Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục NGOÀI GIỜ lên lớp của học SINH dân tộc ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG dân tộc nội TRÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.53 KB, 47 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP CỦA HỌC SINH DÂN TỘC Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ


Sơ lược về nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới
Hoạt động dạy - học và HĐGDNGLL của học sinh
được nghiên cứu có hệ thống từ rất sớm. Để phát triển
hình thành nhân cách của toàn diện của học sinh thì các
HĐGDNGLL đóng một vai trò rất quan trọng.
C.Mác cùng F.Ănghen- những người sáng lập ra học
thuyết cách mạng XHCN cho rằng: “Tất cả mọi lao động
xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên qui
mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng” [8,tr22]. Hai ông còn xác định mục đích của
nền giáo dục XHCN là tạo ra: “con người phát triển toàn
diện”. Muốn vậy phải theo: “phương thức giáo dục kết


hợp với lao động sản xuất”.[20,tr10] Đây chính là phương
thức giáo dục hiện đại.
V.I. Lênin (1870-1924) - người phát triển học thuyết
giáo dục XHCN của C.Mác và F.Ănghen - đã đưa ra quan
điểm: Người hiệu trưởng trong nhà trường XHCN không
phải chỉ cần biết tổ chức việc dạy và học theo yêu cầu xã


hội mà điều quan trọng hơn là phải biến nhà trường thành
một “công cụ của chuyên chính vô sản” (Lênin - Bàn về
giáo dục). V.I. Lênin đã vận dụng phương thức giáo dục
của C.Mác và F.Ănghen vào thực tiễn và coi là một trong
những nguyên tắc của giáo dục XHCN. Trong bài phát
biểu “Nhiệm vụ của thanh niên” (1920), Người nói: “Chỉ
có thể trở thành người cộng sản khi biết lao động và hoạt
động xã hội cùng với công nhân và nông dân”.
Các nhà giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh tầm quan
trọng của các hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động
ngoại khóa. Các nghiên cứu cũng khẳng định: Học sinh
Nhật Bản dành khá nhiều thời gian cho các hoạt động này
vì hầu hết các trường học ở Nhật Bản là các trường bán


trú. Tuy nhiên, các hoạt động ngoài giờ lên lớp này tập
trung chủ yếu vào việc giáo dục đạo đức và giáo dục
truyền thống cho học sinh như dạy các nghi thức giao tiếp
theo tập tục của người Nhật, dạy cách pha trà, nấu nướng,
các nghề truyền thống của Nhật Bản. Chương trình cải
cách giáo dục của Nhật Bản “giảm bớt thời lượng các giờ
lên lớp để tăng cường nhiều hơn các hoạt động ngoài giờ
lên lớp cho học sinh” [27, tr 25].
J.A. Cômenxki - ông tổ của nền sư phạm cận đại trong thời gian làm cố vấn giáo dục tại Hunggari đã rất coi
trọng HĐGDNGLL. Ông cho học sinh tham gia biểu diễn
sân khấu để giúp các em ghi nhớ sâu sắc những nội dung
cần thiết. Ông thấy rằng những chàng trai thường ngày so
ro, rụt rè nay ra trước công chúng với vẻ tự tin, xử sự điềm
tĩnh. Những con người mới mấy tuần lễ trước còn đọc câu
ngắc ngứ, bây giờ đã có thể nói một đoạn độc thoại dài mà

không phạm lỗi hoặc giải thích những khái nhiệm một
cách hùng hồn đầy tính thuyết phục. “Cômenxki ở thời đó
đã áp dụng phương pháp dạy học mới, đặc biệt là việc mở
rộng các hình thức học tập ngoài lớp, nhằm khơi dậy và


phát huy những khả năng tiềm ẩn, nhằm rèn luyện cá tính
cho học sinh, đã chúng minh cho quan điểm giáo dục mới
đầy tính thuyết phục” [24, tr 36].
Như vậy, các công trình nghiên cứu này đã làm nổi
bật tầm quan trọng của các HĐGDNGLL và chỉ ra một số
biện pháp cần thiết cho người cán bộ quản lý (CBQL) các
nhà trường phải làm gì để tổ chức và quản lý tốt các hoạt
động này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Các nghiên cứu của các tác giả Xô viết như Ilina,
Êxipốp, Encônhin, Lecner… vừa nhấn mạnh vai trò của
việc tổ chức dạy học trên lớp vừa đề cao các hoạt động
thực tế ngoài nhà trường.
- Ở Việt Nam
Các tác giả Hà Thế Ngữ – Đặng Vũ Hoạt trong cuốn
Giáo dục học đã nhấn mạnh vai trò và tác dụng của hình
thức HĐGDNGLL, coi đây là một trong những hình thức
dạy học có khả năng tạo hứng thú cho học sinh, giúp các
em mở rộng, nâng cao, khắc sâu kiến thức được tốt hơn
[10, tr 39-40].


Các nghiên cứu về Tâm lý học và Giáo dục học của
các tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn
Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Văn Lê, Hà Nhật Thăng, Bùi Sỹ

Tụng, Lê Văn Cầu, Nguyễn Dục Quang …đã có đề cập
đến những khía cạnh khác nhau của HĐGDNGLL và nhấn
mạnh đến vai trò, biện pháp quản lý, hình thức tổ chức
trong trường và ngoài nhà trường ở các bậc học khác nhau.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến các khía cạnh khác nhau của HĐGDNGLL như
vai trò, biện pháp quản lý, hình thức tổ chức trong và
ngoài nhà trường ở cả các cấp học khác nhau: giáo dục
Mầm non, giáo dục Tiểu học, giáo dục THCS, giáo dục
Đại học. Cụ thể:
Sách “HĐGDNGLL” của Nguyễn Dục Quang (chủ
biên), Ngô Quang Quế - Sách dành cho Cao đẳng sư phạm
đã đề cập đến những nội dung cơ bản xung quanh vấn đề
của HĐGDNGLL cung cấp cho giáo sinh làm cơ sở để
thực tập sư phạm và công tác chủ nhiệm lớp sau này.


Sách HĐGDNGLL 6, 7, 8, 9 của tác giả Hà Nhật
Thăng và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 của Hà Nhật Thăng (chủ
biên) đã nêu rõ mucc̣ tiêu giáo dục , nội dung chương trình
HĐGDNGLL, gợi ý nội dung và hình thức tổ chức hoạt
động từng chủ điểm, đánh giá kết quả hoạt động của học
sinh.
Tác giả Nguyễn Thị Tiến với công trình nghiên cứu
"Những biện pháp quản lý HĐGDNGLL của học sinh ở
trường THPT Nam Sách, Hải Dương đã đưa ra một số
biện pháp quản lý như nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán
sự lớp, tăng cường CSVC, thi đua khen thưởng kịp
thời, .... giúp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của
học sinh.

Tác giả Phạm Hoàng Gia trong công trình nghiên cứu
"Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 6”
bằng cách tác động đến cha mẹ HS, các lực lượng giáo
dục về định hướng giá trị và coi trọng hơn nữa kết quả học
tập cho thấy: Khi tổ chức HĐ học tập, nếu lồng ghép được


ý nghĩa tập thể thì nhân cách HS sẽ được phát triển tốt
hơn.
Tác giả Đỗ Nguyên Hạnh trong công trình nghiên
cứu “Một vài hình thức GD HS ngoài giờ lên lớp có hiệu
quả” đã xuất phát từ đặc điểm học sinh ham thích
HĐGDNGLL nên nhà trường cần có tổ chức các hoạt
động phù hợp với sở thích của các em, phù hợp với trình
độ, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của các em. Các hình
thức hoạt động: Bình thơ, trưng bầy tranh ảnh, đóng kịch,
tiếp xúc với người thực hiện việc thực, tham quan sẽ có
tác dụng tốt đối với việc củng cố, bổ sung kiến thức trên
lớp, giáo dục tình cảm, truyền thống và ý nghĩa tập thể,
cộng đồng của học sinh.
Tác giả Lương Bích Hằng trong công trình nghiên
cứu “Biện pháp quản lý HĐGDNGLL của Hiệu trưởng các
trường THCS Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” khẳng
định vai trò của HĐGDNGLL trong việc hỗ trợ các hoạt
động khác đạt hiệu quả và ưu thế vượt trội trong việc hình
thành những phẩm chất nhân cách, kỹ năng sống cho học


sinh đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức và xu thế hội
nhập.

Tác giả Đinh Xuân Huy với công trình nghiên cứu:
“Các biện pháp quản lý HĐGDNGLL của người hiệu
trưởng trong trường phổ thông dân tộc nội trú – tỉnh Lai
Châu đã khẳng định vai trò quan trọng của tổ chức các
HĐGDNGLL đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục
của trường phổ thông dân tộc nội trú, xây dựng các biện
pháp quản lý hoạt động này của người hiệu trưởng, trong
đó có HĐGDNGLL” [12, tr 18].
Tác giả Phạm Lăng với bài viết “Hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở trường PTTH Chu Văn An Hà Nội trên Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 12 đã xác định nhiều hình thức
HĐGDNGLL và nhấn mạnh: Nếu tổ chức hoạt động này
một cách khoa học sẽ không làm giảm đi chất lượng các
môn học” [13, tr 27].
- Nhận xét chung
Nhìn chung các tác giả trên thế giới và trong nước
đều để cao vai trò và tác dụng của HĐGDNGLL, xem


HĐGDNGLL là một trong những hình thức tổ chức dạy
học quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giáo dục.
Tuy nhiên bên cạnh việc khẳng định tính cần thiết
của việc tổ chức HĐGDNGLL, những công trình nghiên
cứu này chưa chỉ ra một cách cụ thể việc cần tổ chức và
quản lý HĐGDNGLL? Làm thế nào để lý HĐGDNGLL
trong nhà trường phổ thông thực sự là một hoạt động
thường xuyên có kết quả tốt? Quản lý HĐGDNGLL của
học sinh dân tộc có đặc thù gì và cần tiến hành như thế
nào? Các công trình nghiên cứu chưa chỉ ra cách thức cho
nhà quản lý khi tổ chức hướng dẫn thực hiện các tổ nhóm

chuyên môn HĐGDNGLL vào trong kế hoạch năm học…
Điều này khiến cho không ít trường vẫn cảm thấy
HĐGDNGLL còn là việc làm có tính hình thức, bắt
buộc…
Chính vì vậy cần có nghiên cứu cơ bản về quản lý
HĐGDNGLL của học sinh dân tộc, chỉ ra thực trạng quản
lý HĐGDNGLL của học sinh dân tộc ở tỉnh Hòa Bình. Từ


đó để xuất một số biện pháp quản lý HĐGDNGLL của học
sinh dân tộc có hiệu quả hơn.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài
- Quản lý
Trước hết khái niệm quản lý được các tác giả đưa ra
thường gắn với các loại hình quản lý cụ thể hoặc phụ
thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt động hay nghiên cứu của
mình.
Henry Fayol (1841- 1925) coi quản lý là một loại
công việc đặc thù, khác với các loại công việc khác của xí
nghiệp và trở thành một hệ thống độc lập, phát huy tác
dụng riêng của nó mà các hệ thống khác của xí nghiệp
không thể nào thay thế được. Ông nói về nội hàm của khái
niệm quản lý như sau: “quản lý tức là lập kế hoạch, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [18,tr 59]
F.W.Taylor (1856-1915), cho rằng cốt lõi trong quản
lý là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên
môn hóa và phải quản lý chặt chẽ”. “quản lý là nghệ


thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó

như thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”
[14,tr.89].
P. Drucker luôn nhấn mạnh Quản lý sinh ra từ thực
tiễn và trở về với thực tiễn. Ông quan niệm: “Quyền uy
duy nhất của quản lý chính là thành tựu mà nó có thể đạt
được” [18,tr.338]
Mary Parker Follett (1868 - 1933) đã có những đóng
góp lớn lao trong thuyết hành vi Quản lý khẳng định:
“Quản lý là một quá trình lao động, liên tục, kế tiếp nhau
chứ không tĩnh tại”
H.Koontz (Mỹ), người được coi là cha đẻ của lý luận
quản lý hiện đại, đã viết: “quản lý là một hoạt động thiết
yếu; nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt
được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [16,tr29]
Tác giả Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống
tác động khoa học nghệ thuật vào từng thành tố của hệ
thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được các


mục tiêu đề ra của hệ thống và cho từng thành tố của hệ
thống” [20, tr.98]
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là
tác động có mục đích có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
tập thể những người lao động nói chung là khách thể
quản lý, nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” [18, tr
11].
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ

chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [14, tr
9].
Nghiên cứu về khoa học quản lý, các tác giả Nguyễn
Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận động
các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra”
[10, tr.2] hay [11, tr.1]. Hoạt động quản lý là “tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người bị


quản lý)- trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức” [9, tr.2]
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ
thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng
cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn” [18, tr.16]
Như vậy, các định nghĩa đều đề cập đến bản chất
chung của khái niệm quản lý đó là:
+ Quản lý bao giờ cũng là một tác động có mục đích,
có mục tiêu xác định.
+ Quản lý là sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa
chủ thể và khách thể quản lý.
+ Quản lý xét cho đến cùng bao giờ cũng là quản lý
con người.
+ Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng
phải phù hợp với quy luật khách quan.



+ Mục tiêu quản lý là quĩ đạo đặt ra cho các đối
tượng và chủ thể, chính mục tiêu là căn cứ cho chủ thể tạo
ra các tác động quản lý.
Từ các định nghĩa trên, tác giả cho rằng: quản lý là
quá trình tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Quá trình tác động
của chủ thể gồm nhiều biện pháp khác nhau. Vì vậy, trong
quản lý không thể tuân thủ theo những quy định cứng nhắc
mà phải linh hoạt, mềm dẻo.
- Quản lý giáo dục
Khái niệm “QLGD” được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp trên cơ sở xem xét phạm vi hoạt động của từ
“giáo dục”. QLGD được hiểu theo nghĩa rộng nhất khi
“giáo dục” được coi là hoạt động diễn ra ở ngoài xã hội.
Còn khi được diễn ra trong ngành giáo dục thì “QLGD”
được hiểu theo nghĩa hẹp là quản lý một hệ thống giáo
dục, QLNT …
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang“QLGD là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy


luật của chủ thể QL (hệ GD) nhằm làm cho hệ chất của
nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trang thái mới về chất” [23, tr.35]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo
nghĩa tổng quan là điều hành phối hợp các lực lượng
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ theo yêu cầu phát
triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo
dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở

thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên quản lý giáo dục
được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân”
[1, tr.25].
Từ những khái niệm nêu trên ta thấy “QLGD” có nội
hàm rất linh hoạt. Dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp
thì mục đích cuối cùng của QLGD vẫn là nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Quản lý trường học
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường ở
Việt Nam là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong


phạm vi trách nhiệm, đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu
đào tạo với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [15, tr.561].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà
trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm
tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng
xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có.
Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường
mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện
có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà
trường tiến lên trạng thái mới” [18, tr 43].
Như vậy, quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được
thực hiện trong phạm vi xác định của một đơn vị, nhằm
thực hiện nhiệm vụ đào tạo con người theo yêu cầu của xã
hội.



- Khái niệm HĐGDNGLL
HĐGDNGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn văn hóa. Về khái niệm HĐGDNGLL, các
tác giả đưa ra một số ý kiến sau:
Theo các tác giả Bùi Sỹ Tụng, Lê Văn Cầu, Nguyễn
Dục Quang (2007), Sách HĐGDNGLL dành cho giáo viên
lớp 10, 11, 12. Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.
“HĐGDNGLL là những hoạt động giáo dục được tổ chức
ngoài giờ học các môn văn hóa ở trên lớp. HĐGDNGLL là
sự tiếp nối, bổ sung, hỗ trợ hoạt động dạy học trên lớp, là
con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống
nhất giữa nhận thức và hành động, góp phần hình thành
tình cảm, niềm tin đúng đắn ở học sinh” [13, 14, 15].
Theo tác giả Đặng Văn Hoạt: “HĐGDNGLL là việc
tổ chức giáo dục thông qua các hoạt động thực tiễn của
học sinh về khoa học kỹ thuật, lao động công ích, hoạt
động xã hội, hoạt động nhân văn, văn hóa nghệ thuật,
TDTT, vui chơi giải trí… để giúp các em hình thành và
phát triển nhân cách” [11, tr 32].


Theo Điều 24, Điều lệ trường trung học cơ sở, trung
học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học:
“HĐGDNGLL bao gồm các hoạt động ngoại khóa về văn
học, TDTT nhằm phát triển năng lực toàn diện của học
sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, các hoạt động
vui chơi, tham quan, du lịch, giáo dục văn hóa, các hoạt
động giáo dục môi trường, các hoạt động lao động công
ích, các hoạt động xã hội, các hoạt động từ thiện phù hợp
với đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh” [3, tr 18].

Từ những khái niệm cho thấy:
HĐGDNGLL là hoạt động được tổ chức ngoài thời
gian học chính khóa, được thực hiện có kế hoạch, có mục
đích theo kế hoạch giáo dục chung của nhà trường; các
hoạt động nối tiếp và thống nhất với hoạt động học tập
chính khóa góp phần củng cố kiến thức, hình thành và
phát triển toàn diện cho học sinh.
- Quản lý HĐGDNGLL
Quản lý HĐGDNGLL là quá trình tác động của
người quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh được tiến


hành NGLL theo chương trình, kế hoạch nhằm đạt mục
tiêu giáo dục học sinh một cách toàn diện. Cụ thể là quản
lý nội dung chương trình của nhiều loại hình hoạt động
khác nhau liên quan đến mặt giáo dục như giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, hoạt động lao
động công ích, hoạt động vui chơi giải trí...
- Quản lý HĐGDNGLL của học sinh dân tộc
Quản lý HĐGDNGLL đối với học sinh dân tộc là quá
trình tác động của người quản lý đến tập thể giáo viên và
học sinh dân tộc được tiến hành NGLL theo chương trình,
kế hoạch đã đề ra nhằm đạt mục tiêu giáo dục học sinh
một cách toàn diện.
Quản lý HĐGDNGLL đối với học sinh dân tộc thực
chất là quản lý về các hoạt động, văn hóa, văn nghệ, địa
lý văn hóa Mường, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
và văn hóa đặc sắc của dân tộc Mường.



- Những vấn đề lý luận về HĐGDNGLL cho học
sinh dân tộc
- Mục tiêu của HĐGDNGLL
Ở lứa tuổi học sinh phổ thông có một vị trí đặc biệt
và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của lứa tuổi có
nhiều biến động về tâm lý, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ
tuổi thiếu niên sang tuổi trưởng thành. Đây là thời kỳ các
em muốn tự khẳng định mình, bước đầu gia nhập các mối
quan hệ xã hội, hình thành phẩm chất, năng lực người
công dân trong tương lai. Do vậy, mục đích của
HĐGDNGLL giúp các em học sinh dân tộc, hiểu rõ về bản
sắc, văn hóa và các hoạt động của dân tộc Mường.
Mục tiêu về nhận thức:
HĐGDNGLL giúp học sinh là người dân tộc thiểu số
củng cố, bổ sung và nâng cao thêm hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau để hoàn thiện những tri thức. Những tri
thức tiếp thu được ở trên lớp mới chỉ là một phần kho tàng
tri thức của loài người. Đó là những tri thức phổ thông, cơ
bản nhất mà hoạt động dạy học có nhiệm vụ truyền đạt.


Muốn bổ sung thêm, muốn làm sâu sắc thêm những tri
thức ấy thì cần phải thông qua HĐGDNGLL.
HĐGDNGLL giúp học sinh là người dân tộc thiểu số
biết về văn hóa dân tộc Mường, dân tộc Mường tỉnh Hòa
Bình từ thời Tiền sử. Thời đó Hòa Bình đã là “cái nôi” của
nền văn hóa thời đại đá-nền “văn hóa Hòa Bình” nổi tiếng
trong khu vực và trên thế giới. Hòa Bình cũng là quê
hương của nền văn hóa, văn minh việt cổ (hay còn gọi là
Việt Mường chung) và kế tục đến ngày nay là văn hóa dân

tộc Mường đậm nét. Đặc biệt HĐGDNGLL giúp học sinh
dân tộc, hiểu về văn hóa dân tộc Mường, trong đó nổi bật
là sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, một bộ phận không thể thiếu
trong tang ca Mường. Trong thời kỳ hội nhập sâu rộng và
phát triển toàn diện như hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa dân tộc là việc làm rất có ý
nghĩa, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, có vai trò quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế -xã
hội.


HĐGDNGLL giúp học sinh là người dân tộc thiểu số
có những hiểu biết tối thiểu về một số vấn đề có tính thời
đại như: hoà bình và hữu nghị, đoàn kết giữa các dân tộc,
vấn đề quyền trẻ em, vấn đề ATGT, phòng chống tệ nạn
ma tuý và chất gây nghiện cũng như các tệ nạn xã hội khác
như HIV/AIDS, vi phạm pháp luật...
*Mục tiêu về rèn luyện kỹ năng
Kỹ năng được hình thành và phát triển trong các hoạt
động và bằng hoạt động. Kỹ năng bao gồm kỹ năng tham
gia hoạt động, kỹ năng tổ chức hoạt động, kỹ năng đánh
giá hoạt động. Mục tiêu quan trọng của HĐGDNGLL là
rèn luyện kỹ năng cơ bản, cần thiết cho học sinh phổ
thông. Đó là những kỹ năng lập kế hoạch hoạt động, kỹ
năng thiết kế chương trình hoạt động, kỹ năng tự kiểm tra
và đánh giá kết quả hoạt động.
HĐGDNGLL rèn cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng ứng xử có văn hoá. Giao tiếp là nhu cầu của con
người muốn tiếp xúc với con người. Vì vậy rèn kỹ năng
giao tiếp cho học sinh thông qua HĐGDNGLL là rất cần



thiết. HĐGDNGLL rèn luyện cho học sinh biết cách tự
điều chỉnh hành vi phù hợp với các yêu cầu xã hội, kỹ
năng sống hoà nhập và nhiều kỹ năng khác nữa.
Mục tiêu về giáo dục thái độ
HĐGDNGLL bồi dưỡng cho học sinh biết tôn trọng
con người dù ở bất cứ lứa tuổi nào, tôn trọng những chuẩn
mực đạo đức và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tôn trọng pháp luật. HĐGDNGLL bồi dưỡng tính năng
động, tích cực, sẵn sàng tham gia những hoạt động tập thể
vì lợi ích chung, vì sự trưởng thành và tiến bộ của bản
thân. Từ đó hình thành cho học sinh lòng tự hào dân tộc,
biết yêu quê hương, đất nước. HĐGDNGLL góp phần
giáo dục cho học sinh tình đoàn kết hữu nghị với các dân
tộc khác trên thế giới.
-Vị trí, vai trò của HĐGDNGLL
+ Vị trí : Trong quá trình giáo dục, ngoài việc hình
Quá trình sư phạm

nhà trường
thành cho học sinh có ý trong
thức,
thái độ ứng xử đúng đắn

trong các quan hệ giao tiếp hàng ngày, hoạt động còn phải
Hoạt động giáo dục
Hoạt động dạy và học
tạo điều
kiện

để học sinh bổ sung và hoàn
thiện
những
tri
ngoài
giờ lên
lớp
trên lớp

Nhân cách học sinh phát
triển toàn diện


thức đã học ở trên lớp. HĐGDNGLL như đã nêu ở trên, là
bộ phận cấu thành quan trọng của chương trình giáo dục
bậc học, nhằm mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh.

Hình 1.1. Vị trí của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp đối
với sự phát triển nhân cách toàn diện của học sinh
Như vậy, tổ chức HĐGDNGLL là rất cần thiết, là đòi
hỏi tất yếu của quá trình giáo dục và không có gì có thể


×