CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỔ
CHUYÊN MÔN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU
HỌC THEO YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG TỔNG THỂ
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
-Ở nước ngoài
Các
nhà
giáo
dục
Nga
P.V.Zimin,
M.I.Konđakôp,
N.I.Saxerđôtôp đi sâu nghiên cứu “Những vấn đề quản lý trường
học”. Các nghiên cứu QL giáo dục Xô Viết cho rằng: “Kết quả
toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ
chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ GV”.
Trong những trang viết của mình,V.A.Xukhomlinki cũng như các
tác giả V.PXtrezicodin, Gigoocscaia, Zakhonôp,... khẳng định một
chức năng của HT nhà trường là phải xây dựng, bồi dưỡng và phát
triển đội ngũ GV, phát huy tính sáng tạo, chủ động, linh hoạt trong
lao động của mỗi cá nhân và khả năng tự hoàn thiện trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của mình thông qua hoạt động trong các
TCM. Vai trò của TCM và TTCM là hướng nghiên cứu đã được
nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Hướng nghiên cứu này
được thể hiện trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học như Goodman; Catherine C. Lewis [2]; Hollingsworth;
[1]...Các nhà khoa học đều đã khẳng định: TTCM có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá.
Nguyên nhân của việc chuyển biến chậm trong đổi mới PPDH ,
kiểm tra, đánh giá là công tác QL hoạt động đổi mới PPDH và
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS ở các trường học còn
chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là công tác chỉ đạo TCM
-mắt xích vô cùng quan trọng trong việc thực hiện đổi mới PPDH
và kiểm tra, đánh giá. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn trong TCM
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động được các nhà khoa học
ngoài nước tập trung nghiên cứu.Khi nghiên cứu về thích ứng
thành công của nghiên cứu bài học ở Hoa Kỳ các nhà khoa học đã
khẳng định vai trò quan trọng trong việc đổi mới sinh hoạt chuyên
môn trong TCM ở nhà trường phổ thông, trong việc nâng cao
năng lực nghề nghiệp cho người giáo viên phổ thông[4].
Ở Việt Nam
Bác Hồ đã khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có con
người XHCN” [21,26]. Con người mà Bác Hồ mong muốn đào
tạo là con người không chỉ có lòng yêu nước, có lý tưởng cách
mạng, phẩm chất đạo đức cách mạng mà còn phải có tri thức khoa
học, kỹ năng lao động sản xuất.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
X đã thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh
vực giáo dục:“Chất lượng GD&ĐT chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn lực trình độ cao vẫn còn hạn chế;
chưa chuyển sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chương trình,
nội dung, phương pháp dạy học và học lạc hậu, chẩm đổi mới; cơ
cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào
tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [11].
Như vậy, hơn lúc nào hết, việc nâng cao chất lượng GD là
một nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD&ĐT trong công cuộc đổi
mới đất nước. QL hoạt động GD có vai trò quyết định đến chất
lượng GD của nhà trường. Để làm tốt nhiệm vụ đó thì các nhà QL
phải đầu tư nghiên cứu để tìm ra các giải pháp đổi mới công tác
QL, giải pháp nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.
Trong nhà trường phổ thông, đội ngũ GV được sắp xếp theo từng
TCM nên việc QL hoạt động của đội ngũ GV của người HT chính
là QL hoạt động của TCM trong nhà trường. Điều này đã khẳng
định trong Luật Giáo dục năm 2005 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2009): “Tuy không trực tiếp tham gia vào hoạt động dạy và
học, những CNQL giáo dục bằng những hoạt động quản lý của
mình tác động vào quá trình giáo dục nhằm hướng cho hoạt động
dạy và học đạt được những mục tiêu yêu cầu của giáo dục và đảm
bảo chất lượng giáo dục” [34].
QL hoạt động TCM là một trong những họat động trung tâm
của người HT, đồng thời cũng là hoạt động cơ bản, quan trọng
trong công tác QL trường học. Chính vì lẽ đó, vấn đề QL hoạt
động của TCM trong nhà trường đã được các nhà QLGD đề cập
trong các công trình nghiên cứu khoa học của mình. Có thể nhắc
tới các đề tài luận văn thạc sỹ nghiên cứu về biện pháp QL hoạt
động TCM của HT nhà trường như:
Doãn Thị Thanh Phương (2007): Biện pháp quản lý tổ
chuyên môn của hiệu trưởng các trường Tiểu học quận Hồng
Bàng, thành phố Hải Phòng.
Trần Thị Minh Nguyệt (2002): Một số biện pháp quản lý
chuyên môn của hiệu trưởng trường tiểu học thành phố Thái
Nguyên.
Nguyễn Thế Quang (2007): Một số biện pháp QL nâng cao
chất lượng hoạt động tổ chuyên môn ở các trường THPT thành
phố Hà Đông, Hà Tây.
Tất cả các công trình trên đều đề cập đến vai trò của Hiệu
trưởng trong việc quản lý hoạt động tổ chuyên môn ở trường Tiểu
học. Tuy nhiên, mỗi đề tài nghiên cứu về biện pháp QL hoạt động
TCM của HT trên một phạm vi, một thời gian khác nhau, đối
tượng GVvà HS các cấp khác nhau nhưng chưa có đề tài nào
nghiên cứu về vấn đề QL hoạt động TCM theo yêu cầu
CTGDPTTT. Đề tài này chúng tôi sẽ nghiên cứu và đánh giá đúng
thực trạng về các biện pháp QL hoạt động của các TCM đã áp
dụng ở trường TH Lê Hồng Phong quận Kiến An thành phố Hải
Phòng, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động TCM trong nhà trường theo yêu cầu CTGDPTTT .
- Các khái niệm cơ bản của đề tài
- Quản lý
- Khái niệm
QL là một chức năng lao động có bản chất lao động của xã
hội. Khi mỗi cá nhân con người riêng lẻ không thể thực hiện
được mục tiêu của mình thì các nhóm bắt đầu được hình thành.
Lúc đó quản lý là một nhu cầu tất yếu để phối hợp năng lực của
tập thể để đạt mục tiêu chung. Qua các phương thức sản xuất từ
cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, xã hội ngày
càng phát triển, trong đó QL là một thuộc tính tất yếu lịch sử
khách quan gắn với xã hội ở mọi giai đoạn phát triển. Thuộc
tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội - hoạt động
lao động tập thể - của con người. Trong quá trình lao động con
người bắt buộc phải liên kết, tạo nhóm lại với nhau, kết hợp
thành một tập thể. Điều này đòi hỏi sự phân công và hợp tác
trong lao động, tức là phải có sự QL. Ngày nay, trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, khi con người thực hiện các hoạt
động đều cần đến QL. QL không chỉ thu hẹp trong phạm vi cá
nhân, tổ chức mà hầu như không giới hạn phạm vi; có thể nói
rằng nơi nào có hoạt động thìnơi đó có QL. QL gắn liền với
cuộc sống, với hoạt động của con người, nó gắn liền với quá
trình kinh tế - xã hội. QL là yêu cầu tất yếu nảy sinh và nó chính
là một phạm trù tồn tại khách quan, nó ra đời từ bản thân nhu
cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia, trong mọi thời đại. Có
thể nêu ra một số cách tiếp cận sau: Theo góc độ tổ chức, QL là
cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, kiểm tra. Theo góc độ điều khiển, QL
có nghĩa là sự tác động của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm tổ
chức, phối hợp các hoạt động của con người trong quá trình lao
động sản xuất xã hội để đạt được mục đích đề ra.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin : QL xã hội một cách
khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể QL đối với toàn bộ
những hệ thống xã hội. Theo Các Mác: “Quản lý là loại lao động
sẽ điều khiển mọi quá trình lao động phát triển xã hội” [22,253].
Theo Harold Koontz người Mĩ: QL là một hoạt động thiết
yếu nhằm bảo đảm sự phối hợp giữa các cá nhân để đạt được mục
đích của nhóm (tổ chức) [17].
Tác giả Hà Sỹ Hồ cho rằng: “Quản lý là một hoạt động có
định hướng có tổ chức, lựa chọn trong các đối tượng có thể dựa
trên các thông tin về tình trạng của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [18,34].
Với tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện
được những mục tiêu dự kiến” [24].
Với cách hiểu QL là QL tổ chức của con người, hoạt động
của con người thì có thể định nghĩa: QLlà quá trình tiến hành
những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các
nguồn lực, các tác động của chủ thể QLtheo kế hoạch chủ động
và phù hợp với quy luật khách quan để gây ảnh hưởng đến đối
tượng QLnhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì
sự tồn tại (duy trì), ổn định và phát triển tổ chức trong một môi
trường biến động.
Trên đây là những quan nhiệm khác nhau về QL với những
góc độ khác nhau phụ thuộc vào cái nhìn chủ quan và mục đích
hoạt động của hệ thống. Tuy các cách tiếp cận khác nhau nhưng
đều bao hàm một số ý nghĩa chung đó là:
QL là sự tác động của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm đạt
được mục tiêu đề ra. QL là một hoạt động có tính chất phố
biến, mọi nơi, mọi lúc, trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên
quan đến mọi người. QL là các hoạt động để đảm bảo mục đích
chung là hoàn thành công việc qua nỗ lực của các cá thể trong tổ
chức. Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn
chỉnh gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ với nhau theo một quy
luật nhất định.
Tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển của mọi cá
nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu
quả. Hệ thống QL bao giờ cũng gồm hai phân hệ là: Chủ thể QL
và khách thể QL (người quản lý và người bị quản lý).
Như vậy, bản chất của QL là một lao động để điều khiển lao
động. Quá trình này có thể được mô tả bằng sơ đồ sau đây:
MÔI TRƯỜNG
Cơ chế quản lý
Xác định
Chủ thể
Quản lý
Phương pháp
quản lý
Mục tiêu
Quản lý
Công cụ
Quản lý
Đối tượng
Quản lý
Thực hiện
- Mô hình về quản lý
- Chức năng quản lý
Chức năng QL là một hoạt động QL đặc biệt thông qua đó
chủ thể QL tác động vào khách thể QL nhằm đạt được một mục
tiêu nhất định. Có bốn chức năng:
Chức năng kế hoạch hóa: Kế hoạch hoá là chức năng cơ bản
nhất trong số các chức năng QL, nhằm xây dựng quyết định về
mục tiêu, chương trình hành động và nội dung cụ thể trong một
thời gian nhất định của một hệ thống QL.
Chức năng tổ chức: Chuyển hóa kế hoạch của nhà QL thành
hiện thực, đó chính là chức năng tổ chức. Chức năng này sẽ có tác
dụng liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận, nhờ đó mà nhà QL điều
hành nguồn nhân lực của mình một cách có hiệu quả, đảm bảo
phân công , phân nhiệm hợp lý, đúng người đúng việc.
Chức năng chỉ đạo: Là quá trình tác động của chủ thể QL
đến đối tượng QL nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Nội dung của
chức năng chỉ đạo là tập hợp, động viên các thành viên, các bộ
phận nỗ lực phấn đấu để đạt mục tiêu, qua đó điều chỉnh các sai
lệch, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu có kết quả chắc
chắn nhất.
Chức năng kiểm tra, đánh giá: Đây là chức năng quan trọng,
xuyên suốt trong quá trình QL. Qua kiểm tra sẽ giúp điều chỉnh
kịp thời các hoạt động cũng như công tác chỉ đạo thực hiện. Lênin
đã khẳng định: “Quản lý mà không có kiểm tra thì không phải là
quản lý”. Kiểm tra chính là quá trình thiết lập mối quan hệ ngược
trong QL. Kiểm tra không hẳn là giai đoạn cuối cùng của chu kì
QL. Kiểm tra, đánh giá được thực hiện trong suốt quá trình thực
hiện kế hoạch.
Ngoài 4 chức năng nêu trên trong chu trình QL, chủ thể QL
phải sử dụng thông tin như là một công cụ hay chức năng đặc biệt
để thực hiện các chức năng trên.
Ta có thể biểu diễn chu trình QL theo sơ đồ sau:
Kế hoạch
Tổ chức
Thông tin
Kiểm tra,
đánh giá
Chỉ đạo
- Quan hệ giữa các chức năng quản lý
- Quản lý giáo dục
Theo chuyên gia giáo dục Liên Xô M.I.Kônđacốp: “Giáo
dục một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất cảu nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội của các thế hệ loài
người. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển tinh
hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ
sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên.”[23].
Chính vì vậy, giáo dục đã trở thành mục tiêu phát triển xã
hội - mục tiêu phát triển hàng đầu của mỗi quốc gia trên thế giới.
QLGD là một khoa học quản lý chuyên ngành, cũng giống như
khái niệm quản lý, khái niệm QLGD cũng có nhiều cách tiếp cận
khác nhau.
Chuyên gia giáo dục Liên Xô M.I.Kônđacốp cho rằng:
“QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng
đích của hệ thống (từ cơ quan quản lý cao nhất là Bộ GD&ĐT
đến Sở GD&ĐT đến nhà trường) nhằm mục đích đảm bảo việc
hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận
dụng những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thế
hệ và tâm lý trẻ em” [23,66].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội thúc
đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo nhu cầu của xã hội”
[15,28].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng thì: “ Mục đích cuối cùng
của QLGD là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo
lớp tài năng thông minh sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và
phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và của xã hội” [28].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống
những tác động có mục tiêu, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể
quản lý nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của
nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học, giáo dục thế hệ trẻ. Đưa giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới nhất về chất” [24,39].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “QLGDlà hệ thống tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ
thống giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và
nguyên tắc giáo dục của Đảng thực hiện được những tính chất
của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến tiến lên trạng thái mới về chất”. [27,89].
Trong QLGD, chủ thể QL ở các cấp chính là bộ máy QLGD
từ Trung ương đến địa phương, còn đối tượng QL chính là nguồn
nhân lực, CSVC kỹ thuật và các hoạt động thực hiện chức năng
của giáo dục đào tạo.
Hiểu một cách cụ thể là:
QLGD là hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có mục
đích của chủ thể QL đến đối tượng bị QL.
QLGD là sự tác động lên tập thể GV, HS và các lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng phối
hợp, tác động tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường để
đạt mục đích đã định.
Tóm lại, theo chúng tôi, QLGD là quá trình định hướng của
người QLGD trong việc vận dụng những nguyên lý, phương pháp
chung nhất của khoa học QL và lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được
mục tiêu mà giáo dục đề ra. Sản phẩm đặc thù của giáo dục là
nhân cách con người, vì vậy chủ thể QLGD tác động đến tình
cảm, tâm lý GV, HS của nhà trường và các lực lượng khác trong
xã hội có tham gia làm công tác giáo dục.
- Quản lý nhà trường tiểu học
- Quản lý nhà trường
Trường học nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà
trường được thành lập theo quy định, kế hoạch của nhà nước để
phát triển sự nghiệp giáo dục của mỗi quốc gia. Cũng như khái niệm
QLGD, có nhiều định nghĩa khác nhau về QLNT. QLNT được thực
hiện dựa trên những nguyên tắc chung của quản lý, đồng thời mang
những nét đặc thù của giáo dục. Có thể nói QLNT thực chất là QL
con người và các hoạt động mà họ thực hiện nhằm đạt được mục
tiêu giáo dục của nhà trường: bao gồm hoạt động dạy của GV, hoạt
động học của HS và các hoạt động khác phục vụ cho việc dạy và
học trong nhà trường.
QLNT là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của
QLGD. Theo điều 48 của Luật giáo dục năm 2005: “Nhà trường
trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình được thành
lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục [34,18].
Theo tác giả Trần Kiểm thì: “QLTH là thực hiện đường lối
GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý GD, để tiến tới mục tiêu GD,
mục tiêu đào tạo đối với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh”. [30,44]
Theo tác giả Hoàng Minh Thao và Hà Thế Truyền: “QLNT
trường bao gồm 2 loại: Tác động của những chủ thể quản lí bên
trên và bên ngoài nhà trường; tác động của những chủ thể quản lí
bên trong nhà trường” [20,9].
QLNT do các chủ thể trong nhà trường thực hiện, bao gồm:
HT, các PHT, các TTCM, GV chủ nhiệm các lớp. Trong đó vai trò
của HT rất quan trọng, bởi vì HT chịu trách nhiệm QL mọi mặt
hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, QLNT cũng gồm những
công văn hướng dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà
trường có mối liên hệ trực tiếp với nhà trường nhằm định hướng,
đồng hành cùng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển đó.
Như vậy, QLNT chính là QLGD trong một phạm vi xác định
của một đơn vị giáo dục, nền tảng đó là nhà trường. Công tác
QLGD nói chung và QLNT nói riêng là yếu tố then chốt trong
thúc đẩy sự phát triển của giáo dục. QLNT được thực hiện trên cơ
sở những quy luật chung của QL, nhưng đồng thời lại có những
nét đặc thù riêng của QLNT, được quy định bởi bản chất lao động
sư phạm của người GV, bản chất của quá trình dạy học và giáo
dục.
Theo chúng tôi, QL nhà trường là những tác động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, định hướng và hợp quy
luật của chủ thể QL nhà trường (đứng đầu là HT) lên tất cả các
nguồn lực nhằm đưa các hoạt động dạy và học đạt được mục tiêu
giáo dục cao nhất.
Chủ thể quản lý
Các lực lượng xã hội trong
và ngoài nhà trường
Tập thể sư phạm
Học sinh
(Mục tiêu giáo dục)
- Sơ đồ quản lý nhà trường
- Quản lý nhà trường tiểu học
Hệ thống GD quốc dân của các nước trên thế giới đều có
phân chia thành các bậc học. Mỗi bậc học có đặc điểm riêng, một
phương thức riêng; mỗi bậc học có mục tiêu GD, có nội dung và
phương pháp tổ chức GD đặc thù phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý HS và yêu cầu của xã hội với bậc học đó. Trong đó GDTH
được mọi quốc gia quan tâm. Ở nước ta bậc TH là bậc học phổ
thông đầu tiên và được xác định là: bậc học nền tảng của hệ thống
GD quốc dân. Đối tượng của cấp TH là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi.
Theo TS. Nguyễn Kế Hào thì các em HS ở lứa tuổi này có những
đặc điểm sau: Mỗi HS TH là một chỉnh thể, một thực thể hồn
nhiên; tiềm tàng một khả năng phát triển; một nhân cách đang
hình thành. Ba đặc điểm cơ bản trên tạo cho HS TH có tính chất
dễ tiếp thu sự nuôi dưỡng, sự GD, dễ thích nghi với điều kiện
sống và học tập. Do đó, HS TH chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm
chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn
cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và
xã hội. Bậc TH có bản sắc riêng và tính độc lập tương đối của nó.
Điều 27 của Luật GD đã chỉ rõ mục tiêu của GD TH là: “GD TH
nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các
kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở” [34].
Như vậy có thể thấy: “Bậc TH tạo những cơ sở ban đầu rất
cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học trên, hình
thành những cơ sở ban đầu, đường nét ban đầu của nhân cách.
Những gì thuộc về tri thức và kỹ năng, về hành vi và tính người
được hình thành và định hình ở HS TH sẽ theo suốt cuộc đời mỗi
người,.... Những gì đã được hình thành và định hình ở trẻ em rất
khó thay đổi, khó cải tạo lại. ” [34].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục TH có một vị trí
đặc biệt quan trọng, bởi đây là bậc học “nền móng” để xây dựng
một “ngôi nhà mới - con người mới”. Trường TH lần đầu tiên tác
động đến trẻ em bằng hình thức nhà trường (bao gồm cả nội dung,
phương pháp và tổ chức GD). Trường TH là nơi đầu tiên tổ chức
một cách tự giác HĐ học với tư cách là HĐ chủ đạo cho trẻ em
cũng như tổ chức một cách tự giác các HĐ khác cho học sinh.
Điều 3 trong Điều lệ trường TH đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của
trường TH là: Tổ chức giảng dạy, học tập và các HĐGD khác theo
chương trình GD TH do Bộ trưởng Bộ GD &ĐT quyết định ban
hành [3].
Do các đặc thù riêng của nhà trường Tiểu học nên ngoài
những tri thức về kinh tế học, xã hội học, GD học, QL hành chính
một cơ sở v.v..thì người QL trường TH đòi hỏi phải có những tri
thức về: đặc điểm của nhà trường TH, tâm lý học bậc TH, đặc
điểm lao động của người GV tiểu học..., đồng thời phải có kỹ
năng giao tiếp và ứng xử với đa dạng các các thành phần như: GV,
học sinh, phụ huynh, các nhân vật trong cộng đồng có quan hệ
trực tiếp hoặc gián tiếp với nhà trường.
QL trường TH là quá trình sư phạm diễn ra trong nhà trường
TH bằng cách sử dụng có hiệu quả nhất các đầu vào (CSVC, tài
chính, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ) để đạt kết quả GD có
chất lượng cao nhất khi sử dụng các phương pháp, phương tiện
hiện đại hợp lý và phù hợp với các quy luật tâm lý, quy luật giáo
dục học để tiến hành việc biến đổi đối tượng giáo dục từ chưa biết
đến biết.
Như vậy, việc QL nhà trường nói chung, QL trường TH nói
riêng phải được giao vào tay các nhà QL có tầm nhìn xa và đặc biệt
có khả năng tạo giá trị. Họ là những người có tư duy sư phạm sâu
sắc, biết khuyến khích các GV trong trường phát huy tiềm năng
sáng tạo trong hoạt động sư phạm của mỗi người; biết tạo lập và
nuôi dưỡng, duy trì, phát triển hệ thống các giá trị giáo dục, tương
hợp với các giá trị xã hội và ở một nào đó chuẩn bị cho những giá
trị xã hội mới. Điều kiện cần và đủ là có tâm, có tầm, có tài và có
đạo đức là những tiêu chí quan trọng nhất để hình thành nên một
người HT ở mọi thời đại.
- Tổ chuyên môn và hoạt động tổ chuyên môn
- Tổ chuyên môn
Điều 18, Điều lệ Trường tiểu học(Ban hành kèm theo Thông
tư số 41/2010/TT-BGD&ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) nêu rõ: "TCM bao gồm GV, viên
chức làm công tác thư viện, thiết bị giáo dục. Mỗi tổ có ít nhất 3
thành viên. TCM có tổ trưởng, nếu có từ 7 thành viên trở lên thì
có một tổ phó" [3].
Điều này quy định về nhiệm vụ TCM như sau: “Xây dựng kế
hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm học nhằm
thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và hoạt động giáo dục;
Thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá
chất lượng, hiệu quả giảng dạy, giáo dục và quản lý sử dụng sách,
thiết bị của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường;
Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo quy định Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học và giới thiệu tổ trưởng, tổ phó [3].
TCM là nơi trực tiếp triển khai toàn bộ các hoạt động giáo
dục của nhà trường tới các GV và HS các lớp. TCM có quan hệ
cộng đồng, hợp tác với các tổ nghiệp vụ trong trường dưới sự QL,
chỉ đạo của HT. TCM sẽ giúp HT điều hành và tổ chức thực hiện
các hoạt động sư phạm và nghiệp vụ, trong đó TTCM cùng với tổ
phó chuyên môn giúp HT quản lí GV, thực hiện các hoạt động
giáo dục theo kế hoạch chung của nhà trường. TCM là nơi chịu
trách nhiệm trực tiếp về chất lượng giảng dạy của GV và chất
lượng học tập của HS trong khối lớp phụ trách. Ngoài ra TCM
còn là đơn vị cơ sở cần xây dựng kế hoạch chung giúp các tổ viên
xây dựng kế hoạch trong công tác CM của mình, là nơi đôn đốc,
kiểm tra, theo dõi các hoạt động CM của từng giáo viên. TCM là
nơi tổ chức, tiến hành và trao đổi nghề nghiệp tự học, tự nâng cao
trình độ nghiệp vụ CM, tổ chức các giờ rút kinh nghiệm và tham
gia tốt các phong trào trong tổ.
Hoạt động của TCM có vai trò quyết định đến chất lượng
giáo dục của nhà trường. Chính vì vậy, nếu HT quản lý tốt hoạt
động của TCM thì sẽ nâng cao chất lượng GD của trường. Đặc
điểm TCM ở trường TH khác với đặc điểm TCM ở các bậc học
trên ở chỗ: GV TH là người dạy nhiều môn học trong một lớp
chính vì vậy việc QL hoạt động TCM ở trường TH gặp nhiều
khó khăn hơn so với việc QL chuyên môn ở các bậc học trên.
Bởi vì mỗi GV không thể dạy tốt được tất cả các môn như Toán,
Tiếng Việt, TNXH, Âm nhạc, Mĩ thuật…chính vì vậy HT cũng
cần phải có những biện pháp QL các TCM cho thật linh hoạt sao
cho phát huy tốt sở trường của mỗi GV.
- Tổ trưởng chuyên môn
TTCM là những GV có chuyên môn vững, có phẩm chất chính
trị, đạo đức tốt, biết tập hợp các thành viên trong tổ, biết giúp HT
triển khai kế hoạch hoạt động của nhà trường. TTCM là người chỉ
đạo trực tiếp các thành viên trong tổ thực hiện kế hoạch của tổ và
của cá nhân, biết điều hành hoạt động của tổ một cách hợp lý, đề
xuất, tham mưu với HT trong phân công CM, phân công giảng dạy
phù hợp với năng lực CM của GV bộ môn trong tổ.
TTCM phải là người tiên phong trong các công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và tự học, tự bồi dưỡng; biết đem lại bầu không
khí tâm lý lành mạnh trong tổ; hiểu được tâm tư nguyện vọng, nhu
cầu của các thành viên; sống trung thực, mẫu mực, công bằng; là
trung tâm đoàn kết của tổ, tạo nên động lực tích cực để các thành
viên trong tổ nỗ lực, phấn đấu hoàn thành mục tiêu chung. TTCM có
trách nhiệm QL đội ngũ GV trong tổ thực hiện kế hoạch năm học
theo các quy định của quy chế CM; QL kế hoạch hoạt động chung
của tổ; tổ chức kiểm tra, đánh giá công tác giảng dạy của GV; QL
việc thực hiện nội dung, chương trình giảng dạy; tổ chức thực hiện
việc đổi mới PPDH; tổ chức thực hiện công tác tự học, tự bồi dưỡng
và nghiên cứu khoa học.
Nhiệm vụ- chức năng của TTCM
a/ Nhiệm vụ của tổ trưởng chuyên môn:
Chịu trách nhiệm tổ chức về quá trình giảng dạy, hoàn thành
chương trình dạy học, chất lượng giảng dạy và lượng kiến thức
của trong khối lớp. Thực hiện việc kiểm tra công tác giảng dạy,
giáo dục của tổ khối, kiểm tra sự tiến bộ và hạnh kiểm của học
sinh. Kết hợp với PHT tiến hành việc bồi dưỡng CM nghiệp vụ
cho GV trong tổ. “Điều chỉnh chế độ học tập của HS từng khối
trong tổ mình cho phù hợp với thực tế địa phương. Tổ chức đề ra
phương pháp, nắm tình hình giảng dạy, giáo dục trong tổ”[3].
b/ Chức năng của tổ trưởng chuyên môn:
Lập kế hoạch giảng dạy linh hoạt để giáo dục HS và cùng GV
chủ nhiệm tổ chức kiểm tra công tác học tập của HS. Tổ chức việc sử
dụng và bảo quản trang thiết bị dạy học; Tổ chức, chỉ đạo việc bồi
dưỡng và tự bồi dưỡng của GV trong tổ; Tổ chức nghiên cứu và áp
dụng PPDH theo hướng đổi mới; Hướng dẫn GV về thực hiện các
hướng dẫn của chuyên môn; Tập huấn công tác giảng dạy, giáo dục
như: “Sử dụng đồ dùng - TBDH, chế độ chấm và cho điểm, đánh
giá, xếp loại HS....; Kiểm tra nội bộ tổ về chất lượng giảng dạy, giáo
dục”[3].
Quan hệ với HĐSP
Quan hệ với HT và
PHT
GVCN
hệ với đoàn thể trong trường
Quan
hệ với các TTCM Quan
khác hệ vớiQuan
Chấp hành, tham mưu,
tham
giatham mưu, cầuPhối
Chấp
hành,
nối hợp, thi đuaChỉ đạo, phối kết hợp
Phối hợp
- Quan hệ của TTCM trong hoạt động quản lý
- Hoạt động của tổ chuyên môn
Hoạt động của TCM hàng năm phải bám sát nội dung,
chương trình dạy học theo quy định của Bộ, Sở GD&ĐT và của
nhà trường. Hoạt động của TCM trong nhà trường bao gồm:
Hoạt động dạy học của GV; tổ chức bồi dưỡng học sinh; tổ chức
các hoạt động đổi mới PPDH; hoạt động tự học, tự bồi dưỡng,
viết SKKN, hoạt động ngoại khoá…; hoạt động kiểm tra, đánh
giá GV về CM nghiệp vụ, năng lực sư phạm; công tác thi đua;
các hoạt động khác trong nhà trường theo sự phân công của lãnh
đạo.
Đặc điểm hoạt động của TCM: Hoạt động chính của TCM
là hoạt động giảng dạy theo môn học và nhóm môn học. Thông
qua hoạt động của TCM, GV thực hiện tốt quá trình dạy học theo
yêu cầu đổi mới PPDH, đổi mới giáo dục (từ việc thực hiện
chương trình dạy học, soạn bài chuẩn bị lên lớp, kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS đến các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ của GV, quản lý hoạt động học của HS...).
- Hiệu trưởng trường tiểu học
Điều 20, Điều lệ trường TH 2010 của Bộ GD&ĐT quy định:
“HT trường TH là người chịu trách nhiệm tổ chức, QL các hoạt
động và chất lượng giáo dục của nhà trường. HT do Trưởng phòng
giáo dục và đào tạo bổ nhiệm đối với trường TH công lập, công
nhận đối với trường TH tư thục theo quy trình bổ nhiệm hoặc
công nhận HT của cấp có thẩm quyền.Người được bổ nhiệm hoặc
công nhận làm HT trường TH phải đạt chuẩn HT trường tiểu
học.Sau mỗi năm học, mỗi nhiệm kì công tác, HT trường TH
được cán bộ, GV trong trường và cấp có thẩm quyền đánh giá về
công tác QL các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường
theo quy định” [3].