ hữu hiệu giúp ngành BHXH hạn chế tình trạng nợ BHXH
và tình trạng trục lợi quỹ trong thanh toán chế độ. Đối với hoạt động chi trả BHXH,
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ BHXH còn có vai trò hết sức
quan trọng nhằm đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH đúng, đủ kịp thời, đến
tay ngƣời thụ hƣởng.
1.2.3. Cơ sở pháp lý quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo hiểm xã hội
 Sơ lượt quá trình hình thành chính sách bảo hiểm xã hội
Lịch sử hơn 50 năm phát triển chính sách BHXH (tính từ năm 1961 khi Chính
phủ ban hành Nghị định 218 về Điều lệ tạm thời các chế độ BHXH đối với công
nhân viên chức nhà nƣớc) và 20 năm đổi mới chính sách này, đã khẳng định đây là

22


chính sách quan trọng và ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành trụ cột chính của
hệ thống ASXH, là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ đổi mới, quan hệ

lao động theo cơ chế mới cũng từng bƣớc đƣợc hình thành. Ngày 30/6/1994 Quốc
hội nƣớc ta thông qua Bộ Luật Lao động, tại Chƣơng XII quy định về BHXH bắt
buộc, đã đánh dấu sự đổi mới của chính sách pháp luật về BHXH ở nƣớc ta phù hợp
với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Thi hành Bộ Luật Lao
động, ngày 26/01/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 12 quy định các chế độ
BHXH đối với cán bộ, công chức và ngƣời lao động trong các thành phần kinh tế và
Nghị định số 45 ngày 15/7/1995 quy định các chế độ BHXH đối với lực lƣợng vũ
trang.
Năm 2006, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật BHXH;
năm 2008, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật BHYT. Hai luật
này đã quy định chi tiết các chế độ BHXH và BHYT trên các quan điểm lớn của
Đảng và kế thừa những quy định phù hợp của pháp luật với nguyên tắc mức hƣởng
trên cơ sở mức đóng. Quản lý, hạch toán quỹ BHXH, BHYT độc lập và chia sẻ giữa
những ngƣời tham gia BHXH, BHYT với mục tiêu góp phần thực hiện ASXH, bảo
đảm mối tƣơng quan hợp lý giữa các đối tƣợng tham gia và ở các thời kỳ khác nhau,
hài hòa các chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Ngày 22/11/2012 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng
cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020
và ngày 29/3/2013 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 538/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012 - 2015 và
2020, đã xác định mục tiêu đến năm 2020 có trên 50% lao động tham gia BHXH,
40% tham gia BHTN, 80% dân số tham gia BHYT.
Năm 2014, Quốc hội nƣớc ta đã thông Luật BHXH năm 2014, tiếp tục thể chế
hóa quan điểm, đƣờng lối của Đảng trong các Nghị quyết 15-NQ/TW, Nghị quyết

23


21-NQ/TW và các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền đƣợc bảo đảm
ASXH và trách nhiệm của Nhà nƣớc đƣợc ghi tại Điều 34 và Điều 59.

 Các văn bản hướng dẫn chi trả bảo hiểm xã hội chuyên ngành
Hoạt động chi trả BHXH chủ yếu dựa vào các văn bản hƣớng dẫn chuyên
ngành của BHXH Việt Nam và BHXH thành phố Hồ Chí Minh. Sau đây là một số
văn bản cơ bản hƣớng dẫn chi trả BHXH đang có hiệu lực thi hành của BHXH Việt
Nam và BHXH thành phố Hồ Chí Minh:
- Quyết định 636/QĐ-BHXH, ngày 22/4/2016 “Quy định hồ sơ và quy trình
giải quyết hƣởng chế độ BHXH” và Quyết định 828/QĐ-BHXH, ngày 27/5/2016
“Quy định quản lý chi trả các chế độ BHXH, BHTN” theo Luật BHXH năm 2014
thống nhất từ BHXH Việt Nam cho đến BHXH tỉnh và BHXH huyện. Điểm cần lƣu
ý ở haiquyết định này là đã hƣớng dẫn cụ thể cách thức chi trả chế độ BHXH ngắn
hạn (chế độ ốm đau, chế độ thai sản và dƣỡng sức) trực tiếp vào tài khoản của ngƣời
lao động (trƣớc đây chỉ có một cách là chuyển cho đơn vị sử dụng lao động chi trả)
và cách thức chi chế độ BHXH dài hạn hàng tháng (hƣu trí, trợ cấp tuất, trợ cấp tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) qua hệ thống bƣu điện (trƣớc đây chi trả qua hệ
thống đại lý phƣờng, xã).
- Chƣơng trình số 4954/Ctr-BHXH ngày 08/12/2015 của BHXH Việt Nam về
công tác tuyên truyền năm 2016.Nội dung của công tác tuyên truyền: “tuyên truyền
ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích, tính ƣu việt của chính sách BHXH, BHYT đối với
mỗi ngƣời dân và toàn xã hội; tuyên truyền rõ trách nhiệm của các cấp ủy, lãnh đạo
các cơ quan đơn vị, trƣờng học, trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế” [5, tr.2].
- Công văn số 2388/BHXH-CSXH ngày 27/6/2013 “về việc tăng cƣờng công
tác quản lý nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng hƣởng chế độ ốm đau, thai sản,
BHXH một lần”, yêu cầu khi thẩm định hồ sơ hƣởng phải thực hiện kiểm tra, rà
soát kỹ các giấy tờ làm căn cứ hƣởng chế độ nhƣ giấy chứng nhận nghỉ việc hƣởng
BHXH, giấy ra viện, bệnh án, giấy chứng sinh, giấy khai sinh, thời gian đóng
24


BHXH theo đúng quy định. Khi giải quyết BHXH một lần nhất thiết phải tra soát

thông tin hƣởng hƣởng BHXH một lần thông qua phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ của
BHXH Việt Nam để tránh giải quyết trùng chế độ; thực hiện cập nhật dữ liệu đảm
bảo đầy đủ, đúng theo sổ BHXH và đối tƣợng tham gia BHXH bắt buộc hoặc
BHXH tự nguyện.
- Trên cơ sở các văn bản hƣớng dẫn của BHXH Việt Nam, BHXH thành phố
Hồ Chí Minh xây dựng quy trình tiếp nhận và giải quyết chi trả BHXH, trong đó có
các văn bản hƣớng dẫn nghiệp vụ nhƣ công văn 353/BHXH-CĐBHXH ngày
11/11/2014 hƣớng dẫn về hồ sơ và quy trình hƣởng chế độ ốm đau, thai sản, dƣỡng
sức từ ngày 01/01/2016; công văn 2370/BHXH-CĐ ngày 27/09/2016 hƣớng dẫn chi
trả trợ cấp ốm đau, thai sản, dƣỡng sức phục hồi sức khỏe qua tài khoản cá nhân của
ngƣời lao động; thông báo số 2242/TB-BHXH ngày 09/9/2016 về việc điều chỉnh
quy trình và phiếu giao nhận hồ sơ theo cơ chế một cửa, theo thông báo này các quy
trình tiếp nhận giải quyết chế độ có thay đổi về thủ tục hồ sơ, thời gian giải quyết
phù hợp với quy định mới của Luật BHXH năm 2014.
1.2.4. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nƣớc về chi trả bảo hiểm xã hội
 Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nƣớc đƣợc thiết lập trên cơ sở phân
định rành mạch chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan, tổ chức các cấp trong hệ
thống hành chính. Đối với ngành BHXH, hệ thống cơ quan BHXH từ trung ƣơng
đến địa phƣơng gồm BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh, BHXH huyện; chức năng,
nhiệm vụ và thẩm quyền của BHXH Việt Nam đƣợc Chính phủ quy định rõ trong
Nghị định 01/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016 (xem sơ đồ 1).
 Cơ quan QLNN về bảo hiểm xã hội đƣợc quy định tại Điều 8, Luật BHXH
năm 2014 bao gồm: “(1) Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã
hội; (2) Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hộichịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã hội. (3) Bộ, cơ quan ngang bộ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã
hội. (4) Bảo hiểm xã hội Việt Nam tham gia, phối hợp với Bộ Lao động -Thƣơng
25



×