Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

CƠ sở lí LUẬN và THỰC TIỄN của dạy học NGOẠI KHÓA vật lí ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG và THỰC NGHIỆM của ỨNG DỤNG kĩ THUẬT CHƯƠNG DÒNG điện XOAY CHIỀU vật lí 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.69 KB, 84 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY
HỌC NGOẠI KHÓA VẬT LÍ Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG VÀTHỰC NGHIỆM
CỦAỨNG DỤNG KĨ THUẬT CHƯƠNG DÒNG
ĐIỆN XOAY CHIỀU VẬT LÍ 12


- Cơ sở lí luận về dạy học ngoại khóa Vật lí ở trường
phổ thông
Trong quá trình học tập ở trường phổ thông, môn Vật lí góp
phần quan trọng trong việc hình thành kiến thức khoa học tự
nhiên để qua đó hình thành năng lực hoạt động của HS (trí óc
và tay chân).
Do thời gian dạy học nội khóa ở nhà trường phổ thông có
hạn nên việc truyền tải kiến thức môn vật lí còn nhiều khó
khăn. Vì vậy, cần kết hợp và tăng cường các DHNK sẽ là một
giải pháp quan trọng để hoàn thiện kiến thức và tạo cơ hội để
HS vận dụng kiến thức.
- Vị trí, vai trò của DHNK trong hệ thống các hình thức
tổ chức dạy học ở trường phổ thông
Theo tài liệu “Phương pháp tổ chức HĐNK Vật lí” [4]:
“Về cơ bản, HĐNK được tổ chức ngoài giờ học ở trên lớp.
Hoạt động này hỗ trợ cho giáo dục nội khóa, tận dụng thời
gian và không gian ngoài nhà trường, góp phần phát triển
nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và năng lực sáng tạo của
HS. Nhờ HĐNK, các kiến thức tiếp thu được trên lớp có cơ


hội được áp dụng, mở rộng thêm trên thực tế, đồng thời có tác
dụng nâng cao hứng thú học tập nội khóa”.
Trong dạy học vật lí, có nhiều hình thức để tiến hành


DHNK với nhiều nội dung nhằm tạo cơ hội cho HS phát triển
các năng lực chuyên biệt môn vật lí.
- Các đặc điểm của DHNK Vật lí
Dựa trên nghiên cứu cũng chỉ ra DHNK Vật lí có những
đặc điểm sau:
- Nội dung DHNK Vật lí rất đa dạng, bao gồm ngoại khóa
làm bài tập, chế tạo dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thí
nghiệm với các dụng cụ đã chế tạo, thực hiện các nghiên cứu
áp dụng kiến thức vào thực tế, xây dựng các bản khuyến cáo
để giới thiệu về các cách thức sử dụng hiệu quả thiết bị kĩ
thuật, tham quan công trình Vật lí, hội vui Vật lí…
- Hình thức DHNK được thực hiện linh hoạt, theo nhóm
hay cá nhân với sự hỗ trợ của nhiều lực lượng (phụ huynh,
người lớn…). Các hình thức tổ chức có thể gồm:


+ DHNK ở trường: Hội thi Vật lí, xây dựng chuyên đề
Vật lí, tổ chức câu lạc bộ (nhóm) Vật lí, viết báo tường hoặc
tập san, luyện giải bài tập Vật lí…
+ DHNK ở nhà hay ở xưởng: Thiết kế, chế tạo thiết bị và
tiến hành các thí nghiệm với các thiết bị đã chế tạo, sưu tầm
tài liệu trên mạng…
+ DHNK ở các nơi khác: tham quan các công trình kĩ
thuật, các nhà máy…
-

Các phương tiện, thiết bị sử dụng trong DHNK rất đa dạng.
Đó là các thiết bị, vật dụng thực trong đời sống, các máy móc
trong nhà máy, các phương tiện đi lại, các mô hình được xây
dựng phục vụ việc lí giải nguyên tắc hoạt động của các máy


-

móc…
Cách đánh giá kết quả thông qua những biểu hiện trong thực
tiễn hoạt động và sản phẩm của HS như báo cáo khoa học,
thiết bị dụng cụ thí nghiệm, các kết quả khảo sát về các quá

-

trình vật lí…
HS được làm việc theo nhóm ở nhà hoặc ở xưởng trường hay
ở phòng thí nghiệm.
- Phương pháp hướng dẫn HS trong DHNK Vật lí


Do thời gian và không gian được mở rộng nên việc tổ
chức các DHNK có điều kiện vận dụng nhiều Phương pháp và
kĩ thuật dạy học hiện đại với các mức độ định hướng khác
nhau:
- Định hướng tìm tòi: GV chỉ thống nhất nhiệm vụ, vấn
đề cần giải quyết đối với HS. Kiểu định hướng này đòi hỏi HS
tự định hình những hành động trong tình huống mới.
- Định hướng tái tạo: GV đưa ra những hướng dẫn cụ thể
để HS vận dụng kiến thức, hình thức hoạt động mà HS đã biết
hoặc đã được GV chỉ ra, để HS có thể thực hiện được nhiệm
vụ mà họ đảm nhận.
- Định hướng khái quát chương trình hóa: kết hợp các đặc
điểm của cả hai kiểu định hướng trên, trước tiên GV gợi ý cho
HS tự tìm tòi nhưng chú ý giúp cho HS có nhận thức một

cách khái quát việc tìm tòi, giải quyết vấn đề và tự định
hướng được chương trình hóa theo các bước hợp lí: từ tổng
quát, tổng thể đến các bộ phận riêng biệt, từ tìm tòi đến tái
tạo.
Trong DHNK, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp
định hướng khái quát chương trình hóa. GV từng bước gợi


mở, hướng dẫn HS tự tìm hiểu các thiết bị điện trong gia đình.
Nếu HS khó khăn về cấu tạo, nguyên tắc hoạt động, những sự
khác biệt giữa những thiết bị kĩ thuật so với lí thuyết đã học
thì GV đưa ra các chỉ dẫn thực hiện thông qua các câu hỏi hay
yêu cầu thực hiện tiếp theo.
- Quy trình tổ chức DHNK Vật lí
DHNK có thể thực hiện theo những bước sau:
- Bước 1: Lựa chọn chủ đề ngoại khóa
Căn cứ vào nội dung chương trình, mục tiêu dạy học,
đặc điểm HS và điều kiện của nhà trường, của địa phương để
lựa chọn chủ đề của DHNK. Các nhiệm vụ trong chủ đề cần
phải rõ ràng để có tác dụng định hướng tâm lí và kích thích sự
tích cực, sự sẵn sàng của HS ngay từ đầu.
- Bước 2: Lập kế hoạch ngoại khóa, bao gồm:
+ Xác định mục tiêu của DHNK gồm các mục tiêu: về
kiến thức, về rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy, về tình cảm,
thái độ
+ Xác định nội dung DHNK


+ Xác định đối tượng tham gia DHNK
+ Dự kiến hình thức tổ chức DHNK

+ Dự kiến về trang thiết bị và cơ sở vật chất cần cho
thực hiện DHNK
+ Dự kiến phương pháp dạy học, đặc biệt là dự kiến
những sai lầm của HS và định hướng của GV để giúp đỡ HS
khắc phục, sửa chữa các sai lầm đó.
+ Dự kiến thời gian thực hiện các giai đoạn của DHNK.
- Bước 3: Tiến hành DHNK theo kế hoạch đã vạch ra
Khi tiến hành DHNK theo kế hoạch, GV lưu ý những
nội dung sau:
+ Theo dõi HS thực hiện các nhiệm vụ để kịp thời giúp
đỡ, động viên, khuyến khích các em, đồng thời phát hiện
những vướng mắc có thể nảy sinh ngoài dự kiến để điều chỉnh
hợp lý với kế hoạch đã đặt ra.
+ Đối với hoạt động có quy mô lớn như toàn lớp, toàn
khối, GV phải tổ chức, điều hành, định hướng các hoạt động.


Đặc biệt, GV phải trực tiếp duy trì để HS thảo luận, tranh luận
rộng rãi những nội dung DHNK.
+ Đối với hoạt động có quy mô nhỏ như tổ, nhóm HS thì
cần để cho HS hoàn toàn tự chủ cả về việc tổ chức và thực hiện
các nhiệm vụ được giao. GV chỉ giúp đỡ khi HS gặp khó khăn,
vướng mắc và không thể tự giải quyết được.
- Bước 4: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả, rút kinh
nghiệm, khen thưởng.
+ Để HS giới thiệu sản phẩm của nhóm mình với mọi
người. HS trình bày những việc đã làm, các kết quả thu được,
những nhận định, đánh giá; trao đổi, thảo luận để hoàn thiện
sản phẩm nhóm.
+ GV thu thập các kết quả qua sản phẩm làm việc, qua

quan sát để đánh giá, rút kinh nghiệm, điều chỉnh nội dung,
hình thức và phương pháp dạy học để những DHNK sau đạt
hiệu quả cao hơn.
- Cơ sở lí luận về dạy học ứng dụng kĩ thuật Vật lí
- Khái niệm ƯDKT và dạy học các ƯDKT


Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Việt [13], các ƯDKT
được hiểu là các đối tượng, thiết bị máy móc (hoặc hệ thống
các đối tượng thiết bị máy móc) được chế tạo và sử dụng với
mục đích nào đó trong kĩ thuật và đời sống mà nguyên tắc
hoạt động của chúng, về cơ bản, dựa trên các định luật,
nguyên lí vật lí.
Ví dụ: Máy phát điện, các động cơ điện, loa điện động…
hoạt động dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ; động cơ
nhiệt, máy lạnh…hoạt động theo các nguyên lí Nhiệt động lực
học…
Do các thiết bị kĩ thuật thường rất phức tạp nhằm tối ưu
cho các mục đích sử dụng nên đa số việc dạy học các ƯDKT
được thông qua các mô hình.
Theo tác giả Phạm Kim Chung [2] trong dạy học ƯDKT
của Vật lí thường sử dụng hai loại mô hình: mô hình hình vẽ
(mô hình kí hiệu) và mô hình vật chất chức năng.
Khi sử dụng các mô hình thay thế cho những máy móc
thực thì có những nhược điểm:
- Chỉ có tính gần đúng tạm thời


- Tuy phản ánh vật gốc nhưng không thể thay thế hoàn
toàn vật gốc mà nó chỉ có giá trị như một phương tiện, công

cụ dạy học.
- Mỗi mô hình chỉ có hiệu lực trong những giới hạn
được nêu ra.
- Các con đường dạy học ƯDKT và dạy học các ƯDKT
Theo giáo trình “ Phương pháp dạy vật lí ở trường phổ
thông” [2], việc dạy học về ƯDKT thường diễn ra theo hai
con đường:
- Theo con đường thứ nhất: Dựa trên cấu tạo sẵn có của
thiết bị kĩ thuật, kết hợp với cơ sở các định luật, nguyên lí đã
được học, yêu cầu của HS nghiên cứu cấu tạo và lý giải
nguyên tắc hoạt động của các ƯDKT.
Tiến trình dạy học theo cách này bao gồm ba giai đoạn
cơ bản sau:
Giai đoạn 1: Tìm hiểu mục đích sử dụng của thiết bị
Quan sát thiết bị gốc hoặc xem qua tranh ảnh, video; vận
hành (xem) thiết bị hoạt động để HS xác định được chính xác
tác động ở đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra. Từ đó yêu


cầu HS trình bày mục đích sử dụng của thiết bị, xác định được
“điều cần phải giải thích”.
Giai đoạn 2: Nghiên cứu cấu tạo của thiết bị gốc để đưa ra
mô hình của nó
Có thể cho HS quan sát thiết bị được tháo ra hoặc hình
ảnh của thiết bị gốc đã được bổ dọc, bổ ngang. Định hướng
cho HS chú ý đến sự gắn kết giữa những chi tiết, bộ phận của
thiết bị có biến đổi, có tương tác hoặc có những đặc tính liên
quan khi thiết bị đó hoạt động. Từ đó xây dựng mô hình thay
thế cho đối tượng gốc. Nó có thể là mô hình hình vẽ hoặc mô
hình vật chất chức năng hoặc cả hai.

Giai đoạn 3: Sử dụng mô hình, giải thích nguyên tắc hoạt
động của thiết bị.
Cho mô hình vận hành để mô phỏng nguyên lí hoạt động
của thiết bị. Dựa trên mô hình đã xây dựng, lựa chọn một định
luật, quy tắc vật lí làm cơ sở xuất phát, kết hợp với những
điều kiện cụ thể của thiết bị để thực hiện phép suy luận diễn
dịch và suy ra kết luận. Nếu kết luận phù hợp thì quá trình
giải thích hoàn thành. Nếu kết quả thu được không phù hợp


thì lựa chọn lại định luật xuất phát và kiểm tra lại quá trình
suy luận.
- Theo con đường thứ hai: Từ các định luật, nguyên lí,
đặc tính Vật lí…đã biết, nhiệm vụ của HS là đưa ra phương
án thiết kế một thiết bị nhằm giải quyết một yêu cầu kĩ thuật
nào đó. Tiến trình này có thể tiến hành theo các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Ôn tập những định luật, nguyên lí Vật lí có
liên quan.
Giai đoạn 2: Đưa cho HS nhiệm vụ thiết kế một thiết bị
có chức năng xác định.
Giai đoạn 3: Hướng dẫn HS đề xuất, lựa chọn phương án
thiết kế thiết bị.
Giai đoạn 4: Đưa ra mô hình vật chất chức năng tương
ứng với phương án thiết kế đã lựa chọn và vận hành thử để sơ
bộ kiểm tra tính hợp lí của phương án thiết kế.
Giai đoạn 5: Bổ sung hoàn thiện mô hình về phương diện
kĩ thuật, phù hợp thực tiễn, đưa ra vật thật hoặc mô hình có
thêm các chi tiết kĩ thuật để HS hiểu sâu thêm về ứng dụng kĩ
thuật này.



Giai đoạn 6: Củng cố kiến thức, trong giai đoạn này, GV
yêu cầu HS trình bày tóm tắt lại chức năng, cấu tạo và nguyên
tắc hoạt động của ƯDKT vừa nghiên cứu.
Dựa theo đặc điểm của HS, dựa vào điều kiện về thời gian
và điều kiện cơ sở vật chất để GV lựa chọn việc dạy học theo
con đường 1 hay con đường 2.
- Tính tích cực của HS trong học tập
- Khái niệm về tính tích cực trong học tập của HS
Tính tích cực trong học tập thực chất là tính tích cực nhận
thức, biểu hiện đặc trưng ở nỗ lực hiểu biết, khát vọng chiếm
lĩnh tri thức. Tích cực trong học tập có nghĩa là thực hiện các
nhiệm vụ một cách chủ động, tự giác, nỗ lực cao độ, có hướng
đích rõ rệt, hào hứng trong hoạt động trí óc và chân tay nhằm
chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng chúng vào học
tập và thực tiễn. Tính tích cực là yếu tố cần thiết nâng cao khả
năng tiếp thu, lĩnh hội, vận dụng kiến thức của HS là nền tảng
vững chắc để nâng cao chất lượng học tập.
- Biện pháp phát huy tính tích cực


Theo chúng tôi, trong dạy học môn Vật lí, để phát triển tính
tích cực của HS cần:
- Không yêu cầu HS giải các bài toán quá dài, chứa nhiều
thông tin, hay nhiệm vụ cần thực hiện quá phức tạp về mặt
toán học hay chứa đựng quá nhiều mối liên hệ toán học mà
nên gắn kết kiến thức với thực tiễn.
-

Cần tạo ra sự quan tâm, hứng thú của đa số HS khi cho

các em thấy được sự kiện, hiện tượng vật lý trong thực tế
không hề mới lạ nhưng nếu tìm hiểu, lí giải được nó sẽ mang
lại lợi ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội. Muốn
vậy, các nhiệm vụ giao cho HS là lí giải hiện tượng thực tế,
thực hiện các thí nghiệm đơn giản, thực hiện các hành động,

-

ứng xử hợp lí trong cuộc sống hàng ngày.
Cần cho HS trình bày, thực hiện những nhiệm vụ quan
trọng nhưng phải phù hợp với khả năng của họ để họ khẳng
định vai trò của mình trong tập thể. Ví dụ: giữ chặt một đồ thí
nghiệm, dùng một lực đẩy lớn, đóng mạch điện, đọc to một

-

đoạn văn bản, cắt một khúc gỗ….
Luôn tạo ra sự tin tưởng, chân thành khi giao nhiệm
vụ. Không bài xích, chỉ trích hay phê phán khi HS thất bại mà


bình tĩnh cùng HS tìm nguyên nhân, khuyến khích sự cố gắng
-

tiếp theo để thực hiện lại nhiệm vụ.
Khuyến khích HS vận dụng những kiến thức đã học
vào thực tiễn cuộc sống. Những vận dụng đó phải thiết thực

-


đối với bản thân HS, gia đình và xã hội.
Không so sánh, khen quá nhiều HS “giỏi, ngoan” và

-

hạn chế (không) chê bai HS “ hư, dốt”.
Tránh chê bai, mạt sát hay khiển trách HS trước lớp
mà dành cho việc khen thưởng, động viên HS trước lớp khi
thực hiện được một hoạt động có ý nghĩa; thường xuyên liên
hệ với gia đình hoặc bạn thân với HS đó để tìm các cách thức
tác động đối vơi HS theo hướng tích cực.
Điều khiển lớp HS thông qua “Luật pháp” hay “Cam kết”
được xây dựng dựa trên quy chế học tập của nhà trường và sự
thống nhất giữa GV bộ môn với HS và phụ huynh HS trong
lớp.
- Các biểu hiện của tính tích cực của HS trong học tập
Theo tác giả Thái Duy Tuyên [12], tính tích cực nhận
thức được nhận biết thông qua các dấu hiệu biểu hiện sau:
* Những dấu hiệu bề ngoài: qua thái độ, hành vi và hứng
thú. Cụ thể:


- Hứng thú học tập: thể hiện ở niềm vui, sốt sắng thực
hiện yêu cầu của GV, hăng hái tham gia trả lời các câu hỏi
thảo luận của GV và HS; thích phát biểu ý kiến của mình
trước vấn đề nêu ra; thường xuyên thắc mắc, đòi hỏi được giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ.
- Sự chú ý: thể hiện ở việc HS tập trung chú ý quan sát,
lắng nghe, theo dõi hành động của GV.
- Hành vi: chủ động tham gia vào các hình thức của hoạt

động học tập như: thường xuyên xung phong phát biểu ý kiến,
trả lời bổ sung các câu hỏi; ghi chép khoa học, đầy đủ, tác
phong khẩn trương khi thực hiện các hành động hoặc tư duy.
* Dấu hiệu thứ hai là những biểu hiện bên trong như sự
căng thẳng trí tuệ, sự nỗ lực hoạt động, sự phát triển của tư duy,
ý chí và xúc cảm…Những dấu hiệu bên trong này chỉ được phát
hiện thông qua những biểu hiện, hoạt động bên ngoài kết hợp
với quá trình tích lũy và xử lí một lượng thông tin đủ lớn mới
thấy được. Cụ thể:
- Sự nỗ lực của ý chí: thể hiện ở sự kiên trì, bền bỉ, cố
gắng giải quyết nhiệm vụ nhận thức; quyết tâm hoàn thành


các bài tập, không nản lòng trước những tình huống khó khăn,
nỗ lực vươn lên trong học tập.
- Độc lập tư duy: thể hiện ở việc HS sử dụng các thao tác
nhận thức, đặc biệt là các thao tác tư duy như phân tích, tổng
hợp, so sánh, khái quát…để giải quyết các nhiệm vụ nhận
thức một cách độc lập, tự giác. Đây là biểu hiện cao của tính
tích cực.
+ Chủ động, tự giác: được thể hiện ở việc làm chủ các
hành động của quá trình nhận thức như: xác định nhiệm vụ,
xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đó, tự nghiên cứu, tự
làm thêm các bài tập, tự kiểm tra…; tích cực vận dụng những
kiến thức, kỹ năng tích lũy được vào việc giải quyết các tình
huống và các bài tập khác nhau. Lúc này, tính tích cực nhận
thức góp phần định hướng hoạt động học tập của người học.
+ Sự sáng tạo: được biểu hiện khi chủ thể nhận thức phát
hiện được cái mới, cách giải quyết mới cho các bài tập và tình
huống, không bị phụ thuộc vào cái đã có. Đây là mức độ biểu

hiện cao nhất của tính tích cực.
* Dấu hiệu cuối cùng phản ánh ở kết quả học tập của
HS. Dấu hiệu này thể hiện ở việc HS lĩnh hội vấn đề một cách


nhanh, đúng, tái hiện được khi cần, chủ động vận dụng được
kiến thức, kĩ năng khi gặp tình huống mới để nhận thức
những vấn đề mới.
Những dấu hiệu này biểu hiện khác nhau ở từng cá thể
HS, bộc lộ rõ ở những HS các lớp dưới, kín đáo ở HS các lớp
trên. Khi thực nghiệm sư phạm, chúng tôi sẽ dựa vào những
biểu hiện trên để đánh giá tính tích cực của HS trong quá trình
DHNK.
- Năng lực sáng tạo của HS trong học tập.
- Khái niệm năng lực sáng tạo của HS trong học tập
Năng lực sáng tạo là toàn bộ quá trình của hoạt động sáng
tạo, bao gồm: chuẩn bị ý tưởng; lồng ấp ý tưởng; thu thập, tìm
tòi, hiểu thấu ý tưởng; tạo ra và đánh giá ý tưởng; cụ thể hóa ý
tưởng và tiến hành các giải pháp thực hiện ý tưởng đó trong
thực tiễn. Đó cũng có thể là quá trình nhận thức, nhưng những
nhận thức đó hoàn toàn mới không bị lệ thuộc, chi phối bởi
những khái niệm đã có trước. Năng lực sáng tạo gắn liền với
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và vốn hiểu biết của chủ thể.


- Các biểu hiện của năng lực sáng tạo của HS trong
học tập Vật lí
Trong học tập bộ môn Vật lí, năng lực sáng tạo của HS
được biểu hiện qua các dấu hiệu cụ thể sau:
- HS phát hiện được vấn đề mới từ các sự kiện, hiện

tượng được quan sát.
- HS đưa ra được các cách lí giải, nhanh chóng phát hiện
ra mối liên hệ khi quan sát sự vận hành của các thiết bị.
- HS đề xuất được các giả thuyết, thực hiện được việc
suy luận để đưa ra điều cần kiểm nghiệm, dự đoán kết quả thí
nghiệm.
- HS đưa ra được các phương án thiết kế, chế tạo dụng
cụ thí nghiệm. Có những sáng kiến trong chế tạo dụng cụ thí
nghiệm, trong bố trí thí nghiệm, để thí nghiệm dễ quan sát, dễ
thực hiện, chính xác và dụng cụ bền đẹp hơn.
- HS đưa ra được dự đoán kết quả thí nghiệm, so sánh
được các phương án thí nghiệm, giải thích được kết quả thí
nghiệm.


Trong thực nghiệm sư phạm DHNK về cảm ứng điện từ,
chúng tôi sẽ dựa vào những biểu hiện trên để đánh giá năng
lực sáng tạo của HS.
- Các biện pháp hình thành và phát triển năng lực sáng
tạo của HS trong học tập
- Thực hiện hoạt động sáng tạo gắn liền với quá trình xây
dựng kiến thức mới.
- Tổ chức quá trình nhận thức vật lí theo chu trình sáng
tạo
- Luyện tập phỏng đoán, dự đoán, xây dựng giả thuyết.
+ Dựa vào sự liên tưởng của mình tới một kinh nghiệm
đã có.
+ Dựa trên sự tương tự
+ Dựa trên sự xuất hiện đồng thời giữa hai hiện tượng
mà dự đoán giữa chúng có quan hệ nhân quả.

+ Dựa trên nhận xét thấy hai hiện tượng luôn luôn biến
đổi đồng thời, cùng tăng hoặc cùng giảm mà dự đoán về quan
hệ nhân quả giữa chúng.


+ Dựa trên sự thuận nghịch thường thấy của nhiều quá
trình.
+ Dựa trên sự mở rộng phạm vi áp dụng của một kiến
thức đã biết sang một lĩnh vực khác.
+ Dự đoán về mối quan hệ định lượng.
- Luyện tập đề xuất phương án kiểm tra dự đoán.
- Giải các bài tập sáng tạo
Trong dạy học vật lí, để rèn luyện năng lực sáng tạo cho
HS có thể sử dụng bài tập sáng tạo. Đối với bài tập sáng tạo,
ngoài việc phải vận dụng thuần thục kiến thức đã được trang
bị, HS bắt buộc phải có tư duy độc lập mới mẻ, không thể suy
luận từ những kiến thức đã học. Có hai loại bài tập sáng tạo:
Bài tập nghiên cứu và bài tập thiết kế chế tạo.
Tạo tiền đề lý luận cho việc xây dựng quy trình “Tổ
chức dạy học ngoại khoá về ƯDKT thuộc chương “Dòng điện
xoay chiều” - Vật lí 12, nhằm phát huy tính tích cực và năng
lực sáng tạo của học sinh”.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm


- GV gặp gỡ, trao đổi, giao nhiệm vụ nghiên cứu đối với
các nhóm trong lớp thực nghiệm.
- Trong quá trình HS thực hiện nhiệm vụ, GV tham gia
cùng để theo dõi tiến độ và phương pháp các em tiến hành, có
những hướng dẫn kịp thời khi các em gặp khó khăn, vướng

mắc.
- HS nhận nhiệm vụ, từng nhóm tự tổ chức hoạt động
nghiên cứu của mình (như sắp xếp thời gian, địa điểm, phân
công hoạt động…) và thực hiện nhiệm vụ.
- Đối với nhiệm vụ đo các thông số và chế tạo dụng cụ,
HS phải đưa ra được phương án tiến hành, cách thiết kế, chế
tạo. Thông qua sự kiểm tra và định hướng của GV, HS sẽ thực
hiện các nhiệm vụ thực hành đó.
- Các em tự hoàn thiện nội dung báo cáo, cách thức báo
cáo và chuẩn bị các dụng cụ trong bài báo cáo để trình bày
trong buổi tổ chức DHNK của cả lớp.
- Phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
Căn cứ vào mục đích thí nghiệm, mục đích của DHNK và
căn cứ vào nội dung các nhiệm vụ ngoại khoá giao cho HS.


Sau khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã tổng hợp, phân
tích và đánh giá được các kết quả cần quan tâm bao gồm
những nội dung cụ thể sau:
- Phân tích diễn biến thực hiện DHNK của HS
Toàn bộ quá trình thực hiện hoạt DHNK của HS đã được
GV ghi chép lại cụ thể, chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: GV gặp gỡ lớp thực nghiệm, trao đổi quá
trình thực nghiệm, phân chia các nhóm hoạt động và giao
nhiệm vụ cho mỗi nhóm.
- Thời gian: Từ 9h30 đến 10h15, ngày 09/9/2017.
- Địa điểm: Phòng học lớp 12A2, trường THPT Lê Quý
Đôn
- Số lượng HS: 26 HS của lớp 12A2.
- Diễn biến: GV gặp gỡ lớp thực nghiệm, nắm bắt tình

hình và số lượng HS của lớp, giới thiệu với HS mục đích của
quá trình DHNK là tìm hiểu về những ƯDKT của DĐXC. GV
thông báo kế hoạch hoạt động của DHNK, bao gồm 2 phần:
Phần 1 là các nhóm hoạt động ngoại khoá, tự tìm hiểu và
nghiên cứu các nội dung theo nhiệm vụ đã giao; phần 2 là tổ


chức hoạt động báo cáo kết quả nghiên cứu được, kết hợp các
phần thi trong DHNK “Hội vui Vật lí”. GV phân tích sơ lược
với từng nhóm về nhiệm vụ mà các nhóm cần thực hiện,
hướng dẫn những tài liệu và cách tìm tài liệu nghiên cứu cho
HS…. Qua ngày đầu tiên làm việc, chúng tôi nhận thấy rằng
HS rất hứng thú, hưởng ứng hoạt đông và nhiệt tình tham gia.
Các em nhận nhiệm vụ theo từng nhóm, lên danh sách thành
viên và bầu nhóm trưởng hoạt động.
Giai đoạn 2: GV hướng dẫn HS nghiên cứu, tìm hiểu cấu
tạo, hoạt động và đo các thông số của thiết bị.
- Thời gian: Từ 9h30 đến 10h30, ngày 13/9/2017.
- Địa điểm: Phòng học lớp 12A2, trường THPT Lê Quý
Đôn
- Số lượng HS: 26 HS của lớp 12A2.
- Diễn biến: Sau ngày làm việc giao nhiệm vụ cho HS, các
em đã về nhà thu thập tài liệu, nghiên cứu lý thuyết để chuẩn bị
cho buổi thực hành nghiên cứu thiết bị.
+ GV đã chuẩn bị dụng cụ cho các nhóm như sau:
Nhóm 1: 1 Quạt điện


Nhóm 2: 2 Bàn là khô
Nhóm 3: 3 Bóng đèn thuộc các loại bóng sợi đốt,

huỳnh quang, led và dụng cụ mắc mạch điện bóng đèn.
Nhóm 4: 1 Máy ổn áp Lioa
+ Các nhóm HS tiến hành tháo các dụng cụ điện, quan
sát, vận hành và ghi chép lại cấu tạo thực bên trong, nguyên lý
hoạt động của các thiết bị, thực hiện xong nhiệm vụ 1 của mỗi
nhóm. Ở nhiệm vụ 2 của mỗi nhóm, các em bước đầu nêu
nguyên tắc mắc các thiết bị đo, cách sử dụng các loại đồng hồ
đo để đo các thông số cần thiết, sau đó xác định phương án đo
tại các vị trí nào trên mạch hoạt động của thiết bị nhóm mình
và báo cáo với GV. GV theo dõi từng nhóm mắc điện nguồn
và mắc thiết bị đo. Riêng với nhóm 3, các em mắc các mạch
điện của cả 3 loại bóng đèn sau đó tiến hành đo thông số điện.
- Một số khó khăn HS gặp phải và những biểu hiện
tích cực, sáng tạo của HS trong hoạt động nghiên cứu.
Nhóm 1: Nghiên cứu Quạt điện
1.1

Những - Không phân biệt được bộ phận stato và roto trong

khó khăn, sai


×