CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỔ
CHUYÊN MƠNỞ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG MỚI
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới
C. Mác đã chỉ rõ: “Tất cả mọi lao động trực tiếp và tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một
sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ
chế sản xuất khác với sự vận động của những cơ quan độc lập với
nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy
mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Cùng sự
phát triển xã hội loài người, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển. Sự phân công lao động xã hội địi hỏi phải có trình độ để phù
hợp với lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội. Trong giai đoạn hình
thành và phát triển, chủ nghĩa tư bản yêu cầu về trình độ quản lý,
trình độ phân cơng lao động ngày càng cao. Lúc này địi hỏi môn
khoa học quản lý ra đời với tư cách là môn khoa học độc lập quan
tâm đến mọi nghiên cứu sản xuất kinh doanh. Theo thời gian, khoa
học quản lý đã đi vào tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người
và trở thành một hoạt động mang tính phổ biến trong xã hội lồi
người. Bản chất đầy đủ của quản lý là lao động để điều khiển lao
động. Trong hoạt động xã hội loài người, những hoạt động nào
được thực hiện từ hai cá thể trở lên đều phải có hoạt động quản lý.
Theo các chuyên gia của UNESCO: "GD là công cụ mạnh
nhất để sáng tạo tương lai, GD đóng vai trị hết sức quan trọng,
đầu tư cho GD sẽ tích luỹ vốn con người là chìa khóa để tăng thu
nhập và tăng trưởng kinh tế. GD góp phần làm giảm đói nghèo,
sinh đẻ và tăng cường sức khỏe, giúp con người có cơ hội tham
gia vào hoạt động xã hội, phát triển kinh tế" (Ngân hàng thế giới 1997). GD là một hiện tượng xã hội, sinh ra, tồn tại cùng với sự
phát triển loài người. Hoạt động GD là hoạt động cực kỳ quan
trọng đã góp phần thúc đẩy xã hội lồi người phát triển vì nó có
tác động đến mọi hoạt động khác trong xã hội như hoạt động kinh
tế, chính trị,… Đặc biệt thế kỷ 21 là thế kỷ kinh tế tri thức, dựa
vào tư duy sáng tạo, tài năng sáng chế của con người. Sự thịnh
vượng về kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia ở thế kỷ 21 là phải
dựa trên sức mạnh về chất xám, đội ngũ những người nghiên cứu
khoa học kỹ thuật và đội ngũ lao động lành nghề, sáng tạo và tự
chủ trong cơng việc. Lúc này GD có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với mọi quốc gia và trở thành một trong những vấn đề quốc sách
hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước của tất cả các quốc
gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong nhà trường, hoạt động đặc thù, then chốt là hoạt động
GD và dạy học - các hoạt động chuyên môn. Quản lý hoạt động
chuyên môn là mục tiêu trung tâm của quản lý nhà trường, được
nhiều nhà khoa học, nhà GD trên thế giới quan tâm, chú ý vì đây
là hoạt động mang tính đặc trưng và then chốt nhằm nâng cao chất
lượng GD và dạy học. Nâng cao chất lượng hoạt động chuyên
môn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình dạy học của các nhà
trường. Đến nay đã có nhiều luận văn, luận án, nhiều cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này và đã mang lại những thành tựu nhất
định trong GD.
Các nhà nghiên cứu quản lý Xô - viết đã khẳng định: " Kết
quả toàn bộhoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc
tổ chức đúng đắn và hợp lý các hoạt động của đội ngũ giáo viên".
Theo V. A. Xukhomlinxki và nhiều tác giả khác cho rằng: Phân
công công việc hợp lý giữa các thành viên trong nhà trường, sự
phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng sẽ giúp nhà trường đạt được
mục tiêu đề ra và để đạt mục tiêu đó thì vai trị của người lãnh đạo
là rất quan trọng. VA.Xukhomlinxki và các tác giả V.PXtrezicodin,
Gigoocscaia, Zakho nôp… cho rằng với chức năng quản lý, người
quản lý nhà trường phải bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ, phát huy
chủ động, sáng tạo, ngày càng hoàn thiện tay nghề sư phạm của
mình tức là quản lý hoạt động TCM theo hướng phát triển nghề
nghiệp cho GV.
Một trong những BPQL hữu hiệu trong việc nâng cao chất
lượng giảng dạy, phát triển nghề nghiệp cho GV là tổ chức hội
thảo khoa học. Đây là một trong những biện pháp tốt nhất vì “ GV
càng hiểu biết nhiều thì anh ta vạch ra trước HS những triển vọng
của khoa học thường xuyên hơn, càng làm cho HS hiểu kỹ, tính
ham hiểu biết của HS bộc lộ ra nhiều hơn, ở các em sẽ nảy sinh
ra nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc hơn, những câu hỏi các em đặt
ra sẽ thơng minh hơn, thú vị hơn và khó khăn hơn”. Tuy nhiên, để
đạt hiệu quả cao, cần phải chuẩn bị một cách kỹ lưỡng về nội
dung, hình thức tổ chức, huy động được đông đảo đội ngũ GV
tham gia. Muốn vậy, về nội dung hội thảo khoa học phải có tính
thực tiễn, thực tế, là vấn đề GV quan tâm có tác dụng thiết thực
trong giảng dạy.Thơng qua đó, TTCM hiểu thêm về quan điểm
dạy học của GV trong tổ và bản thân GV cũng nắm vững hơn, sâu
hơn về khoa học, giải quyết được những khó khăn, mở rộng tầm
nhìn, áp dụng vào giảng dạy cơng tác nâng cao chất lượng dạy
học.
V.A. Xukhomlinxki, Xvecxlenrơ nhấn mạnh tầm quan trọng
của biện pháp dự giờ, phân tích bài học. Biện pháp dự giờ, phân tích
bài học là địn bẩy quan trọng trong cơng tác quản lý. Phân tích bài
học trước hết là chỉ ra cho GV biết cách khắc phục thiếu sót, phát
huy mặt mạnh, nâng cao chất lượng bài giảng. Các tác giả đề ra các
yêu cầu, cách tiến hành giờ dự, quy trình phân tích giờ dạy, phân tích
tính sư phạm của sách giáo khoa, nội dung dạy trong chương trình.
Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, với một bề dày hàng ngàn năm lịch sử gắn liền
với quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhiều quan
điểm, triết lý GD đã được nêu lên, đúc kết từ kinh nghiệm thực
tiễn.…
Bác Hồ được UNESCO tơn vinh là Anh hùng giải phóng dân
tộc - Danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng GD của Người định
hình cho triết lý phát triển GD hiện nay. Người không chỉ là một
nhà tư tưởng GD mà còn là một nhà quản lý GD thực tiễn, nhà sư
phạm tài năng, mẫu mực, trong sáng.
Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng, nhà nước ta đã bắt
tay vào "diệt" ba thứ giặc, trong đó có "giặc dốt". Trong thời kỳ
"cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước hiện nay, nghị quyết của
Đảng cũng khẳng định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Ban
Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW với nội
dung “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” với quan điểm
"đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách,
điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục
và đào tạo, việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học" [10].
Chiến lược phát triển GD giai đoạn 2011-2020 xác định mục
tiêu "Đến năm 2020, nền GD nước ta được đổi mới căn bản và
toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng GD được nâng cao một
cách toàn diện, gồm: GD đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng
tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng
nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền
kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong GD và cơ hội
học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội
học tập".
Trong đổi mới chương trình GD phổ thơng đến năm 2020
xác định các giải pháp: “Đổi mới quản lý GD; phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý GD; đổi mới nội dung, phương pháp
dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng GD; tăng nguồn lực
đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính GD; tăng cường gắn đào tạo
với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp
ứng nhu cầu xã hội; tăng cường hỗ trợ phát triển GD đối với các
vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội;
phát triển khoa học GD; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế về GD”. Trong đó giải pháp"Đổi mới quản lý GD" là giải
pháp đột phá và giải pháp "Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý GD"là giải pháp then chốt [3].
Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đến
năm 2020 “100% GV phổ thơng đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong
đó 16,6% GV trung học phổ thơng đạt trình độ đào tạo trên
chuẩn. Thực hiện các chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần
tạo động lực cho các nhà giáo và CBQL GD; có chính sách đặc
biệt nhằm thu hút các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia có kinh
nghiệm và uy tín trong và ngồi nước tham gia phát triển GD”
[3].
Chương trình GD phổ thơng mới trong giai đoạn hướng
nghiệp (lớp 10,11,12), “HS học các môn học và hoạt động GD bắt
buộc: Ngữ văn; Toán, Ngoại ngữ 1; Giáo dục thể chất; Giáo dục
quốc phòng và an ninh; hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp và
nội dung GD của địa phương. Môn Giáo dục thể chất được thiết kế
thành các học phần; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được
thiết kế thành các chủ đề, HS được lựa chọn học phần, chủ đề phù
hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà
trường” [3].
Các môn học được lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp
gồm 3 nhóm mơn: (1)- Nhóm môn Khoa học xã hội: Lịch sử, Địa
lý, GD kinh tế và pháp luật. (2)- Nhóm mơn Khoa học tự nhiên:
Vật lý, Hóa học, Sinh học. (3)- Nhóm mơn Cơng nghệ và Nghệ
thuật: Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật. Nội dung mỗi mơn học
thuộc nhóm này được thiết kế thành các học phần, HS được lựa
chọn năm môn học từ ba nhóm mơn học trên phần phù hợp với
nguyện vọng bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường
Các chun đề học tập: Mỗi mơn học (Ngữ văn, Tốn, Lịch
sử, Địa lí…) có một số chun đề học tập thành cụm các chuyên
đề học tập nhằm thực hiện yêu cầu phân hóa sâu, tăng cường kiến
thức và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết những
vấn đề thực tiễn, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp. HS
chọn ba cụm chuyên đề học tập theo nguyện vọng bản thân và phù
hợp với điều kiện tổ chức của nhà trường. Tổng thời lượng cho
mỗi cụm chuyên đề của một môn là 35 tiết.
Các nhà trường tùy thuộc điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết
bị, thực tế đội ngũ GV để xây dựng tổ hợp các môn học từ ba
nhóm mơn học và chun đề học tập nói trên, nếu nhà trường
không đủ điều kiện tổ chức môn học và chuyên đề học tập, HS có
thể đăng ký học ở một cơ sở GD khác.
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc, Ngoại ngữ 2 [3].
Lớp 10 là lớp dự hướng nghề nghiệp của giai đoạn GD định
hướng nghề nghiệp trong chương trình GD phổ thơng. Nội dung
các mơn học ở lớp 10 giúp học sinh có cách nhìn tổng qt về lĩnh
vực khoa học tương ứng với mỗi môn học và có những hoạt động
trải nghiệm nghệ thuật, hiểu vai trò và ứng dụng của mỗi ngành
khoa học, nghệ thuật trong đời sống thực tế, những ngành nghề có
liên quan, nhằm củng cố vững chắc học vấn phổ thông cốt lõi,
hoàn thiện thêm một bước các phẩm chất, năng lực đã được định
hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh
nhận thức rõ hơn năng lực, sở trường của bản thân, từ đó có hứng
thú đối với môn học và định hướng lựa chọn các môn học ở lớp 11
và lớp 12 một cách phù hợp.
Các mơn học bắt buộc: Ngữ văn, Tốn, Giáo dục kinh tế và
pháp luật, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Thiết kế và
Cơng nghệ, Ngoại ngữ 1, Giáo dục quốc phịng và an ninh.
Các mơn học bắt buộc có phân hóa: Tin học, Giáo dục thể
chất, Hoạt động Nghệ thuật, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Lớp 11 và lớp 12 là các lớp phân hoá sâu của giai đoạn giáo
dục định hướng nghề nghiệp. Chương trình các mơn học ở lớp 11
và lớp 12 được phát triển trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị
cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 10, lựa chọn những vấn đề mang
tính ứng dụng cao, thiết thực đối với định hướng nghề nghiệp sau
trung học phổ thông của học sinh.
Các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Tốn, Ngoại ngữ 1, Giáo
dục quốc phịng và an ninh.
Các mơn học bắt buộc có phân hố: Giáo dục thể chất, Hoạt
động trải nghiệm sáng tạo.
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Các môn học tự chọn bắt buộc: Giáo dục kinh tế và pháp
luật, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Khoa học máy
tính, Tin học ứng dụng, Thiết kế và Công nghệ, Mỹ thuật, Âm
nhạc, Chuyên đề học tập.
Học sinh tự chọn tối thiểu 3 môn học và 1 chuyên đề học tập
trong các môn học tự chọn bắt buộc phù hợp với nguyện vọng của
bản thân và điều kiện tổ chức của nhà trường. Các trường có
phương án xây dựng các tổ hợp môn học để vừa đáp ứng nhu cầu
của người học vừa bảo đảm phù hợp với điều kiện về đội ngũ giáo
viên, cơ sở vật chất của nhà trường.[3]
Một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý GD bước đầu
đã tổ chức nghiên cứu thực trạng, hệ thống được một số vấn đề về
quản lý và đề xuất BPQL như:
Đề tài "Quản lý hoạt động tổ chuyên môn của tổ trưởng
chuyên môn ở quận Lê Chân thành phố Hải Phòng" của Trương
Thị Thanh Vân (2017). Tác giả đã nghiên cứu thực trạng, xác định
các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động TCM và đề xuất 04
BPQL: (1)- Tổ chức nâng cao nhận thức CBQL, GV về tầm quan
trọng của quản lý trong việc nâng cao chất lượng hoạt động TCM;
(2)- Nâng cao năng lực kế hoạch hóa cho TTCM; (3)- Bồi dưỡng
năng lực quản lý cho tổ trưởng, tổ phó chun mơn; (4)- Tăng
cường năng lực cho tổ chức thực hiện cho đội ngũ TTCM.
Đề tài "Quản lý hoạt động tổ chuyên môn đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay ở các trường THPT huyện Nậm Pồ tỉnh
Điện Biên" của Lương Đình Tuấn (2017). Tác giả đã nghiên cứu
thực trạng và đã đưa ra 05 BPQL: (1)- Quản lý xây dựng và thực
hiện kế hoạch TCM; (2)- Quản lý việc đổi mới nội dung sinh hoạt
TCM theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông; (3)- Quản lý việc
đổi mới phương pháp ở các TCM theo hướng phát triển phẩm
chất, năng lực học sinh; (4)- Quản lý đổi mới kiểm tra đánh giá
GV, HS theo hướng phát triển năng lực; (5)- Quản lý việc bồi
dưỡng GV, việc sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, thiết bị.
Đề tài "Quản lý hoạt động tổ chuyên môn ở trường trung
học phổ thơng Trung Giã - Sóc Sơn- Hà Nội theo hướng nghiên
cứu bài học" của Lưu Thị Thanh Hảo (2016). Tác giả đã đề cập
đến BPQL Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho
GV về cơ hội phát triển nghề nghiệp; Đổi mới công tác lập kế
hoạch theo hướng nghiên cứu bài học; Chỉ đạo sinh hoạt chuyên
môn theo hướng nghiên cứu bài học; Xây dựng nhà trường, TCM
thành tổ chức biết học hỏi; Xây dựng chính sách động viên hỗ trợ
TCM, GV tích cực triển khai nghiên cứu bài học.
Một số bài báo cũng đề cập đến phương pháp dạy học, hoạt
động sư phạm của GV như: “Đổi mới phương pháp dạy học ở
trường trung học phổ thơng” của Nguyễn Văn Cường (2007), Tạp
chí Giáo dục, (số 159), tr.1.[15]. “Đổi mới đánh giá hoạt động sư
phạm của GV trong trường THPT” của tác giả Trần Thị Tuyết Mai
(2007), Tạp chí Giáo dục, (số 168), tr.10.[25].
Một số văn bản của Đảng và Nhà nước đề cập đến việc đổi
mới chương trình GD phổ thơng, phát triển nghề nghiệp GV; Mục
tiêu đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục Việt Nam giai đoạn
2006 – 2020 [1]; Các định hướng chiến lược phát triển GD và đào
tạo từ nay đến năm 2020. [2]
Tổng quan nghiên cứu các vấn đề về TCM, quản lý hoạt
động TCM theo hướng phát triển nghề nghiệp cho GV đáp ứng
chương trình GD phổ thơng mới có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là: Nghiên cứu về hoạt động chuyên môn, TCM được
các nhà GD trong và ngồi nước quan tâm, triển khai ở nhiều bình
diện khác nhau, trong đó tập trung chủ yếu vào hoạt động TCM.
Các cơng trình nghiên cứu về quản lý hoạt động TCM còn chưa
nhiều.
Hai là: Quản lý hoạt động TCM đã được nghiên cứu nhiều ở
trong nước và nước ngoài nhưng với chủ thể là hiệu trưởng còn
chủ thể là tổ trưởng TCM hầu như chưa có.
Ba là: Quản lý hoạt động TCM của TTCM theo hướng phát
triển nghề nghiệp cho GV phổ thơng đáp ứng chương trình GD
phổ thơng mới còn chưa được đề cập nghiên cứu.
Bốn là: Quản lý hoạt động TCM theo hướng phát triển nghề
nghiệp cho GV ở các trường THPT huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình
đáp ứng chương trình GD phổ thơng mới chưa có cơng trình nào
nghiên cứu.
Vì vậy, đề tài sẽ nghiên cứu: (1)- Xây dựng cơ sở lý luận về
quản lý hoạt động TCM ở trường THPT; (2)- Đánh giá thực trạng
hoạt động TCM và quản lý của tổ trưởng đối với hoạt động TCM
ở các trường THPT huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình; (3)- Đề xuất
BPQL của TTCM đối với hoạt động TCM đáp ứng chương trình
GD phổ thơng mới.
Một số khái niệm
Quản lý
Khái niệm về quản lý có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo Đại bách khoa tồn thư Liên Xơ (1977): Quản lý là
những chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất
khác nhau, nó bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế
độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động.
Quản lý là một tác động hợp quy luật khách quan, làm cho hệ vận
động, vận hành và phát triển..
Theo Trần Kiểm “Quản lý là các hoạt động được thực hiện
nhằm đảm bảo sự hình thành cơng việc qua nỗ lực của người
khác. Hoặc Quản lý là cơng tác phối hợp có hiệu quả các hoạt
động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức”
[21].
Theo Vũ Văn Dân và Võ Nguyên Du “Quản lý là sự tác động
của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý trong một tổ chức hay
một hệ thống xã hội với những phương pháp vừa có tính khoa học
lại vừa có tính nghệ thuật, nhằm đạt mục tiêu chung cũng như mục
tiêu riêng của các đối tượng trong tổ chức”.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, song chúng tôi nhận
thấy khái niệm quản lý bao hàm những điểm chung: (1)- Quản lý
là những hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hồn thành cơng việc
thơng qua sự nỗ lực của mọi người trong tổ chức; (2)- Quản lý là
sự tác động mang tính chủ quan của chủ thể quản lý nhưng phải
phù hợp với quy luật khách quan; (3)- Quản lý là một hoạt động
thiết yếu, đảm bảo phối hợp nỗ lực để đạt được mục tiêu của tổ
chức; (4)- Quản lý là phương thức tốt nhất để đạt mục tiêu chung
của một nhóm người, một tổ chức, một cơ quan hay rộng hơn là
một nhà nước; (5)- Quản lý bao giờ cũng là những tác động có
định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong điều kiện môi trường
luôn biến động để hệ thống ổn định, phát triển đạt được mục tiêu
đã định.
Như vậy theo chúng tơi, khái niệm quản lý có thể được hiểu
như sau: “Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý
nhằm phối hợp hành động của đối tượng quản lý để đạt được mục
tiêu của tổ chức một cách hiệu quả nhất. Bản chất của quản lý là
một loại lao động để điều khiển lao động xã hội ngày càng phát
triển, các loại hình lao động càng phong phú phức tạp thì hoạt
động quản lý càng có vai trị quan trọng”.
Quản lý giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua q trình lao
động. Chính trong q trình lao động, con người đã tích lũy được
những kinh nghiệm. Cũng từ đó mà con người nảy sinh nhu cầu
truyền thụ lại những kinh nghiệm cho nhau, cho thế hệ sau. Đó
chính là nguồn gốc phát sinh hiện tượng GD. Hiện tượng này có ý
nghĩa đặc biệt đối với xã hội và mỗi cá nhân, nó giúp cho xã hội
bảo tồn nền văn hóa cũng như mỗi cá nhân phát huy ý thức, tâm
lý cũng như tiềm năng của bản thân. Đặc thù của quá trình GD tạo
ra sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách con người phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự tồn
tại và phát triển của xã hội lồi người, vì vậy:
Theo M.I.Cơnđacốp thì: "Giáo dục là một hiện tượng xã hội
đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử, xã hội của các thế hệ loài người. Nhờ có giáo dục mà các
thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội lồi người
khơng ngừng tiến lên" [24].
Ngày nay GD đã trở thành động lực, là nhân tố quyết định sự
phát triển, Mọi quốc gia trên thế giới đều coi phát triển GD là mục
tiêu phát triển hàng đầu. Quản lý GD được coi là nhân tố tổ chức,
chỉ đạo việc thực thi cơ chế trên. Có nhiều quan điểm về quản lý
GD:
Theo M.I.Cơnđacốp thì: "Quản lý GD là tập hợp những biện
pháp: tổ chức, phương pháp cán bộ, kế hoạch hóa… nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống
giáo dục để phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng
cũng như số lượng" [24].
Theo P.V. Khuđơminxki thì "Quản lý GD là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý
ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống (từ Bộ đến
trường), nhằm mục đích đảm bảo giáo dục Cộng sản cho thế hệ
trẻ, bảo đảm sự phát triển hài hòa của họ".
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý GD là hệ thống
những tác động có kế hoạch, có mục đích, hợp quy luật của chủ
thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành và hoạt động theo đường
lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất" [ 29, tr.11].
Theo Trần Kiểm: "Quản lý GD được hiểu là những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy
luật) của chủ thể quản lý đến tập thể tập thể giáo viên, công nhân
viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực trong và ngồi
nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
giáo dục của nhà trường" [22, tr.2].
Từ những quan điểm trên, có thể khái quát lại: Quản lý GD
là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật, làm cho hệ vận hành theo chủ trương, đường lối, nguyên lý
GD của Đảng, mà tiêu điểm hội tụ là dạy học, GD thế hệ trẻ đến
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Phải có chủ thể quản lý GD, hệ thống tác động quản lý theo
kế hoạch, nội dung, chương trình từ trung ương đến địa phương,
phải có lực lượng đông đảo người làm GD, hệ thống cơ sở vật
chất nhằm thực hiện mục tiêu GD.
Quản lý GD có tính xã hội cao. Bởi vậy, cần tập trung giải
quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc
phòng… Trong hệ thống GD, con người giữ vai trò trung tâm của
mọi hoạt động, vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt
động GD, quản lý GD đều hướng vào việc đào tạo, phát triển nhân
cách con người. Con người là nhân tố quan trọng nhất trong quản
lý GD.
Quản lý nhà trường
Trường học là một đơn vị cơ sở, là tế bào quan trọng của
hệ thống GD từ trung ương đến địa phương. Quản lý nhà trường
chính là bộ phận của quản lý GD.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý nhà trường là
tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn dự
trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao
động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường mà điểm hội tụ là qúa trình đào tạo thế hệ
trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa
nhà trường lên một trạng thái mới". [29 tr43].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: "Quản lý trường học là lao
động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ lao động của
giáo viên, học sinh và các lực lượng khác, cũng như huy động tối
đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục trong
nhà trường". [30 tr23].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo
dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [22].
Có nhiều cấp quản lý trong nhà trường, cao nhất là
BGD&ĐT, nơi quản lý nhà trường bằng phương pháp vĩ mô, tiếp
đến là Sở GD&ĐT ở tỉnh và Phòng GD&ĐT ở huyện là cấp trung
gian. Cấp quản lý quan trọng trực tiếp của hoạt động GD là cơ
quan quản lý nhà trường.
Tóm lại: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường hoạt động, vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến
tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục với
thế hệ trẻ và với từng học sinh".
Bản chất quản lý nhà trường là quản lý dạy- học, nghĩa là
đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác, tiến dần
đến mục tiêu GD. Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động trên
cơ sở những quy luật chung của quản lý nhưng cũng có đặc trưng
riêng, được quy định bởi bản chất hoạt động sư phạm của GV,
quá trình dạy học, GD. Sản phẩm của nhà trường là nhân cách
người học được hình thành trong quá trình rèn luyện, học tập
theo yêu cầu xã hội.
Quản lý nhà trường là phải quản lý một các toàn diện nhằm
phát triển nhân cách của thế hệ trẻ một cách khoa học, hợp lý,
hiệu quả. Thành công hay thất bại của nhà trường phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện cụ thể của từng nhà trường. Muốn quản lý nhà
trường một cách hiệu quả, người quản lý cần đặc biệt quan tâm
đến điều kiện đặc thù của nhà trường, phải chú trọng tới việc cải
tiến cơng tác quản lý GD để quản lý có hiệu quả các hoạt động
GD.
Quản lý trường THPT
Trường học là cơ quan chuyên trách xây dựng con người
mới, với nội dung GD được chọn lọc cơ bản và sắp xếp có hệ
thống, với phương pháp GD khoa học và đã được kiểm nghiệm
thực tiễn, với những phương tiện và điều kiện GD đem lại hiệu
quả GD cao, với những nhà sư phạm có nhân cách mẫu mực và
được trang bị đầy đủ tri thức khoa học GD, với quá trình GD được
tổ chức liên tục. Trường học có trách nhiệm to lớn và vị trí quan
trọng hơn cả các cơ sở, tổ chức khác có chức năng xây dựng
người lao động mới.
Trong các nhà trường thì hoạt động dạy học là hoạt động
xương sống, trọng tâm nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Có ý kiến
cho rằng " Quản lý trường THPT là quản lý hoạt động chuyên
môn, nhằm nâng cao chất lượng dạy học của GV tức là đưa hoạt
động đó từ trạng thái này đến trạng thái khác để dần tiến tới mục
tiêu GD của THPT là mục tiêu kép. Vừa chuẩn bị kiến thức cho
các em vào bậc học cao hơn là cao đẳng, đại học vừa chuẩn bị cho
các em các kỹ năng, tính tự chủ trong lao động". Với HS THPT,
ngồi việc trang bị kiến thức thì việc trang bị cho các em phương
pháp học tập, khả năng tư duy, thích ứng với cuộc sống nhiều biến
động cũng là vấn đề quan trọng. Vì thế, vấn đề đặt ra đối với việc
quản lý trường THPT chính là: Người quản lý (chủ thể quản lý)
tác động như thế nào vào các thành tố của hệ thống GD, nhằm
đem lại kết quả như mong muốn. Chúng tôi cho rằng đây thực sự
là khó khăn khơng chỉ bởi cơng tác quản lý là một cơng tác mang
tính khoa học, đồng thời ở một khía cạnh nào đó cũng mang tính
nghệ thuật, mà cịn bởi trong sự phát triển nhanh chóng của xã hội
ngày nay thì đổi mới GD phổ thơng, để đạt được mục tiêu GD
không phải là việc dễ dàng. Hơn thế, dù GD phổ thông là một lĩnh
vực trong nhiều năm qua được Đảng và nhà nước quan tâm nhưng
những bất cập của nó về đội ngũ GV, cơ sở vật chất, chương trình
học...cũng bộc lộ nhiều bất cập. Bởi những lẽ đó, chúng tơi cho
rằng quản lý nhà trường THPT là điều kiện mang tính quyết định
để nâng cao chất lượng GD.
Quản lý hoạt động TCM mơn trường THPT
Tổ chun mơn trường THPT
“Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, GV, viên chức làm công tác
thư viện, thiết bị GD, cán bộ làm công tác tư vấn cho HS được tổ
chức thành TCM theo mơn học, nhóm mơn học hoặc nhóm các
hoạt động ở từng cấp học. Mỗi TCM có tổ trưởng, từ 1 đến 2 tổ
phó chịu sự quản lý chỉ đạo của hiệu trưởng, do hiệu trưởng
bổnhiệm trên cơ sở giới thiệu của TCM và giao nhiệm vụ vào đầu
năm học” [4].
TCM trong các nhà trường được kiện tồn sau mỗi năm học.
Căn cứ tình hình cụ thể của nhà trường mà hiệu trưởng quyết định
thành lập TCM cho phù hợp. Có những TCM gồm 2 hoặc 3 nhóm
chun mơn sinh hoạt với nội dung dạy học khác nhau (như Sinh
học - Kỹ thuật - Thể dục - Giáo dục Quốc phịng, Lịch sử - Địa lí GDCD,....) có những TCM chỉ hoạt động dạy trên một chun mơn
duy nhất (Tốn, Ngữ văn). Đặc điểm nổi bật của TCM trong các
nhà trường THPT là hầu hết các thành viên trong tổ đều được đào
tạo ở trình độ chun mơn có bằng cấp đạt chuẩn theo quy định.
Tuy tay nghề và thâm niên cơng tác có thể khác nhau, song tất cả
các thành viên trong tổ đều có thể hoạt động chuyên môn trên cùng
đối tượng, nội dung chương trình như nhau.
Như vậy trong thực tế hiện nay ở trường THPT, TCM được
biên chế theo hai mơ hình chính sau đây:
TCM đơn mơn: Là TCM mà tất cả các GV của tổ đều dạy
một môn học và tên gọi của tổ là tên môn học đó, ví dụ tổ Tốn, tổ
Ngữ văn,...
TCM đa mơn (có từ 2 phân mơn trở lên): GV của tổ là những
người dạy các môn học khác nhau tuỳ theo số lượng GV mỗi mơn,
hoặc kết hợp với tính chất gần nhau của các mơn học mà có số
lượng mơn ghép là khác nhau. Ví dụ: tổ Sinh - Kỹ - TD - GDQP;
tổ Sử - Địa - GDCD,...
Các trường THPT trên địa bàn huyện Lạc Sơn tỉnh Hịa Bình
có 4/4 trường biên chế TCM đa mơn, mỗi tổ có từ 7-15 giáo viên
[33].
TCM là bộ phận cơ sở cấu thành trong bộ máy tổ chức nhà
trường. TCM có mối quan hệ hợp tác, phối hợp với các tổ chức
Đảng, đoàn thể để thực hiện các hoạt động GD, chương trình GD
và chiến lược phát triển nhà trường. Nhiệm vụ của TCM là: Xây
dựng và thực hiện kế hoạch TCM, hướng dẫn xây dựng, quản lý
kế hoạch cá nhân GV của tổ; Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp