Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 20 trang )

Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

Mục lục

1

Phần thứ nhất: Mở đầu

2

I.Đặt vấn đề

2

II. Mục đích nghiên cứu

2

Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề

3

I. Cơ sở lí luận của vấn đề

3


II. Thực trạng vấn đề

3

III. Các giải pháp giải quyết vấn đề

5

IV. Tính mới của giải pháp

15

V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

16

III. Kết luận, kiến nghị

17

Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến cấp trường – cấp huyện

20

Tài liệu tham khảo

19

Người thực hiện: Lê Hoài Vân1



Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Có ý kiến cho rằng: “Mỗi âm thanh, mỗi từ ngữ, mỗi quy tắc trong Tiếng
Việt đều là di sản quý báu mà ông cha ta đã để lại. Những di sản đó giúp mỗi
người chúng ta có hiểu biết, có nhân cáchđồng thời nuôi dưỡngcho cả dân tộc
trường tồn và phát triển…”. Tiếng Việt đóng một vai trò rất quan trọng trong
mỗi con người và nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người từ thuở bé.
Không chỉ dừng lại ở đó, Tiếng Việt còn là một môn học cần thiết nhất
trong bậc Tiểu học, học Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh hình thành và phát triển
tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, học sinh sẽ học được cách giao
tiếp, truyền đạt tư tưởng cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Để
có được điều đó thì đòi hỏi học sinh phải có vốn từ và khả năng trau dồi vốn từ
thông qua từng hoạt động học và giao tiếp.
Qua quá trình giảng dạy lớp 2 nói chung và môn Tiếng Việt lớp 2 nói
riêng tôi nhận thấy rằng: Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 giúp học sinh
hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng thực hành giao tiếp cụ thể. Nội
dung tài liệu tinh giản, tích hợp các kiến thức thiết thực mang tính cập nhật, phù
hợp với tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học trong thời đại mới hiện nay.
Hơn nữa, từ là một công cụ để cấu thành ngôn ngữ, để các em hiểu được
nghĩa của từ đã khó, còn phải biết dùng từ như thế nào cho đúng ngữ pháp, phù
hợp với hoàn cảnh giao tiếp lại càng khó hơn.
Xuất phát từ thực tế từ năm học 2016 – 2017, tôi nhận thấy rằng để các
em nắm vững phân môn Luyện từ và câu là điều hết sức quan trọng. Làm nền
móng vững chắc cho việc tiếp thu các kiến thức cao hơn ở lớp học trên. Vì vậy
trong năm học 2017 – 2018, để khắc phục những khó khăn mà học sinh đang
mắc phải, tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học
sinh lớp Hai Trường Nguyễn Văn Trỗi”để giúp tôi và đồng nghiệp cùng tháo

gỡ những khó khăn cũng như những băn khoăn, trăn trở trong quá trình giảng
dạy nhằm phát huy khả năng sử dụng vốn từ của học sinh.
II. Mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ học tập, nhu cầu khám phá những cái mới, nhu cầu giao tiếp
buộc học sinh phải tăng cường vốn từ. Một trẻ em có vốn từ phong phú sẽ dễ
dàng tiếp thu bài giảng, tiếp thu kiến thức mới, luôn hoạt ngôn, tự tin trong giao
tiếp. Nhưng ngược lại, chỉ với một vốn từ nghèo nàn, các em sẽ tự ti, khó khăn
trong giao tiếp. Dần dần sinh ra mặc cảm, ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Vì
thế, làm giàu vốn từ là một trong những nội dung cần thiết nhất ở lứa tuổi tiểu
học.
Qua quá trình giảng dạy và học tập tôi đã hiểu được những cơ sở lí luận
trong công tác giáo dục học sinh, đặc biệt là chất lượng dạy và học phân môn
Luyện từ và câu lớp 2. Tôi đã tìm hiểu những biện pháp thực tế trong quá trình
giảng dạy phân môn quan trọng này, nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh.
Người thực hiện: Lê Hoài Vân2


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Nhưng trong quá trình dạy, tôi nhận ra học sinh rất khó khăn trong việc phân
biệt câu, chữ và tiếng giữa các từ trong câu, nhận biết câu trong quá trình học và
làm bài tập cũng như việc lựa chọn, sử dụng các từ để đặt câu theo đúng mục
đích nói.
Mặc khác, nhiệm vụ mà giáo viên luôn đặt lên hàng đầu là làm sao để
nâng cao chất lượng khi dạy phân môn Luyện từ và câu. Có giảng dạy tốt thì
chất lượng học sinh mới được nâng cao. Kết quả học tập của các em là câu trả
lời chính xác nhất đối với giáo viên trong quá trình truyền đạt kiến thức đến học
sinh. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần truyền đạt hết sức mình để
các em tiếp thu bài một cách hiệu quả.
Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Để có một tiết học tốt trên lớp đã khó nhưng để đạt một tiết Luyện từ và
câu còn khó hơn nhiều. Học sinh lớp 2 mới làm quen với phân môn này nên sẽ
có nhiều yếu tố khiến các em phải quan tâm. Trong chương trình học, có những
bài bao gồm mở rộng vốn từ và dùng từ đặt câu thì rất phức tạp.Mỗi bài trong
tiết Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng. Giáo viên phải lựa chọn
phương pháp sao cho linh hoạt, phải làm chủ được nội dung tiết dạy.
Trong quá trình giao tiếp nhiều khi các em dùng từ đặt câu chưa được
chính xác, còn lủng củng, chưa phù hợp với hoàn cảnh vì các em còn nhỏ, tư
duy chưa phát triển cao, các em còn trong tình trạng nghĩ gì nói nấy. Chưa có sự
lựa chọn khi dùng từ, câu cho thích hợp, chưa có sự trao chuốt trong cách dùng
từ, câu trong các câu nói. Chính vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên để các
em phát triển theo hướng tích cực.
Không có phương pháp nào là “vạn năng”, là “tuyệt đối” hiệu quả với
từng đối tượng học sinh, phù hợp với mọi quá trình dạy. Chỉ có sự tìm tòi sáng
tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới phát huy được tính tích cực
của mỗi học sinh và đạt được sự thành công qua mỗi bài dạy. Vốn từ các em trở
nên đa dạng, phong phú khi các em phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng
tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự nhiệt tình của người giáo viên sẽ
mang lại kết quả hoàn hảo nhất.
II.Thực trạng vấn đề
1. Thuận lợi
Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là một trong những trường có truyền
thống hiếu học, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, trang thiết bị đồ dùng dạy
học cần thiết luôn đầy đủ cho giáo viên và học sinh.
Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và
các hình thức dạy học, đặt công tác bồi dưỡng cho giáo viên lên hàng đầu.
Giáo viên tích cực học hỏi để tìm ra các phương pháp dạy học mới, lấy
học sinh làm trung tâm.


Người thực hiện: Lê Hoài Vân3


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Lớp tôi chủ nhiệm được học 9 buổi trên tuần nên giáo viên có nhiều thời
gian để bồi dưỡng kiến thức cho học sinh. Đa số học sinh ngoan ngoãn, biết
vâng lời thầy cô giáo.
2. Khó khăn
Ở lớp 1 trong quá trình học Công nghệ Tiếng Việt các em được học
nghiêng về ngữ âm, nhiệm vụ chính của các em là đọc, chưa cần hiểu nhiều về
nghĩa. Nhưng lên lớp 2 các em phải tiếp thu thêm một khối kiến thức khổng lồ
đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu. Chính vì thế các em còn bỡ ngỡ, lúng
túng trong quá trình học cũng là điều dễ hiểu.
Trong thực tế giảng dạy và qua các lần thao giảng, bản thân tôi nhận thấy
các hình thức tổ chức dạy học trong phân môn Luyện từ và câu còn đơn điệu,
rập khuôn máy móc theo sách hướng dẫn, ít có tính đổi mới, sáng tạo nên học
sinh chưa hứng thú, giờ học trở nên nặng nề, bắt buộc dẫn đến chất lượng của
tiết học chưa cao.
Qua kinh nghiệm trong nhiều năm giảng dạy và quan sát thực tế, tôi nhận
thấy rằng học sinh khi học Luyện từ và câu thường mắc phải những nhược điểm
sau:
- Về từ: Học sinh tìm từ còn sai yêu cầu, hiểu nghĩa từ còn mơ hồ, phát
hiện từ loại chậm, số lượng từ tìm được ít, còn nhầm lẫn giữa s/x, r/d/gi.
- Về câu: Đặt câu theo mẫu còn nhầm lẫn, chưa rõ nghĩa, còn thừa hoặc
thiếu. Giao tiếp với nhau thiếu chủ - vị, chưa có hình ảnh và sắc thái cảm xúc.
Từ những thực trạng tôi đã nêu trên, vào cuối năm học 2016 -2017 tôi cho các
em làm một bài khảo sát chất lượng và nhận được kết quả không như mong đợi:
Xếp loại


Số lượng

Tỉ lệ

Nhận xét

Hoàn thành
tốt

3

10%

Vốn từ phong phú, vận dụngtốt vốn từ
trong giao tiếp.

Hoàn thành

15

50%

Vốn từ chỉ dừng lại ở mức cơ bản, hiểu
được nội dung nhưng vận dụng vốn từ
trong giao tiếp còn hạn chế

Chưa hoàn
thành

12


40%

Vốn từ quá ít, không biết sử dụng từ để
giao tiếp.

Với những cơ sở lí luận và căn cứ vào thực tiễn như đã nêu trên, từ đầu
năm học 2017 – 2018, tôi đi sâu vào khả năng phân biệt từ và câu, khả năng
nhận biết từ và cách dùng từ để đặt câu của học sinh lớp 2, qua đó thấy được
những ưu điểm và tồn tại trong quá trình học để tìm ra các giải pháp, nhằm khắc
phục những tồn tại mà học sinh đang mắc phải. Để nâng cao chất lượng dạy và
học phân môn Luyện từ và câu cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp
2 nói riêng.
III.Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Người thực hiện: Lê Hoài Vân4


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Qua nhiều năm giảng dạy lớp 2, từ những mong muốn giúp học sinh có
được vốn từ phong phú và phong thái tự tin trong giao tiếp. Tôi đã mạnh dạn
đưa ra những giải pháp sau:
- Giải pháp: Tăng cường vốn từ cho học sinh qua các dạng bài tập.
- Giải pháp: Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu.
- Giải pháp: Tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm.
1.

Tăng cường vốn từ cho học sinhqua các dạng bài tập

Trong chương trình học Luyện từ và câu lớp 2, các dạng bài tập chủ yếu

là tìm từ, đối đáp và đặt câu theo mẫu. Tuy nhiên các dạng bài tập này trong tài
liệu hướng dẫn thường rập khuôn, máy mócvà được biên soạn trong phạm vi
mọi đối tượng học sinh đều có khả năng làm được. Nên học sinh khó có thể mở
rộng vốn từ cho mình. Vì vậy, tôi đã dựa vào các dạng bài tậpđể phân hóa thêm
nhiều hoạt động, với mong muốn học sinh sẽ tích lũy được một nguồn vốn từ
phong phú. Trong giải pháp này, tôi xây dựng ba biện pháp:
1.1. Hướng dẫn cho học sinh sử dụng các mẹo để tránh lẫn lộn giữa vần
s/x, r/d/gi khi tìm từ
Trong quá trình tìm từ, đặt câu, đối với học sinh lớp 2 việc phân biệt giữa
các phụ âm đầu như s/x , r/d/gikhông phải là việc đơn giản, mặt khác do giọng
nói đặc trưng của từng vùng miền nên ngôn ngữ nói của các em sẽ mang tính địa
phương và sẽ mang luôn cả đặc trưng đó vào ngôn ngữ viết. Dẫn đến các từ, các
câu các em tìm được hầu hết là bị sai.
Ví dụ: Học sinh làm hoạt động [5. Tr 85] bài 6C tài liệu Hướng dẫn học
Tiếng Việt 2 tập 2A. Yêu cầu của hoạt động là: Tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/x.
Nhưng qua quan sát bài làm, tôi thấy học sinh còn nhầm lẫn s/xrất nhiều.

Hình 1: Bài làm của học sinh còn nhầm lẫn giữa s/x
Để khắc phục những lỗi mắc phải đó tôi đã hướng dẫn học sinh qua các
bước
Người thực hiện: Lê Hoài Vân5


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

- Bước 1: Sửa sai bài làm cho học sinh
- Bước 2:. Tôi yêu cầu các em tiếp tục tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/xtheo
nhóm. Tiếp theo tôi nhận xét bài làm của các nhóm và đưa các từ đúng lên bảng
chính và cùng học sinh tìm thêm nhiều từ có chứa tiếng bắt đầu bằng s/x.
- Bước 3: Dẫn dắt và chỉ ra cho học sinh các mẹo để kết hợp với âm s/x:

+ Mẹo kết hợp âm đệm:S không đi với các vần oa, oe, uê, oăn chỉ có x là
đi với các vần này.
Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét,
xuề xòa, xuyên qua…Nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ tôi đã lưu ý cho
học sinh như rà soát, kiểm soát, soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu
trong từ láy: suýt soát, sờ soạng, sột soạt…
+Mẹo láy âm:S không láy âm với các âm đầu khác, chỉ có x mới có khả
năng này. Ví dụ như: Lì xì, xích mích, lộn xộn, loăn xoăn, bờm xờm…
+ Tên các đồ dùng liên quan đến công việc nấu nướng, ăn uống, các loại
thức ănthường viết với x như: Xôi, xà lách, xúc xích, lạp xưởng, cái xoong, que
xiên…nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ như cây sả, sợi mì…
+ Đa số các danh từ chỉ đồ vật, cây cối, đại từ đều viết với snhư: Sông,
suối, ông sư, bà sãi, cây sung, sầu riêng, cấy sồi, cây sim, hoa sen, hoa súng,
cái sọt, sợ dây, ông sao, khẩu súng…Nhưng trong trường hợp này vẫn có một số
từ ngoại lệ như: cây xoan, cây xoài, dây xích, cái xẻng, mùa xuân…
Tương tự đối với các bài tập tìm từ có chứa tiếng bắt đầu bằng d/r/gi tôi
cũng hướng dẫn học sinh với phương pháp trên:
- Đối với d/r/gi:
+ Mẹo về âm đệm: Chỉ có d mới kết hợp với âm đệm, còn r và gi không
kết hợp với các vần này như: Hậu duệ, kiểm duyệt, duy nhất, duy trì nhưng có
một trường hợp ngoại lệ là roa trong cu – roa.
+ Mẹo run rẩy – rừng rực: Những từ láy điệp âm đầu r chỉ sự rung động ở
nhiều cung bậc khác nhau, những sắc thái, ánh sáng tươi, chói như: Rả rích, rì
rào,răng rắc, rầm rập, rón rén,rập rình, run rẩy, rung rinh, rạo rực, rực rỡ,
rạng rỡ, rói rói, rừng rực…
Sau một thời gian nắm được các mẹo kết hợp này, trong những hoạt động
sau các em tiến bộ hơn rất nhiều. Không còn nhầm lẫn khi tìm từ có chứa tiếng
bắt đầu bằng s/x, r/d/gi, và từ các em tìm được phong phú và đa dạng hơn.

Người thực hiện: Lê Hoài Vân6



Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Hình 2: Bài làm của học sinh sau khi nắm được mẹo kết hợp với âm s/x
1.2. Mở rộng vốn từ qua dạng bài tập hỏi - đáp
Học sinh muốn sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ được những suy nghĩ, cảm
xúc của bản thân với người xung quanh, thì đòi hỏi các em cần một vốn ngôn
ngữ nhất định, trong đó có vốn từ. Vốn từ càng phong phú, các em càng thể hiện
được một cách chính xác, đầy đủ và tinh tế những những điều mình muốn bày
tỏ. Qua đó sẽ nâng cao được hiệu quả giao tiếp. Chất lượng của một cuộc giao
tiếp luôn luôn tỉ lệ thuận với vốn từ của các em. Chính vì vậy, làm phong phú
vốn từ cho các em là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết.
Trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2, phần lớn là dạng bài tập hỏi đáp, đối - đáp theo tình huống. Đây là dạng bài tập nhằm củng cố vốn từ cho học
sinh, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Nên tôi đã dựa vào thế
mạnh của dạng bài tập này và đưa ra các hoạt động phân hóa để trau dồi thêm
vốn từ, kỹ năng đối thoại cho các em.
Ví dụ 1: Trong hoạt động [4. Tr 20], bài 11A, tài liệu Hướng dẫn học
Tiếng Việt 2, tập 1B, nhiệm vụ của học sinh là đối đáp về tác dụng của các đồ
vật và nội dung của cuộc trò chyện trong tài liệu hướng dẫn là:
- Học sinh A: Cái ghế dùng để làm gì?
- Học sinh B: Cái ghế dùng để ngồi.
Nhưng nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì cuộc đối đáp sẽ không thú vị
và không thể khai thác được sự sáng tạo của học sinh trong khi dùng các cụm
từ, các câu để đối đáp. Nên tôi đã hướng dẫn học sinh mở rộng cuộc trò chuyện
dựa trên nội dung sẵn có để cuộc trò chuyện sinh động, sôi nổi hơn.
- Học sinh A: Vậy bạn có biết chiếc ghế này được làm bằng gì không?
- Học sinh B: Chiếc ghế này làm từ gỗ và được đôi bàn tay khéo léo của
thợ mộc làm ra đấy.
Người thực hiện: Lê Hoài Vân7



Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

- Học sinh A: Những người thợ mộc giỏi quá! Họ làm ra những chiếc ghế
đẹp thế này chắc vất vả lắm.
- Học sinh B: Nên khi sử dụng những chiếc ghế này, mình phải biết giữ
gìn chúng nhé!
Qua nhiều tiết học như vậy thì chắc chắn các em sẽ tích lũy dần cho mình
không những là một vốn từ phong phú mà còn là kỹ năng chững chạc trong giao
tiếp, ứng xử nơi công cộng.
Ví dụ 2: Yêu cầu của hoạt động [5.tr16], bài 19B, tài liệu Hướng dẫn học
Tiếng Việt 2, tập 2A làhọc sinh đóng vai và đáp lời trong tình huống chị phụ
trách Đội nói chuyện với các em nhỏ.
Khi thực hiện yêu cầu này, tôi không chọn học sinh trong lớp đóng vai
chị phụ trách Đội mà tôi nhờ một học sinh lớp 5 tham gia hoạt động cùng các
học sinh trong lớp. Nội dung đối đáp theo trong tài liệu hướng dẫn là:
- Chị phụ trách Đội: Chào các em
- Các bạn học sinh: Chúng em chào chị ạ!
- Chị phụ trách Đội: Chị tên là Hương, chị được cử phụ trách sao của các
em.
- Các bạn học sinh: Ôi ! thích quá!
Sau khi đối đáp hết nội dung có sẵn trong bài, tôi gợi mở, hướng dẫn các
em thay thế các câu phong phú hơn những vẫn giữ được nghĩa của bản gốc để
cuộc trò chuyện sôi nổi, lí thú hơn. Để hoạt động này mang lại hiệu quả, tôi tiến
hành mở rộng vốn từ bằng việc gợi ý cho học sinh một số từ cho câu nói thêm
sinh động, lôi cuốn người nghe nhưng vẫn không làm mất đi nghĩa của câu
muốn nói. Đối với phương pháp dạy này, bước quan trọng để tạo hiệu quả cho
giờ dạy chính là hướng dẫn cho học sinh hiểu nghĩa của câu và tìm được, nếu
học sinh chưa tìm được câu tương ứng thì tôi sẽ gợi mở và cung cấp để học sinh

tìm được câu thay thế phù hợp nhất. Chẳng hạn như:
- Chị phụ trách Đội: Chị lại được gặp các em trong tiết sinh hoạt sao tuần
này rồi!
- Các bạn học sinh: Chúng em rất vui khi được gặp lại chị ạ!
- Chị phụ trách Đội: Chị cũng rất vui, các em còn nhớ chị tên gì không
nào?
- Các bạn học sinh: Dạ có ạ! Chị tên là Hương. Chị được cô Tổng phụ
trách cử xuống sinh hoạt Sao với chúng em ạ!


Người thực hiện: Lê Hoài Vân8


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Hình 3: Học sinh lớp 5 tham gia đóng vai cùng các em
Qua cuộc trò chuyện trên, khi giao tiếp với chị lớp 5 các em sẽ mạnh dạn
hơn, không còn rập khuôn, máy móc theo nội dung bài học nữa mà chủ động xử
lí các tình huống nhạy bén, linh hoạt hơn.
Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt Sao, tôi cũng đưa ra các tình huống
theo chủ điểm trong tháng để các em đóng vai với nhau. Qua đó sẽ giúp các em
mạnh dạn, tự tin hơn. Đồng thời, rèn luyện cho các em kỹ năng lễ phép, biết
cách xưng hô hợp lí, dùng câu đầy đủ khi giao tiếp.
1.3 Tăng cường vốn từ của học sinh qua dạng bài tập đặt câu theo mẫu
Ở lớp 2, học sinh bước đầu chập chững làm quen với việc đặt câu theo
mẫu thật sự rất mới mẻ và hơi khó khăn. Tuy nhiên với sự thông minh và ham
học hỏi, cộng với sự hướng dẫn của giáo viên thì học sinh vẫn hoàn thành được
nội dung học của mình theo mẫu đưa ra. Nhưng nếu như học sinh chỉ đặt câu
dừng lại ở mức độ đó thì vô tình dẫn các em rơi vào tình trạng máy móc, thiếu
sáng tạo. Câu văn mà các em đặt khô khan và sáo rỗng, không có cảm xúc.

Luyện tập đặt câu giúp các em nắm vững được cấu trúc của câu để vận
dụng tốt vào giao tiếp, nhưng làm thế nào để thu hút sự chú ý người nghe và để
người nghe hiểu được hết nội dung mình muốn truyền tải mới là việc khó. Vì
vậy, tôi đã chú ý đến việc trau dồi vốn từ cho các em ngay từ đầu. Và để làm tốt
Người thực hiện: Lê Hoài Vân9


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

được đều này tôi đã đựa vào dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai là gì?”, “Ai thế
nào?”, “Ai làm gì?” để bổ sung thêm vốn từ cho các em.
Ví dụ: Khi dạy dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai làm gì?”, tôi thấy hầu
hết học sinh đều đặt được câu theo mẫu nhưng câu văn của các em chưa có hình
ảnh, chưa có sự sáng tạo. Khi dạy đến hoạt động [4. Tr46], bài 13A, tài liệu
Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 1B với các câu và điền từng bộ phận của mỗi
câu vào bảng theo mẫu:
a. Cậu bé nhìn lên tán lá.
b. Cậu bé òa khóc.
c. Họ đem hạt gieo trồng khắp nơi.
d. Bố còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn.
Ai? (nhóm 1)

Làm gì? (nhóm 2)

Cậu bé

nhìn lên tán lá.

Cậu bé


òa khóc.

Họ

đem hạt gieo trồng khắp nơi.

Bố

còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc
đại đóa đẹp mê hồn.

Với yêu cầu này của bài tập, tôi thấy học sinh đều hoàn thành, nhưng với
mong muốn học sinh của mình tích lũy thêm được nhiều vốn từ. Tôi đã tiếp tục
thực hiện theo các bước sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh đặt thêm các câu theo mẫu “Ai làm gì?” Đa số
mọi học sinh đều đặt được và những câu các em tìm được là:
+ Bạn Hoa làm bài tập.
+ Con hổ có bộ lông rất đẹp.
+ Bà em nhai trầu.
+ Học sinh đang học thể dục.
Bước 2: Sau đó, tôi yêu cầu các em tiếp tục chia các câu vừa đặt được vào
tiếp trong ô ở phần bài tập.
Ai? (nhóm 1)

Làm gì? (nhóm 2)

Cậu bé

nhìn lên tán lá.


Cậu bé

òa khóc.

Họ

đem hạt gieo trồng khắp nơi.

Bố

còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc
đại đóa đẹp mê hồn.

Người thực hiện: Lê Hoài Vân10


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Bạn Hoa

làm bài tập.

Con hổ

có bộ lông rất đẹp.

Bà em

nhai trầu.


Học sinh

đang học thể dục.

Tiếp đến tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh:
+ Bộ phận trả lời câu hỏi “Ai?” là những từ thuộc nhóm nào?
+ Học sinh trả lời: Nhóm 1
+ Bộ phận trả lời câu hỏi “Làm gì? là những từ thuộc nhóm nào?
+ Học sinh trả lời: Nhóm 2
Sau khi các em trả lời tốt các câu hỏi trên, tôi cho các em trực tiếp vận
dụng để nối các từ ở nhóm 1 và các cụm từ ở nhóm 2 để tạo thành câu có nghĩa.
Ví dụ:
+ Cậu bé làm bài tập.
+Bà em đem hạt gieo trồng khắp nơi.
+ Học sinh làm bài tập.
+ Con hổ nhìn lên tán lá.
Tôi thấy học sinh của mình rất hào hứng khi ghép câu. Từ những câu có
sẵn, các em đã cắt, ghép được vô số câu khác với câu mẫu nhưng vẫn giữ đúng
nghĩa, đúng cấu trúc câu. Để thử xem học sinh của mình có nắm được bài hay
không, tôi đưa ra câu trước lớp là “Con hổ đang học thể dục” thì cả lớp cười ồ
lên thích thú và cho rằng câu tôi vừa sắp xếp được là chưa hợp lí và sai nghĩa.
Qua hoạt động này, sẽ giúp các em sàng lọc để dùng từ đặt câu chính xác, hợp lí
và có nghĩa. Hơn thế nữa trong hoạt động này những học sinh đạt mức chưa
hoàn thành cũng sắp xếp được rất nhiều câu có nghĩa.
- Bước 4: Sau khi học sinh đã nắm chắc được mẫu câu “Ai làm gì”. Tôi
muốn câu văn của các em có hình ảnh và giàu cảm xúc hơn.
Câu văn có hình ảnh là câu văn mà ngoài hai bộ phận chính làm nòng cốt
còn có thêm một số bộ phận phụ đi kèm mà ở các lớp học trên có khái niệm định
ngữ và bổ ngữ. Mục đích hướng cho học sinh đặt câu có hình ảnh, có sắc thái
biểu cảm, là bước đầu giúp các em cảm nhận được lời nói của mình đối với

người nghe. Quay trở lại với những câu các em vừa tìm và sắp xếp được, tôi tiếp
tục khai thác học sinh bằng các câu hỏi, cụ thể như:
Từ câu:Học sinh đang học thể dục. Bạn nào hãy thêm một số từ nữa để
câu văn này hay hơn? Các em rất sôi nổi trình bày ý kiến của mình như:
+ Học sinh đang học thể dục, tiết học rất vui.
+ Học sinh đang học thể dục, các bạn học rất tích cực.
Người thực hiện: Lê Hoài Vân11


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

+ Hôm nay là thứ hai, học sinh đang học thể dục.
Hoặc với câu:Con hổ có bộ lông rất đẹp. Tôi cũng hướng dẫn như trên và
thu thập được rất nhiều câu từ học sinh
+ Con hổ có bộ lông rất đẹp, nó có màu vàng và đen.
+Con hổ có bộ lông rất đẹp, nó là chúa tể rừng xanh.
+ Con hổ có bộ lông rất đẹp, trông nó mới oai vệ làm sao!
Với cách khai thác như trên, tôi đã giúp học sinh đặt được vô số câu được
chuyển thể từ những câu theo mẫu. Rõ ràng những câu văn các em vừa hình
thành đều mang hình ảnh và sắc thái cảm xúc. Nhưng thực tế, tôi thấy những câu
văn như thế này được đặt chủ yếu từ những học sinh đạt mức hoàn thành tốt.
Nhưng tôi tin rằng, với sự kiên trì và khai thác một cách khéo léo, thì dần dần
học sinh đạt mức hoàn thành và chưa hoàn thành cũng sẽ đặt được những câu
như vậy
Đối với mẫu câu “Ai là gì?” và “Ai thế nào”. Tôi cũng hướng dẫn học
sinh theo phương pháp trên và mang lại hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên, muốn biện
pháp này đạt được hiệu quả, giáo viên cần có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó
trong một thời gian dài mới mang lại thành công.
3. Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu
Như chúng đã biết, hứng thú là tiền đề của sự tự giác. Hứng thú và tự giác

là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Nếu giáo viên khơi gợi được sự hứng thú và
tự giác của học sinh thì các em sẽ phát huy được tính tích cực một cách triệt để
nhất. Trong giải pháp này, tôi đưa ra 2 biện pháp:
3.1. Biện pháp điều chỉnh các hoạt động để học sinh tích cực học tập
Các hoạt động tìm từ trong tài liệu hướng dẫn, yêu cầu đưa ra thường là
các nhóm tìm các từ ngữ và viết vào bảng nhóm, nhưng trong quá trình quan sát
các em hoạt động. Qua nhiều tiết học tôi thấy người làm việc chính là các nhóm
trưởng, các em rất tích cực khi tìm từ nhưng bên cạnh đó một số thành viên
trong nhóm lại ỷ lại không hoạt động. Vì thế tôi đã điều chỉnh các hoạt động này
thành hình thức thi trước lớp,để tất cả học sinh cùng cố gắng, từ đó phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo trong mỗi học sinh.
Ví dụ: Ở hoạt động [1.tr 108] bài 26B, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt
lớp 2 tập 2C. Yêu cầu của hoạt động là viết vào bảng nhóm các loài cá chứa
tiếng bắt đầu bằng tr hoặc ch. Tôi đã điều chỉnh các hoạt động này thành hoạt
động thi trước lớp và chia lớp thành hai đội có số lượng và trình độ đồng đều với
nhau, sau đó từng bạn của hai đội sẽ lên bảng lớp viết các từ mình tìm được (từ
vừa tìm không giống với các từ đội bạn đã tìm được trước đó). Sau đó giáo viên
sẽ tính số từ hợp lệ của cả hai đội, đội có nhiều từ đúng hơn sẽ có quyền đưa ra
yêu cầu dành cho đội kia.

Người thực hiện: Lê Hoài Vân12


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Hình 4 và 5: Học sinh rất tích cực khi tham gia thi tìm từ
Sau khi tổ chức hoạt động như vậy, tôi thấy các em rất hào hứng khi tham
gia, các em không còn nói chuyện riêng mà cố gắng tìm từ cho mình. Từ đó khả
năng tìm từ của các em được phát triển, không còn thụ động, dựa dẫm vào nhóm
trưởng, qua đó cũng rèn luyện cho các em tính đoàn kết và trách nhiệm của

mình đối với tập thể.
3.2. Biện pháp tăng cường vốn từ cho học sinh bằng phương pháp trực
quan
Đối với học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, cách dùng từ
của các em rất hạn chế, chưa phù hợp với mục đích giao tiếp. Vì thế tôi cố gắng
bổ sung một số vốn từ cho học sinh giúp các em phân tích, lựa chọn từ ngữ sao
cho hợp lí. Trong quá trình dạy Luyện từ và câu, tôi thường xuyên sử dụng đồ
dùng trực quan để hướng dẫn học sinh.
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học,
nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm. Trên cơ
sở trực tiếp quan sát các đồ dùng trực quan minh họa cho sự vật.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu các hình ảnh. Qua quan sát vật thật, học sinh sẽ phối hợp nhiều giác quan để
quan sát sự vật, hiện tượng, từ đó hình ảnh sẽ được giữ lại đặc biệt, vững chắc
trong trí nhớ, giúp các em hứng thú trong học tập, phát triển khả năng tập trung,
sự tò mò, khám phá, khai thác tối đa tính tự lực, tích cực của học sinh.
Kỹ năng quan sát rất cần thiết trong việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
Học sinh có thể quan sát theo sự hướng dẫn của giáo viên hoặc tự tìm tòi, quan
sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Khi sử dụng phương pháp này, tôi chuẩn bị thật kỹ đồ
dùng cần sử dụng để tập trung sự chú ý của học sinh, bên cạnh đó tôi cũng dùng
phương pháp gợi mở để dần dần dẫn dắt các em tìm được từ theo đúng yêu cầu.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động [1.tr 26], tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2
tập 2B, yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của cây. Tôi đã sử dụng phương
pháp dạy học trực quan.

Người thực hiện: Lê Hoài Vân13


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi


Hình 6: Sử dụng vật thật để học sinh hình dung rõ hơn các bộ phận của cây
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát: Tôi chuẩn bị một cây có đầy đủ bộ
phận để học sinh nắm rõ đặc điểm chung của cây.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát: Sau khi yêu cầu học sinh quan sát
tổng thể cây, tôi hướng dẫn học sinh quan sát từ dưới lên trên của cây.
Bước 3: Báo cáo kết quả sau quan sát: Các nhóm sẽ báo cáo kết quả thảo
luận của mình sau khi quan sát cây, nếu các em trả lời chưa chính xác hoặc còn
thiếu các bộ phận của cây tôi sẽ gợi mở cho các em bằng những câu hỏi như “Bộ
phận nào của cây nằm trong lòng đất, hút chất dinh dưỡng từ dưới đất lên để
nuôi sống cây? Bộ phận nào to khỏe nhất của cây, gần tiếp giáp với đất? Lá mọc
ra từ bộ phận này của cây?...Thì chắc chắn học sinh sẽ biết được đó là rễ cây,
thân cây, cành cây…
Bước 4: Chốt lại kết quả học sinh vừa quan sát được: Dựa trên kết quả
vừa tìm được, tôi cùng học sinh củng cố lại một lần nữa bằng cách chỉ vào từng
bộ phận của cây thật để học sinh khắc sâu hơn kiến thức vừa được lĩnh hội.
Để dạy tốt phương pháp này, bản thân tôi cần hướng dẫn học sinh quan
sát nhiều đối tượng khác nhau: bức tranh, con vật, cây cối đồ vật thật. Khi các
em biết quan sát tức là các em biết sử dụng các giác quan để nhận biết vật mình
đang quan sát có hình dạng, màu sắc như thế nào. Khi quan sát, đầu tiên các em
phải nhận định được mình đang quan sát cái gì? đồ vật gì? con gì?...tiếp đến
phải biết nhìn theo nhiều góc độ khác nhau để tìm hiểu rõ về đối tượng mình
đang quan sát.Cuối cùng là diễn đạt những điều quan sát được bằng ngôn ngữ có
tính tạo hình.

Người thực hiện: Lê Hoài Vân14


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Sau khi sử dụng phương pháp trực quan để học sinh mở rộng vốn từ, tôi

thấy các em rất hào hứng khi học tập, thích được khám phá ra những khái niệm
cụ thể về đối tượng được quan sát, các em đã tìm được và khắc sâu những từ
ngữ mới mà các em chưa được dùng tới bao giờ.
4. Biện pháp tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 được phân bố theo các chủ điểm, đó là: Em
là học sinh, bạn bè, trường học, thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn trong
nhà, bốn mùa, chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân.
Qua mỗi chủ điểm được học, để khắc sâu hơn kiến thức cho các em, tôi đã
chuẩn bị và sưu tầm các câu đố liên quan đến nội dung các em vừa được học để
các em tự suy luận ra câu trả lời từ đó kiến thức sẽ được khắc sâu hơn.
Ví dụ: Sau khi các em học xong chủ điểm “cây cối”. Tôi đã đưa ra câu đố
cho các em như:
Cây gì thẳng tắp trước nhà?
Trái ngon dành tặng riêng bà, bà ơi.
(Là cây cau)
Hè về hoa đỏ như son
Hè đi thay áo xanh non mượt mà
Bao cánh tay tỏa rộng ra
Như vẫy như đón bạn ta tới trường?
(Là cây hoa phượng)
Có múi bằng số cánh sao
Có trong cổ tích ai nào đoán ra?
(Là cây khế)
Học sinh sẽ làm việc nhóm hoặc cá nhân để tìm ra câu trả lời chính xác
nhất, tôi thấy các em rất sôi nổi, hào hứng khi tham gia hoạt động này. Qua đó sẽ
trao dồi thêm tư duy tìm tòi, học hỏi, khắc sâu hơn kiến thức cho các em, bồi
dưỡng năng lực hiểu từ chính xác, khoa học, tích cực hóa vốn từ, hình thành và
củng cố kỹ năng sử dụng từ. Không những thế, ở những chủ điểm sau các em
còn chủ động trong việc tìm câu đố, nhờ thêm sự trợ giúp của phụ huynh tìm các
câu đố để lên lớp trao đổi với các bạn. Nhờ đó ngân hàng câu đố của lớp ngày

càng đa dạng, phong phú giúp các em nắm vững hơn kiến thức mình đã được
học.
IV. Tính mới của giải pháp
Với một người giáo viên tâm huyết với nghề, việc nâng cao chất lượng
dạy và học nói chung và việc mở rộng vốn từ cho học sinh nói riêng là nhiệm vụ
được đặt lên hàng đầu, nên trong đề tài này điều tôi mong muốn là học sinh của

Người thực hiện: Lê Hoài Vân15


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

mình có được vốn từ phong phú, đa dạng, sử dụng từ ngữ chính xác, linh hoạt để
các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp.
Qua nhiều năm giảng dạy, từ những khó khăn mà bản thân cùng học sinh
đang gặp phải, tôi đã xây dựng các giải pháp để cải thiện vốn từ còn hạn chế của
học sinh, để các em thấy hứng thú và yêu thích khi học phân môn Luyện từ và
câu.
Ở đề tài này, tôi xây dựng 3 giải pháp, trong đó có một số giải pháp mới
mà bản thân tôi đã xây dựng và thực hiện như sau:
Tôi đưa giải pháp “Tăng cường vốn từ cho học sinh qua các dạng bài tập”
vào đề tài, vì tôi hiểu việc mở rộng vốn từ cho học sinh không dừng lại ở việc
cho học sinh nắm lí thuyết, mà còn phải nắm được những kỹ năng, hiểu biết và
quy tắt sử dụng từ Tiếng Việt. Vì thế học sinh phải có giai đoạn thực hành thông
qua các dạng bài tập. Qua bài tập, giáo viên sẽ đưa học sinh vào những hoạt
động thực tiễn được tính toán và sắp xếp hợp lí. Có như thế mới giúp học sinh
đạt tới những kỹ năng nhất định. Như tâm lí học hiện đại đã kết luận: Chỉ trong
hoạt động thì kỹ năng mới hình thành và phát triển.
Tôi đã đưagiải pháp “Tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm” vào quá trình
giảng dạy và đã mang lại hiệu quả rất tốt.Vì câu đố là một kiểu ẩn dụ hay. Khi

các em cố gắng suy nghĩ để tìm ra lời giải đáp cho những câu hỏi, đây là yếu tố
kích thích bộ não của các em làm việc, liên tưởng nhiều hơn đến các sự vật và
hiện tượng xung quanh mình. Nếu được định hướng rõ ràng, học sinh sẽ học
được cách tư duy tiến bộ, sáng tạo, tạo tiền đề học tập ở các cấp độ cao hơn.
Câu đố tiếng Việt còn làm cho các em thêm yêu quý tiếng mẹ đẻ, hiểu
thêm sựphong phú, hấp dẫn, đa nghĩa của Tiếng Việt, từ đó góp phần bảo vệ sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt.
Vì vậy, theo tôi đưa câu đố vào bài học trong phân môn Luyện từ và câu
nói riêng và tất cả các môn học nói chung là một phương pháp dạy học lí thú
làm cho học sinh sảng khoái, thay đổi hoạt động học tập của học sinh, kích thích
sự liên tưởng, suy đoán làm cho tiết học sinh động, có ý nghĩa hơn. Từ đó các
em nhớ lâu hơn, sâu sắc hơn kiến thức trong bài học.
Trong giải pháp “Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu”.Với
mục đích chú trọng tổ chức tốt các hoạt động để tăng tính tự giác, phát huy tính
chủ động tích cực của học sinh để các em chiếm lĩnh kiến thức một cách có hiệu
quả nhất. Và đây là giải pháp hỗ trợ cho hai giải pháp trên để quá trình thực hiện
được tốt hơn.
V. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình dạy học sinh lớp 2D năm học 2017 – 2018, Trường Tiểu
học Nguyễn Văn Trỗi, bản thân tôi đã vận dụng những giải pháp nêu trên và đạt
được những kết quả cụ thể:
- Giáo viên lên lớp tự tin, nắm vững kiến thức, nội dung của bài học.
Hướng dẫn các hoạt động cho học sinh rõ ràng, mạch lạc.
Người thực hiện: Lê Hoài Vân16


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

- Học sinh học tập tích cực, biết vận dụng kiến thức của tiết học vào thực
tiễn cuộc sống. Kết quả học tập nói chung và kết quả học phân môn Luyện từ và

câu cũng như việc mở rộng vốn từ cho học sinh nói riêng được nâng lên thấy rõ.
Các em đã tự lựa chọn cho mình vốn từ phù hợp khi giao tiếp, khả năng, sử
dụng khá thành thạo trong giao tiếp, kỹ năng nói của các em diễn đạt rất mạch
lạc, phong phú, tự nhiên. Câu văn của các em ít từ sai hơn, xuất hiện nhiều câu
văn hay, thậm chí có những từ ngữ rất trừu tượng, thú vị gây sự thu hút cho
người đọc, người nghe. Điều đó đã chứng tỏ vốn từ của các em được nâng lên,
các em biết sử dụng vốn từ một cách hợp lí hơn, sinh động hơn. Tạo cho các em
sự hứng thú, sảng khoái, ham thích trong học tập…Đó là cái đích mà người làm
giáo dục mong muốn được hướng tới.
Và để chứng minh cho sự tiến bộ của các em, tôi lại tiến hành một cuộc
khảo sát vào cuối học kì II năm học 2017 – 2018 và mang lại kết quả rất khả
quan :
Xếp loại

Số lượng

Tỉ lệ

Nhận xét

Hoàn thành
tốt

10

33,3%

Vốn từ phong phú, vận dụngtốt vốn từ
trong giao tiếp.


Hoàn thành

17

56,7%

Vốn từ chỉ dừng lại ở mức cơ bản, hiểu
được nội dung nhưng vận dụng vốn từ
trong giao tiếp còn hạn chế

Chưa hoàn
thành

3

10%

Vốn từ quá ít, không biết sử dụng từ để
giao tiếp.

Qua bảng khảo sát vào cuối năm học 2017-2018.So với cuối năm học
2016 -2017, có thể nhận thấy rằng, sau khi áp dụng các giải pháp, khả năng sử
dụng vốn từ của các em tăng lên rõ rệt. Số học sinh hoàn thành tốt từ 10% đã
tăng lên 33,3%. Số học sinh hoàn thành từ 50% lên đến 56,7%. Số học sinh chưa
hoàn thành 40% giảm chỉ còn 10%. Vậythiết nghĩ, nếu áp dụng các biện pháp
trên một cách nhuần nhuyễn vào việc dạy Luyện từ và câu thì sau chương trình
lớp 2, học sinh sẽ có một vốn từ khá phong phú, việc sử dụng từ cũng nhạy bén
và linh hoạt hơn. Tạo tiền đề để các em học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp học
trên.
Phần thứ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

I. Kết luận
Đứng trước vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu,
tôi thấy việc hướng dẫn các em hiểu rõ phân môn Luyện từ và câu là hết sức cần
thiết. Học Tiếng Việt không chỉ học những tri thức về ngôn ngữ mà quan trọng
hơn là bồi dưỡng các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh, giúp các em biết
sử dụng vốn từ vào giao tiếp, tư duy vào các hoạt động của cuộc sống. Dạy
Tiếng Việt chính là dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mỗi
một câu học sinh biết sử dụng từ ngữ thành thạo, là một dịp để các em có thêm
kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày.
Người thực hiện: Lê Hoài Vân17


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Vấn đề mở rộng vốn từ cho học sinh phải được thực hiện trên nhiều
phương diện. Trong đó giáo viên là người giữ vai trò quan trọng nhất, phải là
người thật sự yêu nghề, luôn tâm huyết với học sinh của mình. Luôn tìm tòi, linh
hoạt trong mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức lớp học
sao cho đảm bảo tính vừa sức của học sinh, tạo cho tiết học hứng thú và bổ ích.
II. Kiến nghị
Qua đề tài này tôi cũng mạnh dạn đưa ra một số đề xuất:
Bản thân mỗi giáo viên phải hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của phân môn
để có các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học phù hợp với từng tiết dạy.
Phải tự trau dồi kiến thức cho bản thân, ngôn ngữ phải chuẩn xác, diễn đạt phải
rõ ràng, mạch lạc, trong sáng, gần gũi với lứa tuổi tiểu học.
Đối với học sinh: Phải chuẩn bị đầy đủ sách vở, trước khi đến lớp. Trong
các hoạt động phải tích cực hoạt động nhóm, chú ý nghe giáo viên giảng bài.
Hoàn thành đầy đủ các bài tập được giao. Tích cực tham gia các phong trào của
nhà trường tổ chức để hoàn thiện và phát triển bản thân mình.
Về phía Nhà trường: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên

môn để giáo viên học hỏi, chia sẻ những kinh nghiệm từ các đồng nghiệp để
từng bước tháo gỡ những khó khăn, nâng cao chất lượng giờ dạy.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc học
đối với con em của mình, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn
phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo
dõi mọi hoạt động của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Trên đây là những giải pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học
2017- 2018 về đề tài “Mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai trường Nguyễn
Văn Trỗi”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban giám hiệu
nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và giáo viên, đồng nghiệp để bản sáng kiến
có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau.
Krông Ana, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Người thực hiện

Lê Hoài Vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

Người thực hiện: Lê Hoài Vân18

Tác giả


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

1


Giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học

NXB Giáo dục Việt Nam

2

Những tình huống trong giao tiếp ứng xử

NXB Giáo dục Việt Nam

3

Để học tốt Tiếng Việt lớp 2

Thái Thị Như Quỳnh

4

Vui học Tiếng Việt lớp 2

Đặng Nguyệt Minh

5

Giúp em giỏi Luyện từ và câu

Võ Thị Minh Trang

6


Các câu đố dành cho học sinh Tiểu học

NXB Giáo dục Việt Nam

Người thực hiện: Lê Hoài Vân19


Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

Người thực hiện: Lê Hoài Vân20




×