Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tài liệu tham khảo về Quyền chọn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.47 KB, 25 trang )

I. TỔNG QUAN HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
1. Lịch sử hình thành thị trường quyền chọn.
Giao dịch đầu tiên của thị trường quyền chọn bán và quyền chọn mua bắt
đầu ở châu Âu và châu Mỹ từ đầu thế kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt
động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong những người có liên quan là nhà
mô giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất định đã ăn hối lộ để giới
thiệu cho khách hàng của họ.
Vào đầu những năm 1900, hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh
quyền chọn (option) ra đời. Nhà đầu tư muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với
một công ty thành viên, công ty này sẽ tìm người bán quyền chọn từ khách
hàng của công ty hoặc của các công ty thành viên khác. Nếu không có người
bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị trường
hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC (over-thecounter), các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch.
Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị trường mới, Chicago
Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi option về cổ phiếu. Từ
đó thị trường quyền chọn trở nên phổ biến đối với các nhà đầu tư. Thị trường
chứng khoán Mỹ ( The American Stock Exchange _AMEX) và thị trường
chứng khoán Philadelphia (PHX) bắt đầu thực hiện giao dịch vào năm 1975.
Và thị trường chứng khoán Pacific (PSE) thực hiện tương tự vào năm 1976.
Khoản đầu thập niên 80 khối lượng giao dịch tăng lên nhanh đến mức mà số
lượng cổ phiếu theo hợp đồng quyền chọn bán hàng ngày vượt quá khối
lượng giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York.
Trong thập niên 80 thị trường quyền chọn đối với ngoại tệ, chỉ số chứng
khoán và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán
Philaphia là nơi giao dịch quyền chọn ngoại tệ đầu tiên. Thị trường Chicago
Board Options Exchange trao đổi quyền chọn chỉ số chứng khoán của SP
100 và SP 500. Thị trương chứng khoán Mỹ giao dịch option về chỉ số
chứng khoán của một số thị trương chính và thị trường chứng khoán
NewYork giao dịch chỉ số NYSE. Hầu hết các thị trương đều giao dịch
option đối với các hợp đồng future. Chicago Board of Trade giao dịch quyền
chọn đối với những hợp đồng future về bắp…


2. Mức độ phát triển hiện nay.
a. Các nước trên thế giới.


Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở
nên phổ biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Đức, Pháp, Nhật Bản,
Singapore, Hồng Kông và Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã
tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường
Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo ra những sản phẩm giao dịch
quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn giao dịch điện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển)
và Project A (được CBOT) phát triển. Ở Đức, Deutsche Terminborse
Exchange đã bỏ kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao
dịch điện tử. Trên hệ thống GLOBEX, các nhà đầu tư cá thể có thể giao dịch
dựa trên chỉ số SP500, SP500 mini và NASDAQ 100 và các hợp đồng con.
Các nhà đầu tư cá thể cũng có thể mua bán ngoại hối trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000,
CBOT xây dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực
hiện tại Eurex)), các nhà đầu tư cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và
tín phiếu, quyền chọn, và tất cả các sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch
điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc đấu giá mở ngoài giờ giao dịch chính
thức.
b. Việt Nam.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái
sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm
vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái
tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng
đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch
quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi
vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực

hiện đối với các DN hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động ở VN được
NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các
NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện
nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều
ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank,
Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi
nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các
DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua
một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt,
quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu
trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp


dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và
Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là
ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng
cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công
cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước
cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước
cũng đã cho phép thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với
nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có
cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt
Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm
nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt
động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng
trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao
dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến

hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất
khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn
bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank
và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là
ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng
cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công
cụ này.
II. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI ĐẶC TRƯNG HỢP ĐỒNG QUYỀN
CHỌN
1. Khái niệm quyền chọn.
a. Quyền chọn.
Quyền chọn là một hợp đồng cho phép người mua quyền được phép lựa
chọn là thực hiện hay không thực hiện việc mua hay bán một số lượng
chứng khoán nhất định trước hoặc trong một khoản thời gian xác định với
một mức giá xác định trước.
Một hợp đồng quyền chọn phải bao gồm các đặc điểm cơ bản sau:
- Loại quyền chọn.
- Tên hàng hoá cơ sở.
- Khối lượng giao dịch
- Ngày đáo hạn.


- Giá thực hiện.
- Phí quyền chọn.
b. Các loại quyền chọn .
- Quyền chọn cổ phiếu (options) là quyền của các nhà đầu tư (nhưng không
phải là nghĩa vụ) được mua hay bán một số lượng cổ phiếu xác định trước
theo một giá đã xác định trước và thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu đó

trên thị trường.
- Quyền chọn chỉ số: Một chỉ số chứng khoán là một chỉ tiêu đo lường tổng
giá trị của một nhóm các cổ phiếu được chỉ định. Nó là một chỉ tiêu tương
đối, thể hiện giá trị tương đối so với giá trị trước đó.
Đối với quyền chọn chỉ số, chúng ta hiểu các mức yết giá là giá trị thị trường
của cổ phiếu so với một mức giá trị cơ sở, được thiết lập từ nhiều năm trước,
khi chỉ số được khởi tạo.
S&P 500, NASDAQ 100, chỉ số Bình quân Công nghiệp Dow Jones
- Quyền chọn tiền tệ: Một đồng tiền có thể được xem là một tài sản, giống
như cổ phiếu hoặc trái phiếu. Giống như giá cổ phiếu và trái phiếu, giá tiền
tệ, tức là tỷ giá, rất biến động trên thị trường.
Một hợp đồng quyền chọn tiền tệ qui định cụ thể giá thực hiện, được thể
hiện dưới dạng tỷ giá, ngày đáo hạn, định dạng tiền tệ cơ sở, qui mô hợp
đồng, nhiều chi tiết khác tương tự như quyền chọn cổ phiếu và chỉ số, và dĩ
nhiên là có giá quyền chọn.
- Quyền chọn thực: là quyền chọn thường được thấy trong các quyết định
đầu tư của công ty các quyết định này thường được gọi là đâu tư thực.
2. Phân loại hợp đồng quyền chọn.
a. Căn cứ vào quyền của người sở hữu quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn mua (Call options): Là một thỏa thuận giao dịch
một lượng tài sản cơ sở nhất định, trong đó người mua call options (A) sẽ trả
cho người bán call options (B) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay
phí quyền chọn (options premium) và A sẽ có quyền được mua nhưng không
bắt buộc phải mua một lượng tài sản cơ sở đó theo một mức giá đã được
thoả thuận trước vào một ngày hoặc một khoảng thời gian xác định trong
tương lai. B nhận được tiền từ A nên B có trách nhiệm phải bán lượng tài sản
cơ sở đó với giá thực hiện đã thỏa thuận vào ngày đáo hạn (nếu là quyền
chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký



hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi A muốn thực
hiện quyền mua của mình.
Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau
khi xem xét với mức giá giao ngay của tài sản cơ sở ở ngày này, nếu thấy có
lợi cho mình, tức giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện, A có thể thực hiện
quyền của mình để được mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện, rồi
ra thị trường bán lại với giá cao hơn để thu một khoản lợi nhuận. Nếu thấy
giá của tài sản cơ sở dưới giá thực hiện, A có thể không cần phải thực hiện
quyền mua của mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn bán (Put options): Là một thỏa thuận giao dịch
một lượng tài sản cơ sở nhất định, theo đó người mua Put options (C) sẽ trả
cho người bán Put options (D) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn bán
hay phí Put options và C sẽ có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ phải bán
lượng tài sản cơ sở đó theo một mức giá đã thỏa thuận trước (giá thực hiện)
vào một ngày hoặc một khoảng thời gian xác định trong tương lai. D nhận
được tiền từ C, nên có nghĩa vụ phải mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá
thực hiện vào ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì
ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu
là quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện quyền được bán của mình.
Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau
khi xem xét giá giao ngay của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy có lợi
cho mình, tức mức giá này nhỏ hơn giá thực hiện, C có thể thực hiện quyền
của mình để được bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện sau khi đã
mua được ở ngoài thị trường với giá thấp hơn để thu một khoảng lợi nhuận.
Nếu thấy giá giao ngay cao hơn giá thực hiện, C có thể không cần phải thực
hiện quyền chọn bán của mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.
b.Căn cứ vào cách thời điểm thực hiện quyền chọn.
Quyền chọn kiểu Châu Âu (European options): Là quyền chọn chỉ cho
phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo
hạn của hợp đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm

việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào
ngày đáo hạn.
Quyền chọn kiểu Mỹ (American options): Là quyền chọn cho phép người
nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết


ngày đáo hạn của hợp đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai
ngày làm việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác
nhận (trong thời gian hiệu lực của hợp đồng).
c. Căn cứ theo thị trường giao dịch.
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn
được tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn,
được giao dịch trên các thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, thị
trường chứng khoán New York…Do đó, tính minh bạch của thị trường rất
cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng của hợp đồng giao dịch được công bố
chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu tham khảo cho các ngày giao
dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc biệt, các hợp đồng quyền
chọn này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư, điều này
cho thấy tính thanh khoản cao của các hợp đồng quyền chọn được giao dịch
trên các thị trường tập trung kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao dịch
quyền chọn theo kiểu này chiếm tỉ trọng rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị
giao dịch quyền chọn của thế giới.
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC): Là
thỏa thuận mua bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra
theo thỏa thuận với người mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người
mua, chúng không được giao dịch trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng
thường được giao dịch giữa các đối tác liên ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng
với khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp. Do các hợp đồng quyền chọn
không được chuẩn hóa, chi tiết của hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, nên

tính linh hoạt đối với các hợp đồng này là rất cao, đáp ứng được các nhu cầu
cá biệt của các khách hàng. Dù vậy, các giao dịch quyền chọn phi tập trung
kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao dịch quyền chọn trên thế giới.
d. Căn cứ theo tài sản cơ sở.
Theo cách phân loại này thì có vô số loại hợp đồng quyền chọn, vì trên lý
thuyết, bất kì một tài sản cơ sở nào cũng có thể phát sinh một quyền chọn
dựa trên nó. Do đó, có thể phân thành các nhóm chính sau:
Đối với hàng hóa: bao gồm quyền chọn cà phê, vàng, xăng dầu, sắt, thép,
ngũ cốc, khí đốt…
Đối với dịch vụ: gồm quyền chọn tiền taxi, tiền điện, cước viễn thông…


Đối với tài sản tài chính: gồm quyền chọn ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán
đổi, chỉ số chứng khoán…
Hiện nay, trên thế giới, các giao dịch quyền chọn dựa trên các tài sản tài
chính chiếm một tỉ trọng lớn, đặc biệt là quyền chọn ngoại tệ, cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ… Bên cạnh đó, do là những hàng hóa đặc biệt quan
trọng nên quyền chọn vàng và dầu cũng chiếm một tỉ trọng khá lớn.
Mặc dù các giao dịch quyền chọn phi tập trung chỉ chiếm khoảng 2%
tổng giá trị giao dịch quyền chọn trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam hiện nay,
do thị trường quyền chọn còn khá mới mẻ, chưa phát triển nên các giao dịch
quyền chọn phi tập trung chiếm một tỉ trọng tuyệt đối, đặc biệt là quyền
chọn ngoại tệ.
3. Đặc trưng của hợp đồng quyền chọn trên cổ phiếu.
a.
Giá cổ phiếu và giá thực hiện.
Nếu một quyền chọn mua được thực hiện ở một thời điểm trong tương lai
thì khoản lợi nhuận thu được sẽ bằng khoảng lớn hơn của giá cổ phiếu so với
giá thực hiện. Do đó nếu giá cổ phiếu tăng thì giá của quyền chọn mua sẽ

tăng và nếu giá thực hiện tăng thì giá của quyền chọn mua sẽ giảm. Với một
quyền chọn bán, lợi nhuận thu về nếu quyền chọn được thực hiện sẽ bằng
khoảng lớn hơn của giá thực hiện so với giá cổ phiếu. Như thế giá quyền
chọn bán sẽ tăng nếu như giá thực hiện tăng và giảm nếu như giá cổ phiếu
tăng.
b.

Khoảng thời gian từ thời điểm hiện tại cho đến lúc
đáo hạn.

Yếu tố này có tác động rõ ràng hơn đến quyền chọn kiểu Mỹ (cả mua và
bán), nếu như thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn càng dài thì giá của
quyền chọn sẽ càng cao. Xét với hai quyền chọn giống nhau về cá yếu tố
khác ngoại trừ thời gian cho đến ngày đáo hạn. Người sở hữu quyền chọn có
thời gian dài hơn rõ ràng có nhiều thời gian để lựa chọn thực hiện quyền hơn
người sở hữu quyền chọn ngắn hơn.
Với quyền chọn kiểu Châu Âu, thời gian đến ngày đáo hạn không thực sự
có ảnh hưởng đến giá quyền chọn do cả 2 quyền nói trên đều chỉ có thể thực
hiện ở thời cùng một thời điểm là ngày đáo hạn. Thậm chí trong nhiều


trường hợp quyền chọn ngắn hơn có thể có giá cao hơn, chẳng hạn như hai
quyền chọn mua có chung mọi đặc tính, một quyền sẽ đáo hạn trong 1 tháng
nữa, quyền còn lại đáo hạn trong 2 tháng. Nếu cổ phiếu có trả cổ tức và thời
điểm thanh toán là 6 tuần nữa, thì do tác động của việc trả cổ tức, quyền
chọn đáo hạn trong 1 tháng hơn sẽ có giá cao hơn.
c.

Độ bất ổn của giá cổ phiếu.


Định nghĩa chính xác về độ bất ổn sẽ được giới thiệu trong phần mô hình
Black-Scholes, ở đây có thể hiểu đơn giản nhất độ bất ổn là một thước đo
mức độ không chắc chắn của bản thân nhà đầu tư vào biến động trong tương
lai của giá cổ phiếu. Độ bất ổn càng cao thì khả năng giá cổ phiếu có thể lên
rất cao hoặc xuống rất thấp cũng tăng cao. Người sở hữu cổ phiếu có thể coi
hai xu hướng này “triệt tiêu” lẫn nhau và không quá lo lắng. Tuy nhiên
người sở hữu quyền mua hay quyền bán thì không như vậy. Người sở hữu
quyền mua sẽ có lợi nếu như giá cổ phiếu tăng lên nhưng họ chỉ phải chịu
rủi ro có giới hạn nếu giá giảm, mức lỗ cao nhất họ phải chịu chính bằng giá
của quyền mua. Với người sở hữu quyền bán, họ sẽ có lợi nếu như giá của
cổ phiếu giảm mạnh và họ chỉ phải chịu rủi ro có giới hạn nếu giá tăng, lỗ
cao nhất phải chịu cũng chính là giá của quyền mua. Vì lý do này, giá của
quyền chọn mua và quyền chọn bán sẽ tăng cao nếu như độ bất ổn của cổ
phiếu tăng.
d.

Lãi suất phi rủi ro.

Tác động của lãi suất phi rủi ro đến giá của quyền chọn cổ phiếu không
thực sự rõ ràng như những trường hợp trước. Khi lãi suất phi rủi ro trong
nền kinh tế tăng tỉ lệ tăng trưởng kỳ vọng với giá cổ phiếu cũng sẽ có xu
hướng tăng. Đồng thời giá trị hiện tại của các dòng tiền mà nhà đầu tư kỳ
vọng sẽ nhận được trong tương lai sẽ giảm. Hai tác động này đều có xu
hướng làm giảm giá của quyền chọn bán. Do đó giá quyền chọn bán có xu
thế giảm khi lãi suất phi rủi ro trên thị trường tăng. Với quyền chọn mua, tác
động đầu tiên có xu thế làm tăng giá quyền nhưng tác động thứ hai lại có xu
thế làm giảm giá quyền. Tuy nhiên tác động thứ nhất luôn lấn át tác động thứ
2 do đó khi lãi suất phi rủi ro tăng thì giá quyền chọn bán cũng tăng.
Cần nhấn mạnh lại những tác động kể trên chỉ được nghiên cứu trong
tình huống các yếu tố khác không đổi, điều này là không có thực đặc biệt khi

một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế là lãi suất phi rủi ro thay đổi. Thực
tế cho thấy giá cổ phiếu có xu thế biến động ngược chiều với biến động của


lãi lãi suất phi rủi ro. Tác động cộng gộp của lãi suất và giá có thể mang đến
những kết quả rất khác.
e.

Cổ tức kỳ vọng sẽ thanh toán trong khoảng thời gian
quyền có hiệu lực.

Cổ tức làm cho giá cổ phiếu giảm xuống trong ngày giao dịch không
hưởng quyền. Đây là thông tin “xấu” với giá của quyền chọn mua và là
thông tin “tốt” với giá của quyền chọn bán. Như thế giá của quyền chọn mua
có tương quan ngược chiều và giá quyền chọn mua có tương quan cùng
chiều với những dự báo về quy mô trả cổ tức.
III. CƠ CHẾ GIAO DỊCH HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
1. Sàn giao dịch quyền chọn.
Sàn giao dịch quyền chọn là những nơi quyền chọn được niêm yết và
giao dịch. Việc giao dịch quyền chọn cổ phiếu( và các quyền chọn chứng
khoán khác) trên sàn giao dịch cũng tương tự như giao dịch cổ phiếu. Mỗi
quyền chọn được ấn định tại một địa điểm cố định trên sàn và mọi giao dịch
của quyền chọn này diễn ra tại đó.
Các quyền chọn giao dịch tại sàn còn gọi là quyền chọn niêm yiết, do
một cơ quan của sàn giao dịch là “Công ty thanh toán bù trừ hợp đồng quyền
chọn” phát hành.Mọi giao dịch về quyền chọn được thực hiện thông qua hệ
thống máy tính và được thể hiện trong tài khoản của các nhà mô giới tại sàn
và không có bất kỳ chứng thư nào được phát hành trong giao dịch này
2. Các nhân viên trên sàn giao dịch.
Có hai hệ thống giao dịch hiện nay đó là hệ thống giao dịch dựa vào các

chuyên gia và hệ thống dựa vào những nhà tạo lập thị trường và nhân viên
lưu trữ lệnh. Tuỳ vào việc ứng dụng hệ thống giao dịch nào mà mỗi sàn có
những thành viên cụ thể. Nhiệm vụ của các nhân viên như sau:
a. Nhà tạo lập thị trường.(Maket maker):
Nhà tạo lập thị trường là một trong số thành viên của sàn giao dịch họ
mua bán bất cứ quyền chọn cổ phiếu nào theo yêu cầu của các viên chức sở
giao dịch hoặc theo yêu cầu nào đó đang có lệnh mua bán của khách hàng.
Khi được yêu cầu nhà tạo lập thị trường thường đưa ra cả giá hỏi mua và giá


chào bán. Giá hỏi mua là giá mà tại đó nhà tạo lập thị trường sẵn sàng mua,
và giá chào bán là giá mà tại đó nhà tạo lập thị trường sẵn sàng bán. Vào lúc
giá hỏi mua và giá chào bán được niêm yiết, nhà tạo lập thị trường không
biết rằng người kinh doanh đã yêu cầu niêm yiết đang muốn mua hay muốn
bán. Giá chào bán luôn cao hơn giá hỏi mua. Chênh lệch giữa giá mua và giá
bán chênh lệch không được quy định cụ thể nhưng luôn có một giới hạn trên.
Ví dụ: mức chênh lệch không được cao hơn 0.25$ đối với các quyền
chọn so với giá thấp hơn 0.5$; không đươc cao hơn 0.5$ đối với các quyền
chọn có giá từ 0.5$ đến 10$.
Với đặc điểm mua bán nêu trên nhà tạo lập thị trường tự tao ra lợi nhuận
cho mình từ chênh lệch giá mua và giá bán. Đồng thời họ cũng làm tăng khả
năng linh hoạt cho thị trường vì sự có mặt của họ trên sàn giao dịch đảm bảo
lệnh mua và lệnh bán có thê luôn được thực hiện một vài mức giá nhan
chóng.
b. Nhân viên lưu trữ lệnh
Nhân viên lưu trữ lệnh có nhiệm vụ lưu giữ các lệnh giớ hạn và duy trì
các lệnh thị trường một cách trật tự, họ không kinh doanh cho tài khoản của
họ.
Quy trình lưu trữ lệnh được thực hiện như sau: khi người mô giới trên
sàn nhận được lệnh giới hạn, anh ta sẽ chuyển lệnh tới nhân viên lưu trữ

lệnh. Nhân viên này đưa lệnh vào máy tính cùng với những lệnh giới hạn
khác để đảm bảo rằng ngay khi đạt đến giới hạn, lệnh sẽ được thực hiện.
Những thông tin về tất cả các lệnh giới hạn chưa được thực hiện được công
bố cho tất cả các nhà kinh doanh. Trên hệ thống giao dịch dự vào các chuyên
gia thì không có các nhân viên lưu trữ lệnh vì như trên đã nói các chuyên gia
chính là những người lưu trữ lệnh.
c. Chuyên gia (speacialist):
Theo hệ thống giao dịch dựa vào chuyên gia, nhân viên với chức danh là
chuyên gia có nhiệm vụ như nhà tạo lập thị trường và giữ hồ sơ lệnh giới
hạn. Không giống như các nhân viên lưu trữ lênh, chuyên gia không thôn g
tin về lệnh giới hạn sẵn có cho những nhà kinh doanh khác.
Cũng giống như các chuyên gia trên sàn giao dịch cổ phiếu, các chuyên
gia của sàn giao dịch quyền chọn vừa thực hiện các lệnh do các nhà mô giới


đưa đến vừa kinh doanh kiếm lời cho họ. Nhiệm vụ của các chuyên gia là
duy trì thị trường hoạt động ổn định và có trật tự.
d. Nhà môi giới trên sàn (floor broker):
Nhà mô giới trên sàn là những nhà môi giới làm việc trên sàn giao dịch,
thực hiện giao dịch cho khách hàng của công ty mình. Khi nhà đầu cơ đặt
lệnh cho công ty chứng khoán các lệnh này sẽ được chuyển đến các nhân
viên môi giới trên sàn. Nhà môi giới tiến hành các giao dịch với các nhà môi
giới khác trên sàn và với các nhà tạo lập thị trường để thực hiện lệnh nhận
được.
Nhà môi giới tự do: trên sàn giao dịch ngoài những nhân viên môi giới
làm việc cho cả công ty chứng khoán còn có những nhà môi giới tự do là
những người thực hiện các lệnh của bất kỳ công ty chứng khoán nào thuê họ
để hưởng huê hồng.
3. Lệnh và các loại lênh giao dịch quyền chọn .
a. Lệnh giao dịch quyền chọn.

Khi một khách hàng muốn mua hay bán một loại quyền chọn nào đó, anh
ta đến công ty chứng khoán nơi môi giới của anh ta làm việc hoặc gọi điện
cho môi giới của anh ta để đặt lệnh. Sau khi nhận lệnh môi giới của công ty
chứng khoán truyền lệnh đến môi giới của công ty tại sàn. Tại sàn giao dịch
môi giới của sàn nhận lệnh và đặt lệnh mua bán cho các chuyên gia.
Lệnh mua bán tại sàn giao dịch là lệnh điện tử được lưu trong máy tính và
không có phiếu lệnh như các giao dịch thông thường. Một lệnh mua hay bán
quyền chọn chứa đựng các thông tin sau:
- Số tài khoản của khách hàng của nhân viên đại diện có đăng ký.
- Sàn giao dịch nơi quyền chọn được giao dịch.
- Cách thức nhận lệnh
- Mua hay bán
- Loại quyền chọn( put hay call)


- Số lượng quyền chọn muốn mua hay bán.
- Cổ phiếu cơ sở,tháng đáo hạn, giá thực hiện.
- Giao dịch mở hay giao dịch đóng.
- Lệnh thị trường hay lệnh giới hạn.
- Loại tài khoản( tiền mặt hay ký quỹ).
- Lệnh có được yêu cầu hay không.
- Khoảng thời gian giá trị của lệnh: lệnh ngày hay lệnh thời gian khác.
- Lệnh được đặt cho các phương án straddle, combination hay spread.
- Có phải là tài khoản tự quyết hay không.
- Tên khách hàng.
- Những hướng dẫn cần thiết.
- Xác nhận của giám đốc.
Để đảm bảo giao dịch quyền chọn được thực hiện được chính xác và hiệu
quả mọi quy định trên buộc phải được tôn trọng ,nếu có bất cứ sai sót nào
lệnh đó được coi là không hợp lệ và không có giá trị giao dịch.

b. Các loại lệnh giao dịch quyền chọn.
Tương tự như mua bán cổ phiếu các nhà đầu tư có thể lựa chọn và đặt
lệnh thích hợp với mong muốn trong hệ thống rất nhiều loại lệnh được áp
dụng như: lệnh thị trường (market order) lênh giới hạn ( limit order); lệnh
dừng (stop order); lệnh dừng giới hạn (stop limit order).
Để hướng dẫn thực hiện các lệnh về thời gian có các lệnh sau: lệnh ngày;
lệnh có giá trị đến cùng ( good till cancelled-GTC); lệnh tuỳ ý (not held
order-NH); lệnh ngay lập tức hoặc không (Immediate ỏ cancel order-IOC);
lệnh tất cả hoặc không (All or none order- AON).
c. Xác định giá mở cửa và giá đóng cửa.


Mỗi ngày trước khi mở cửa, sàn giao dịch sử dụng vòng luân phiên giao
dịch để xác định giá mở cửa. Trong khoản thời gian này, tất cả các hợp đồng
không giao dịch theo cách ngẫu nhiên. Các lệnh mua và bán được nhận theo
nhóm mỗi lần. Khi sàn giao dịch đã hoàn tất đối với nhóm lệnh này thì sẽ
chuyển sang nhóm lệnh khác. Giao dịch luân phiên theo thứ tự, bắt đầu với
các quyền mua có thời hạn hết hiệu lực gần nhất với giá thực hiện thấp nhất
( hoặc với các quyền bán có giá thực hiện cao nhất) rồi cho đến khi các
nhóm lệnh đều đã được mở cửa giao dịch. Ở thời điểm mở cửa các lệnh thị
trường có độ ưu tiên hơn các lệnh giới hạn. Các lệnh chênh lệch có độ ưu
tiên hơn các lệnh thị trường nhưng lệnh mua có độ ưu tiên khác lệnh bán
(liên quan đến lệnh ưu tiên của các chênh lệch).
Các vòng luân phiên giao dịch cũng được dùng để đóng cửa thị trường
vào cuối ngày giao dịch và khi quyền chọn hết hiệu lực. Do ngày hết hiệu
lực là ngày thứ bảy sau ngày thứ sáu của tuần thứ ba của tháng đáo hạn nên
vòng luân phiên cuối cùng để đóng cửa thị trường xảy ra vào ngày thứ sáu
của tuần thứ 3 mỗi tháng. Nếu sở giao dịch ngừng giao dịch một loại quyền
chọn sẽ không có lệnh nào được thực hiện. Khi giao dịch trở lại, phải sử
dụng vòng luân phiên để tái mở cửa giao dịch loại quyền chọn đó. Cuối cùng

nếu thị trường hoạt động quá nhanh (nếu hai chuyên viên giao dịch tại sàn
cảm thấy rằng thị trường đang dần mất trật tự) sở giao dịch có thể áp đặt sự
luân phiên.
d. Các hệ thống chuyển lệnh.
OCC thường sử dụng các hệ thống chuyển lệnh tự động để có thể xử lý
các giao dịch quyền chọn của khách hàng. Thông qua một hệ thống máy
tính, các lệnh thông thường được chuyển từ công ty chứng khoán đến khu
vực thành viên ( đại diện của công ty chứng khoán) tại sàn giao dịch để xử
lý. Thành viên (mô giới tại sàn) sẽ nhận lệnh và đem đến đám đông giao
dịch để giao dịch. Nếu lệnh được thực hiện thông báo của kết quả sẽ được
chuyển về khu vực của thành viên và cũng từ đây, qua hệ thống máy tính của
mình thành viên sẽ thông báo cho người môi giới và khách hàng.
Đối với một số lệnh( lệnh thị trường và lệnh giới hạn có số lượng nhỏ và
lệnh khả thi) hệ thống chuyển lệnh có thể gắn với việc khớp lệnh tự động.
Đối với các trường hợp cân sự nhanh chóng, hệ thống chuyển thẳng tới quầy
giao dịch không qua chỗ ngồi của thành viên và môi giới tại sàn. Mỗi lệnh
được khớp với một lệnh trên sổ lệnh giới hạn hoặc theo báo giá của nhà tạo


lập thị trường và thông báo giao dịch được gửi trực tiếp đến công ty chứng
khoán.
Hệ thống khớp lệnh tự động ở mỗi sàn giao dịch đều có tiêu chuẩn
năng lực và tên riêng. CBOE có hệ thống khớp lệnh tự động( RAES),
AMEX có hệ thống giao dịch quyền chọn tự động… Mỗi loại cung cấp khả
năng giao diện trực tiếp đến quầy giao dịch.

IV. Chiến lược kinh doanh.
Quy ước:
Đường đức quảng chỉ mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá chứng khoán đối
với những chứng khoán cá biệt cấu thành nên danh mục đầu tư.

Đường gạch liên tục chỉ mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá chứng khoán
của toàn bộ danh mục đầu tư.
1. Chiến lược liên quan đến một option riêng lẻ và một chứng khoán.
Hình 1
Lợi
nhuận

Lợi nhuận

X

ST

X
ST


(a)
Lợi
nhuận

Lợi nhuận

X

X

S

ST


T

(a) (b)
(c)
(d)
Trong hình (a) danh mục đầu tư gồm vị thế mua trên chứng khoán kết
hợp với vị thế bán trên call option. Chiến lược này gọi là viết (bán) hợp đồng
call option có đảm bảo ( Writing a covered call). Vị thế mua trên chứng
khoán đảm bảo cho nhà đầu tư khỏi tình trạng tăng đột biến giá chứng
khoán. Nếu giá cổ phiếu tăng cao, người sở hữu quyền chọn mua sẽ thực
hiện mua cổ phiếu với giá thực hiện. Nếu trước đây bạn bán quyền chọn mà
không có tài sản cơ sở (writing a nacked option), không có cổ phiếu trong
tay bạn sẽ phải chịu lỗ lớn. Nếu giá cổ phiếu giảm rất thấp, người sở hữu
quyền chọn không thực hiện quyền chọn nữa và bạn có một khoản bù lỗ
bằng giá quyền chọn đã bán.
Trong hình (b) gồm vị thế bán trên chứng khoán kết hợp với vị thế mua
trên call option. Đây là trường hợp nghịch đảo của viết (bán) hợp đồng call
option có đảm bảo.
Trong hình (c) gồm vị thế mua trên put option kết hợp với vị thế mua
trên chứng khoán. Giải pháp này được xem như là một chiến lược put option
có tính bảo vệ.
Trong hình (d) gồm vị thế bán trên put option kết hợp với vị thế bán
trên chứng khoán. Đây là nghịch đảo của put option có tính bảo vệ.
Bốn mô hình trên có cùng hình dạng như mô hình vị thế bán put option,
mô hình vị thế mua put option, mô hình vị thế mua call option, mô hình vị
thế bán call option.
Theo cân bằng put-call ta có phương trình:
p + S = c + Xe-rT + D


Trong đó:


• p là giá quyền chọn bán kiểu Châu Âu;
• c là giá quyền chọn mua kiểu Châu Âu;
• S là giá cổ phiếu;
• X là giá thực thi của cả quyền chọn bán và mua;
• r là lãi suất phi rủi ro;
• T là thời điểm đáo hạn
• D là giá trị hiện tại của cổ tức (giá trị chiếu khấu về hiện tại của tất cả
các dòng cổ tức trên cổ phiếu xuất hiện trong tương lai.
Vị thế mua call option kết hợp với vị thế mua chứng khoán tương
đương với vị thế mua call option cộng với số tiền mặt nhất định (Xe-rT+D).
Điều này giải thích tại sao mô hình (c) giống với mô hình lợi nhuận từ vị thế mua
call option. Mô hình (d) là nghịch đảo của vị thế trong mô hình (c) vì vậy dẫn đến
mô hình (d) tương tự với mô hình lợi nhuận từ vị thế bán call option.
Phương trình trên có thể được viết lại:
S - c = Xe-rT + D – p

Vị thế mua chứng khoán kết hợp với vị thế bán call option tương đương
với vị thế bán put option cộng với số tiền mặt nhất định (Xe-rT+D). Điều này
giải thích tại sao mô hình (a) giống với mô hình lợi nhuận từ vị thế bán put option.
Mô hình (b) là nghịch đảo của vị thế trong mô hình (a) vì vậy dẫn đến mô hình (b)
tương tự với mô hình lợi nhuận từ vị thế mua put option.

2. Chiến lược Spread. (liên quan đến việc nắm giữ vị thế trên 2 hay
nhiều option cùng kiểu nghĩa là cùng mua hoặc cùng bán các quyền chọn mua
hoặc quyền chọn bán trên cùng một loại tài sản.)

a. Chiến lược Bull Spread:


Hình 2


Lợi nhuận

X2

X1

ST

Được tạo ra bằng cách mua một call option về chứng khoán với giá
thực hiện nhất định đồng thời bán một call option về chứng khoán với giá
thực hiện cao hơn. Cả 2 call này có cùng ngày đáo hạn.
Giá call option (phí) luôn giảm khi giá thực hiện tăng, giá trị (phí) call
option bán ra lúc nào cũng thấp hơn giá trị (phí) call option được mua vào
do đó chiến lược này đòi hỏi có vốn đầu tư ban đầu (– c1 + c2)
X1 là giá thực hiện của call option được mua vào, X2 là giá thực hiện
của call option được bán ra, ST là giá chứng khoán ngày đáo hạn, c1 là giá
mua call option, c2 là giá bán call option.
Nếu giá chứng khoán ST > X2 thì số thu hồi là khoảng chênh lệch X1 –
X2, khi đó lợi nhuận thu được là X1 – X2 – c1 + c2
Nếu giá chứng khoán X1 < ST < X2 thì số thu hồi là khoảng chênh lệch
ST – X1, khi đó lợi nhuận thu được là ST – X1 – c1 + c2
Nếu giá chứng khoán ST < X1 thì số thu hồi là khoảng 0, khi đó ta bị lỗ
khoảng chi phí ban đầu = – c1 + c2.
Giá CK
S T < X1


LN từ mua CallLN từ
option
option
- c1
+ c2

bán

CallTổng LN
c2 – c1

X1 < ST < X2 - c1+ST– X1

+ c2

c2 – c1+ST– X1

S T ≥ X2

+ c2+X2 - ST

c2 – c1+X2– X1

- c1+ST– X1

Ví dụ: Mua call option với giá thực hiện X1 = $30 với giá c1 = $3 và bán
call option với giá thực hiện X2 = $35 với giá c2 = $1. Chi phí ban đầu phải
bỏ ra là – c1 + c2 = $-2.



Giá CK
ST < 30

LN từ mua CallLN từ
option
option
-3
+1

bán

X1 < ST < X2 - 3 + ST– 30

+1

S T ≥ X2

+ 1 + 35 - ST

- 3 + ST– 30

CallTổng LN
-2
-2 + ST–30= ST–
32
-2 + 35 – 30 = 3

Chiến lược này hạn chế cả khả năng thắng lớn cũng như thua trắng của
nhà đầu tư. Có thể mô tả chiến lược này giống như nhà đầu tư có được một
quyền chọn mua với giá thực hiện là X1 và quyết định từ bỏ tiềm năng thắng

lớn bằng cách bán quyền chọn mua có giá thực hiện là X2 (X2 >X1). Để đổi
lại, nhà đầu tư đã giảm bớt được số tiền thua lỗ ban đầu bằng với mức giá
của quyền chọn mua có giá thực hiện là X2. Có 3 kiểu Bull Spread
o Cả hai quyền chọn ban đầu ở trạng thái lỗ- out of the money (với
quyền chọn bán là giá thực hiện thấp hơn giá thị trường của cổ
phiếu; với quyền chọn mua là giá thực hiện cao hơn giá thị trường
của cổ phiếu.)
o Một quyền chọn lúcđầu ở trạng thái lỗ- out of the money, quyền
chọn kia lúc đầu ở trạng thái lãi- in the money (với quyền chọn bán
là giá thực hiện cao hơn giá thị trường của cổ phiếu; với quyền
chọn mua là giá thực hiện thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu.)
o Cả hai quyền chọn lúc đầu ở trạng thái lãi- in the money.
Chiến lược Bull Spread cũng có thể tạo ra được bằng cách mua một put
option về chứng khoán với giá thực hiện nhất định đồng thời bán một put
option về chứng khoán với giá thực hiện cao hơn. Cả 2 call này có cùng
ngày đáo hạn. Chiến này có lãi ngay từ đầu.Lợi nhuận có được từ chiến lược
sử dụng put option cũng ít hơn so với sử dụng quyền chọn mua.
Hình 3
Lợi nhuận

X1

X2

ST


b. Chiến lược Bear Spread
Được tạo ra bằng cách mua một call option về chứng khoán với giá
thực hiện nhất định đồng thời bán một call option về chứng khoán với giá

thực hiện khác. Cả 2 call này có cùng ngày đáo hạn. Tuy nhiên trong trường
hợp Bear Spread giá thực hiện của call option được mua cao hơn giá thực
hiện của call option được bán.
Trong chiến luợc Bull Spread nhà đầu tư hy vọng giá chứng khoán tăng
trong khi trong chiến lược này nhà đầu tư hy vọng giá chứng khoán giảm.
Chiến lược Bear Spread giới hạn tiềm năng có chiều hướng đi lên cũng như
rủi ro do giá có chiều tiếp tục xuống.

Lợi nhuận
X2
X1

ST

X1 là giá thực hiện của call option được bán ra, X2 là giá thực hiện của
call option được mua vào, ST là giá chứng khoán ngày đáo hạn, c1 là giá mua
call option, c2 là giá bán call option.
Nếu giá chứng khoán ST > X2 thì số thu hồi là 0, khi đó ta bị lỗ khoảng
chi phí ban đầu = – c1 + c2.
Nếu giá chứng khoán X1 < ST < X2 thì số thu hồi là khoảng chênh lệch
X1 –ST khi đó lợi nhuận thu được là X1 –ST – c1 + c2
Nếu giá chứng khoán ST < X1 thì số thu hồi là khoảng chênh lệch X1 –
X2, khi đó lợi nhuận thu được là X1 – X2 – c1 + c2


Giá CK

LN từ mua CallLN từ bánTổng LN
option
Call option


ST
- c1

+ c2

c2 – c1

X1
- c1

+ c2
X1 – ST

c2 – c1 - ( ST– X1)

S T ≥ X2

- c1
ST– X2

+ c2
X1 – ST

c2 – c1
- (X2–X1)

Ví dụ: Mua call option với giá thực hiện X1 = $30 với giá c1 = $1 và bán

call option với giá thực hiện X2 = $35 với giá c2 = $3. Thu hồi ban đầu là c2
– c1=$2
Giá CK
ST < 30

LN từ mua CallLN từ
option
option
-1
3

bán

CallTổng LN
2

X1 < ST < X2 -1

+ 3 +30 – ST

32– ST

S T ≥ X2

+3 + 30 - ST

-3

-1 + ST– 35


c. Chiến lược Butterfly Spread (liên quan đến 3 mức giá thực hiện
khác nhau.)
Vị thế mua call option với giá thực hiện X1 tương đối thấp.
Vị thế mua call option với giá thực hiện X3 tương đối cao.
Vị thế bán call option với giá thực hiện X2 nằm giữa X1 và X3 (X2 gần với giá
hiện hành).
Hình 4


Lợi nhuận

X1

X2

X3
ST

Chiến lược Butterfly Spread sẽ có lợi nếu giá chứng khoán gần với X2
và sẽ phát sinh lỗ nếu giá chứng khoán dịch chuyển đáng kể theo cả 2
hướng. Đây là chiến lược thích hợp cho nhà đầu tư dự đoán giá chứng khoán
không dịch chuyển nhiều. Yêu cầu phải có số vốn ban đầu.
ST là giá chứng khoán ngày đáo hạn, c1 là giá mua call option với giá
thực hiện X1 , c2 là giá bán call option với giá thực hiện X2, c3 giá mua call
option với giá thực hiện X3.
Giá CK
ST
LN từ muaLN từ muaLN từ bán 2
Tổng LN

Call optionCall optionCall option
1
2
- c1
- c3
+ 2c2
- c1 – c3 + 2c2 (<0)

X1
+ 2c2

- c1 – c3 + 2c2 (<0)
+ST – X1 > 0
X2+2c2-2(ST– X2) - c1 – c3 + 2c2 (<0)
+X3 - ST > 0
S T ≥ X3
- c1+ST – X1 - c3+ST – X3 + 2c2-2( ST –-c1 – c3 + 2c2
X2)
Ví dụ:
Vị thế mua call option với giá thực hiện X1 = $55 với giá c1= $10
Vị thế mua call option với giá thực hiện X3 = $65 với giá c3= $5
Vị thế bán call option với giá thực hiện X2 =$60 với giá c2= $7

Chi phí ban đầu phải bỏ ra là -c1 – c3 + 2c2 = 10 + 5 – 2x7 = $1


Giá CK


LN từ muaLN từ muaLN từ bán 2
Tổng LN
Call optionCall optionCall option
1
2
ST <55
- 10
-5
+ 2*7
-1
55+ 2*7
- 1+ST – 55= ST – 54>
55
0
60+2*7-2(ST– 60) -1+65 - ST =64 - ST >
55
0
ST ≥ 65
- 10+ST –- 5+ST – 65 + 2*7-2( ST –-1
55
60)
Chiến lược Butterfly Spread cũng có thể tạo ra được bằng cách sử dụng
put option.
Vị thế mua put option với giá thực hiện X1 tương đối thấp.
Vị thế mua put option với giá thực hiện X3 tương đối cao.
Vị thế bán put option với giá thực hiện X2 nằm giữa X1 và X3 (X2 gần với giá
hiện hành).


Hình 5
Lợi nhuận

X1

X2

ST

3. Phối hợp (liên quan đến việc nắm giữ vị thế trên cả put và call
option với cùng loại chứng khoán.
a. Chiến lược Straddle: Vị thế mua call option và put option cùng
giá thực hiện và cùng ngày đáo hạn.
Hình 6


Lợi nhuận

X
ST

Nếu giá chứng khoán lúc đáo hạn gần với giá thực hiện thì sẽ dẫn đến
lỗ. Nếu có sự dịch chuyển rộng giá chứng khoán về hai phía thì nhà đầu tư
sẽ có lợi nhuận đáng kể.
Chiến lược này thích hợp khi nhà đầu tư dự đoán có sự giao động giá
chứng khoán khá rộng nhưng không biết hướng dịch chuyển.
X là giá thực hiện của call option, ST là giá chứng khoán ngày đáo hạn,
c1 là giá mua call option, c2 là giá mua put option.
Giá CK LN từ mua CallLN từ mua
option

option
ST < X - c 1
- c2+X - ST
ST > X - c1+ST – X

- c2

PutTổng LN
-c2–c1+X- ST
-c2 - c1+ST – X

VD: Giá cổ phiếu hiện hành là 69, nhà đầu tư dự đoán giá sẽ giao động
mạnh trong 3 tháng tới. Nhà đầu tư tạo ra 1 Straddle bằng cách mua cả call
và put option với giá thực hiện $70, thời gian đáo hạn là 3 tháng. Giá call
option là $4, giá put option là $3
Nếu giá chứng khoán ở $69 thì nhà đầu tư bị lỗ $6 (chi phí ban đầu $7,
đến đáo hạn call option không còn giá trị, put option còn $1).
Nếu giá chứng khoán dịch chuyển lên $70 thì nhà đầu tư bị lỗ $7 (chi
phí ban đầu $7).
Nếu giá chứng khoán nhảy vọt $90 thì nhà đầu tư lời $13 (chi phí ban
đầu $7, đến đáo hạn call option không còn giá trị, put option có giá trị $20)
Nếu giá chứng khoán hạ thấp $55 thì nhà đầu tư lời $8 (chi phí ban đầu
$7, đến đáo hạn call option có giá trị15, put option không còn giá trị).


Giá CK LN từ mua CallLN từ mua PutTổng LN
option
option
ST < 70 - 4
- 3+70 - ST

-7+70- ST = 63 - ST
ST > X - 4+ST – 70

-3

-7+ST – 70 = ST –
77

Với ST = 77 hoặc ST = 63 là 2 điểm hòa vốn.
Chiến lượt trên đôi khi gọi là chiến lược Bottom Straddle hoặc Straddle
purchase. Chiến lược Top Straddle hoặc Straddle Write thì ngược lại – bán
call option và mua put option cùng giá thực hiện và cùng ngày đáo hạn.
b. Chiến lược Strip và Strap
Chiến lược Strip: Mua 1 call option và 2 put option cùng giá thực hiện
và cùng ngày đáo hạn. Trong chiến lược này nhà đầu tư dự đoán rằng giá
chứng khoán sẽ biến động mạnh và nghĩ rằng giá sẽ giảm hơn tăng.

Hình 7


Lợi nhuận

X
ST

Chiến lược Strap: Mua 2 call option và 1 put option cùng giá thực hiện
và cùng ngày đáo hạn. Trong chiến lược này nhà đầu tư dự đoán rằng giá
chứng khoán sẽ biến động mạnh và nghĩ rằng giá sẽ tăng hơn giảm.
Hình 9
Lợi nhuận


X
ST

c. Chiến lược Strangle: Nhà đầu tư mua một put option và một
call option cùng ngày đáo hạn nhưng khác giá thực hiện.
Giá thực hiện call option (X2) cao hơn giá thực hiện put option (X1).
Nhà đầu tư đánh cuộc có sự biến động lớn vê giá nhưng không chắc
tăng hoặc giảm. Để có lời thì giá chứng khoán phải dịch chuyển xa hơn so
với Straddle. Tuy nhiên lỗ khi giá chứng khoán dừng ở giá trị trung tâm thì
lại ít hơn.
Mô hình lợi nhuận của Strangle phụ thuộc vào mức độ gần nhau của 2
gái thực hiện.
Hình 10
Lợinhuận

X1

X2

ST


×