Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Các giải pháp giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học tại khu vực nông thôn thành phố pleiku, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 105 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nhân loại đang bước vào thời đại kinh tế tri thức, cuộc cách
mạng về khoa học công nghệ đang phát triển với tốc độ nhanh; với xu thế đó,
là cơ hội lớn để chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
bằng cách vận dụng sáng tạo tri thức và công nghệ hiện đại của thế giới, đồng
thời phát huy nội lực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế và vốn con
người; đẩy nhanh tốc độ phát triển tri thức với công nghệ cao để tránh khỏi
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Bên cạnh những cơ hội là những thách thức
lớn cần vượt qua, đó là nước ta vẫn nằm trong các nước nghèo, trình độ học
vấn, thu nhập của người dân còn thấp, nguồn nhân lực chưa tương xứng với
yêu cầu của phát triển khoa học công nghệ và hội nhập, sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp…
Yếu tố con người có vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội;
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến nhân tố con người, xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát
triển thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, việc giáo dục con người có
thể chất có trình độ càng trở nên quan trọng.
Chính vì lẽ đó mà đầu tư cho sự nghiệp Giáo dục đã được Đảng ta đặt
vào quốc sách hàng đầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra mục tiêu
phát triển giáo dục trong những năm tới là “đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp;
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [3, 120]



2

Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng bộ tỉnh Gia Lai trong các văn
kiện Đại hội lần thứ XI, XII là: tập trung phát triển hệ thống giáo dục từ tỉnh
đến cơ sở, nâng cao chất lượng dạy và học, đầu tư cơ sở vật chất, trang bị
thiết bị từ tỉnh đến cơ sở. Trọng tâm của công tác giáo dục là nâng cao dân trí,
đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực hiện phổ cập chống mù chữ,
tạo nền tảng học vấn cần thiết cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên; ngăn
chặn tình trạng xuống cấp trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách an sinh xã
hội, đảm bảo cho các con em gia đình là người dân tộc thiểu số, gia đình khó
khăn, gia đình nghèo được đi học; tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục,
xây dựng xã hội học tập. [5, 41]
Trước những yêu cầu to lớn đó, ngành Giáo dục đã đưa ra và thực hiện
nhiều biện pháp tích cực, từ việc thay đội nội dung chương trình sách giáo
khoa, đổi mới phương pháp dạy học; trong các năm gần đây, toàn ngành đã và
đang triển khai thực hiện nhiều cuộc vận động và những phong trào như cuộc
vận động “Hai không” cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương
đạo đức, tự học và sáng tạo và những phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực” nhằm đưa sự nghiệp Giáo dục phát triển,
chất lượng giáo dục nâng cao.
Trong khi Đảng, nhà nước, ngành Giáo dục và toàn xã hội đang hết sức
quan tâm đầu tư chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, thì vẫn còn một bộ phận
chính quyền, đoàn thể, phụ huynh học sinh vẫn chưa nhận thức được vị trí
tầm quan trọng của giáo dục; bên cạnh đó mặt trái của nên kinh tế thị trường
đã làm ảnh hưởng đến sự quan tâm của các gia đình, lực lượng xã hội đến
việc học tập của trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Các điều
kiện về kinh tế, trình độ văn hoá của hộ gia đình cộng với một số chủ trương
chính sách bất cập đã làm cho một số gia đình và các em học sinh có tư tưởng
chán nãn, không chú trọng học tập, bỏ học để tham gia vào kiếm sống ngay ở



3

tuổi thiếu niên, nhất là đối với học sinh đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng điều kiện kinh tế còn khó khăn.
Nếu không có những giải pháp tích cực thì tình trạng mù chữ và tái mù
chữ ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc sẽ còn nhiều. Theo đó nguồn nhân lực
ở đây thiếu nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì thế
nhiệm vụ đặt ra hiện nay là cần phải đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ mang
tính chiến lược; trong đó việc nâng cao nhận thức của người dân và các lực
lượng xã hội, đầu tư cơ sở vật chất trường học và chính sách hỗ trợ cho giáo
viên, học sinh là những vấn đề phải được quan tâm.
Thành phố Pleiku là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Gia
Lai, nhưng tình trạng học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số ở những vùng
nông thôn, vùng khó khăn bỏ học là đáng quan tâm.
Từ những vấn đề trên em xin chọn đề tài: Các giải pháp giảm tình trạng
trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học tại khu vực nông thôn thành
phố Pleku, Gia Lai; Với đề tài này, mong muốn được góp phần phát triển giáo
dục ở các vùng khó khăn thuộc thành phố Pleiku trong giai đoạn tiếp theo.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành khung nội dung nghiên
cứu tình trạng trẻ em bỏ học ở các vùng nông thôn thành phố Pleiku, xác định
các nguyên nhân của tình trạng này, từ đó đề xuất những giải pháp giảm tình
trạng bỏ học của trẻ em trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Là các giáo viên, học sinh và phụ huynh học
sinh ở các trường học vùng ven thành phố Pleiku, trường học có học sinh dân
tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, và một số khách thể khác tham gia quản lý công
tác giáo dục ở địa phương.



4

Đối tượng nghiên cứu: Giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc
thiểu số bỏ học tại khu vực nông thôn thành phố Pleku, Gia Lai.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề học sinh tiểu học và THCS người
đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học ở 5 xã: Chưhdrông, Iakênh, Tân Sơn, Chư Á
và xã Gào giai đoạn từ năm 2006-2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp khái quát hoá
những vấn đề lý luận cơ bản của đề tài, làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn
các giải pháp nhằm giảm tình trạng học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số
bỏ học ở các vùng ven Thành phố Pleiku.
Đề tài tiến hành điều tra đối với các khách thể nghiên cứu bằng “Phiếu
điều tra tìm hiểu đời sống kinh tế văn hoá các hộ gia đình có con em bỏ học”;
“Phiếu điều tra đối với giáo viên và các lực lượng xã hội khác về chính sách
biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học”
Thu thập tài liệu, thông tin từ Phòng Giáo dục & Đào tạo Thành phố
Pleiku, các báo cáo sơ kết, tổng kết năm học và các báo cáo chuyên đề khác
liên quan đến tình trạng bỏ học của học sinh; Niên giám thông kê của địa
phương; tìm thông tin qua các phương tiện báo chí, Internet.
Công cụ: Xử lý số liệu bằng chương trình excel.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với các điều kiện về tự nhiên đặc
điểm văn hóa xã hội ở các vùng này, tác giả tiến hành các phương pháp phân
tích thống kê, chi tiết hoá, so sánh, đánh giá, tổng hợp, khái quát, chuyên gia
để chỉ ra các vấn đề còn tồn tại, xác định các nguyên nhân từ đó hình thành
các giải pháp khắc phục tình trạng trẻ em bỏ học ở địa phương.



5

- Cách tiếp cận:
+ Tiếp cận vĩ mô: Phân tích chính sách phát triển giáo dục của Đảng và
nhà nước;
+ Cách tiếp cận thức chứng: Điều tra tìm hiểu nguyên nhân Tại sao tình
trạng trẻ em người đồng bào thiểu số bỏ học như vậy?
+ Tiếp cận hệ thống: Phân tích mối tương quan giữa phát triển kinh tế
và phát triển giáo dục và mối quan hệ giữa trình độ giáo dục và thu nhập
6. Điểm mới của đề tài
Vận dụng lý luận Kinh tế phát triển về giáo dục vào thực tiễn giải quyết
vấn đề trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học;
Đây là lần đầu tiên một nghiên cứu có hệ thống về chủ đề này được
thực hiện ở thành phố Pleiku;
Các giải pháp được kiến nghị dựa trên tính đặc thù của địa phương sẽ
hứa hẹn có hữu ích cho hoạch định chính sách phát triển giáo dục.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, mục
lục, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung vể giảm tình trạng trẻ em người đồng
bào dân tộc thiểu số bỏ học
Chương 2. Thực trạng tình hình bỏ học của trẻ em người người đồng
bào dân tộc thiểu số tại khu vực nông thôn thành phố Pleiku
Chương 3. Phương hướng và giải pháp cải thiện tình trạng bỏ học của
trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số khu vực nông thôn thành phố Pleiku


6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢM TÌNH TRẠNG
TRẺ EM NGƯỜI ĐỒNG BÀO DÂN TỐC THIỂU SỐ BỎ HỌC
Chương này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung có tình chất
lý luận để làm cơ sở giải quyết vấn đề bỏ học của trẻ em nói chung, nhưng tập
trung vào nhóm yếu thế là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở nông thôn Tây
Nguyên. Những nội dung chủ yếu bao gồm sự cần thiết phải giải quyết tình
trạng này, nội dung và tiêu chí, các nguyên nhân của tình trạng trẻ em bỏ học
và các điều kiện để thực hiện giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc
thiểu số bỏ học .
1.1. Sự cần thiết phải giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân
tộc thiểu số bỏ học và đặc điểm của đối tượng này
1.1.1. Sự cần thiết phải giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân
tộc thiểu số bỏ học
Hiện tại ở các nước đang phát triển tình trạng trẻ em bỏ học đặc biệt là
con em gia đình nhóm yếu thế như đồng bào dân tộc ít người, người nghèo ở
vùng nông thôn vùng sâu, vùng xa đang là vấn đề lớn. Những vùng này nơi
mà hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ phát triển kinh tế xã hội thấp nên
hệ thống giáo dục chưa vươn tới hay chưa phát huy được vai trò của nó.
Như đã biết giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục
đích, nhằm chuẩn bị con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động
sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của loài người. Giáo dục với đặc trưng chủ yếu của một loạt
hoạt động xã hội như: Một là, đó là quá trình đào tạo con người, tác động đến
sự phát triển của con người, hình thành những sức mạnh bản chất của con
người, tác động đến sự phát triển của con người. Hai là, đó không phải là một
quá trình tự phát mà là một quá trình tự giác, có mục đích đã được ý thức


7


trước. Ba là, đó là quá trình chuẩn bị con người tham gia đời sống xã hội (với
những yêu cầu cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử), tham gia các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội mà lĩnh vực chủ yếu là lao động sản xuất. Bốn là,
quá trình đó được tiến hành bằng nhiều con đường, nhiều phương tiện, nhiều
biện pháp khác nhau, song tất cả đều phải nhằm tổ chức người dạy, người học
truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm đã tổng kết được trong lịch sử xã
hội loài người. [11, 199]
Hoạt động giáo dục giúp cho con người ta tăng được vốn con người và
với vốn đó họ có thể tiếp cận với các cơ hội việc làm có thu nhập để phát
triển. Tuy nhiên quá trình này xét dưới góc độ kinh tế sẽ phải có chi phí nhất
định để lợi ích thu được là vốn con người và những gì vốn này đem tới. Dưới
góc độ xã hội những chi phí cho phát triển giáo dục đào tạo nhất là giáo dục
phổ thông thấp hơn nhiều so với lợi ích xã hội nhận được [12, 144]. Các công
trình nghiên cứu ở các nước đang phát triển đều chứng minh điều này và
nhiều kết luận đã được rút ra trong đó đáng quan tâm nhất là kết luận cho rằng
giáo dục cho trẻ em con các hộ gia đình nghèo và nhóm yếu thế sẽ là cách xóa
đói giảm nghèo bền vững nhất có thể.
Trong nhiều năm, định đề cho rằng sự mở rộng giáo dục đã thúc đẩy
hoặc thậm chí quyết định tốc độ tăng trưởng (GNP) đã được coi là hiển nhiên
[31, 106]. Các nước chậm phát triển đã rất thiếu những nguồn nhân lực có kỹ

năng bậc trung bình và bậc cao. Và người ta cho rằng chỉ có thể tạo ra được
nhờ hệ thống giáo dục chính quy. Khi thiếu nguồn nhân lực này thì sẽ thiếu sự
lãnh đạo để phát triển trong cả hai khu vực nhà nước và tư nhân. Khi không
có những sự lãnh đạo, như vậy để lập kế hoạch, quản lý và điều hành nền kinh
tế, sự tăng trưởng có thể bị chậm lại. Những con số thống kê và vô số những
công trình nghiên cứu về “nguồn tăng trưởng kinh tế” ở các nước phương Tây
đã chỉ ra rằng, không phải sự tăng trưởng của vốn hiện vật mà là sự tăng



8

trưởng của vốn con người đã là nguồn chính của sự tiến bộ ở các quốc gia đã
phát triển [10, 90]. Sự bành trướng của giáo dục ở mọi cấp đã góp phần vào sự
tăng trưởng kinh tế tổng thể thông qua việc: (1) Tạo ra một lực lượng lao
động có năng suất cao hơn, có những hiểu biết và kỹ năng cao hơn; (2). Tạo
ra nhiều việc làm và những cơ hội kiếm được thu nhập cho các giáo viên,
những người làm việc trong các trường học, những người xây dựng, những
nhà in sách giáo khoa, những nhà sản xuất quần áo đồng phục học sinh…;(3).
Tạo ra một tầng lớp những người lãnh đạo có học vấn để điền vào chỗ trống
trong các công sở của nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân và trong những
nghề khác; (4). Dường như tạo ra một dạng đào tạo và giáo dục mà nó có thể
thúc đẩy sự biết đọc, biết viết, biết tính toán và những kỹ năng cơ bản, đồng
thời khuyến khích thái độ “hiện đại” trong các tầng lớp dân cư khác nhau [11,
207]. Cho dù sự so sánh về chi phí - lợi ích xã hội của những phương án đầu

tư khác nhau vào kinh tế có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế còn lớn hơn nữa,
nếu có thể tính toán được như vậy, thì cũng không nên làm giảm giá trị những
đóng góp quan trọng, cả về mặt kinh tế lẫn phi kinh tế, mà giáo dục có thể tạo
ra và đã tạo ra cho sự tăng trưởng kinh tế tổng thể, vì rằng một lực lượng lao
động có học vấn và có kỹ năng là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng kinh
tế là điều không thể phủ nhận.
Ở Việt Nam, Bác Hồ đã nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”. Con người với tư cách là một trong bốn nguồn lực để
phát triển kinh tế phải được kinh qua giáo dục và đào tạo. Bất cứ một quốc gia
nào muốn phát triển đều cũng phải coi trọng bốn yếu tố cơ bản của nguồn lực
phát triển kinh tế (tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, khoa học công nghệ).
Song yếu tố tài nguyên là phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không thể khắc phục
bằng ý chí chủ quan; các yếu tố khác đều phụ thuộc vào trình độ và khả năng
sáng tạo của con người [18, 10]. Con người được đào tạo là chủ thể của các



9

yếu tố đó. Chính vì vậy, chiến lược về con người được Đảng ta xác định là
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội VI đã đặt ra
những đòi hỏi bức xúc đối với sự nghiệp hình thành và phát triển con người nhân tố quyết định sự thành công của quá trình đổi mới. Đại hội lần thứ VII
của Đảng đã xác định: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con
người, động lực trực tiếp của sự phát triển. Hội nghị Trung ương 2 khó VIII
đã có nghị quyết về “ Định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá”. Mục tiêu đến năm 2020, đất nước ta
vượt qua nguy cơ tụt hậu để trở thành một nước công nghiệp phụ thuộc rất
lớn vào sự phát triển của giáo dục.
Do những lẽ đó mà việc giải quyết tình trạng trẻ em người đồng bào
dân tộc thiểu số nói chung và Tây Nguyên nói riêng bỏ học là rất cần thiết.
Đây sẽ là cách thức để xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế bền vững cho
khu vực này.
1.1.2. Các đặc điểm của người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học
* Về Kinh tế
Hoạt động kinh tế của đồng bào đa dạng và có nhiều loại hình khác
nhau nhưng không khác nhau nhiều giữa các dân tộc. Các hoạt động kinh tế ở
đây mang tính chất của sản xuất truyền thống chủ yếu tự cấp, tự túc, sản xuất
dựa vào khai thác thiên nhiên, mức đầu tư thấp cả về kỹ thuật cũng như sự
chăm sóc của người dân, do vậy năng suất rất thấp và ít chú ý đến bảo vệ tài
nguyên. Do vậy đã đẩy nhanh quá trình xói mòn, rửa trôi và thoái hoá
đất. Các hoạt động kinh tế chủ yếu là: Trồng trọt, chăn nuôi và các hoạt động
phi nông nghiệp như khai thác lâm sản, dệt,... Phương thức chủ yếu là canh
tác nương rẫy với các hoạt động phát, đốt cốt, trỉa và các công cụ sản xuất thô
sơ, hoặc thả rông (với chăn nuôi gia súc). Người dân hầu như không có khái



10

niệm về thị trường, một số gia đình vẫn đang sử dụng hình thức trao đổi bằng
hiện vật, hoặc đôi khi vẫn còn xin, cho sản phẩm làm ra. Những phong tục
này là một trong những yếu tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Tập quán
quá chú trọng đến sản xuất lúa rẫy nhằm mục đích tự cung tự cấp đã dẫn đến
sản xuất kém hiệu quả và làm tăng sự suy thoái tài nguyên.
Hiện nay, do tác động của các chương trình, dự án phát triển cho Tây
Nguyên, hoạt động kinh tế của người dân cũng đang có sự thay đổi. Cơ sở hạ
tầng giao thông thủy lợi, điện, trường học…đã cải thiện và khá hơn trước
nhiều. Một số giống mới cây, con và các kỹ thuật mới đã được đưa vào sản
xuất và đã có những tác động tích cực như tăng năng suất lao động, tạo thêm
việc làm và nâng cao thu nhập cho đồng bào. Việc sản xuất các loại cây trồng
mới cũng đã giúp cho bà con có thêm kiến thức về luân canh, xen canh và bố
trí cây trồng theo mùa vụ. Chăn nuôi là hoạt động có thay đổi nhiều nhất,
phần lớn các hộ đã nuôi gia súc đã có chuồng trại, sử dụng các giống lai trong
chăn nuôi, có ý thức trong phòng và trị bệnh cho gia súc và đặc biệt một số hộ
đã trồng cỏ để nuôi bò. Nói chung các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã có
những thay đổi nhất định do sự tác động của các chương trình, dự án trong
thời gian gần đây. Tuy nhiên những thay đổi đó chưa được áp dụng trong toàn
dân, một số hoạt động còn ở dạng các mô hình thử nghiệm, chưa được nhân
rộng ra sản xuất.
Đặc điểm kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói
chung tuy có nhiều thay đổi trong những năm qua nhưng nói chung vẫn mang
nặng tính tự cấp tự túc với phương thức sản xuất truyền thống, năng suất thấp
và phụ thuộc vào thiên nhiên. Chính điều này khiến thu nhập của họ không
cao mọi nguồn lực và thời gian để giải quyết vấn đề kinh tế. Việc học hành
của trẻ em vì thế sẽ bị ảnh hưởng mạnh.



11

* Đặc điểm về xã hội
Hoạt động kinh tế dựa vào khai thác tự nhiên và theo kinh nghiệm nên
thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số thấp hơn đáng kể so với người kinh
cũng như mặt bằng chung. Ví dụ thu nhập bình quân 1 nhân khẩu trong năm
2006 của đồng bào ở Tây Nguyên theo số liệu điều tra mức sống 2006 của
Tổng cục Thống kê chỉ khoảng gần 2 triệu đồng [27]. Tỷ lệ nghèo đói ở Tây
Nguyên cao vào loại nhất cả nước trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu
số đặc biệt là các địa phương vùng sâu và vùng xa.
Điều kiện sống thấp hơn khi thiếu thốn nhiều cho dù đã được cải thiện
nhiều nhờ các chương trình như 135 và 134 của Chính phủ.
Trình độ học vấn của đồng bào phần lớn rất thấp so với người kinh.
Theo số liệu điều tra mức sống 2006 của Tổng cục Thống kê ở Tây Nguyên,
số năm đi học trung bình của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chỉ là gần 3
năm trong khi người kinh là 7.5 năm. Tỷ lệ thất học của đồng bào cũng cao
hơn so với người kinh, cũng số liệu này cho thấy con số này gần 35% [27].
Phần lớn lao động người đồng bào không được đào tạo và làm việc thủ công
là chính.
Các hộ Đồng bào DTTS thường có quy mô lớn hơn trung bình của cả
nước vì đông con và tỷ lệ sinh cao. Điều kiện chăm sóc sức khỏe kém dẫn tới
tình trạng trẻ em dưới 5 tuổi chết cao khiến tuổi thọ trung bình của Đồng bào
DTTS thấp. Ngoài ra tỷ lệ trẻ em và phụ nữ suy dinh dưỡng thuộc nhóm
đồng bào dân tộc thiểu số cũng cao hơn so với trung bình.
Nhiều tập tục văn hóa của đồng bào vẫn được duy trì trong cộng đồng
và được chính quyền tạo điều kiện. Ảnh hưởng của các già làng trưởng bản là
rất lớn trong cộng đồng. Đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc
thiểu số vùng sâu, vùng xa thực chất còn rất nhiều hạn chế, càng ở xa càng

thiếu thông tin, càng khao khát các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Các hủ tục
mê tín dị đoan như thầy cúng, thầy bói vẫn còn lén lút hoạt động. Trong khi


12

đó sinh hoạt văn hóa mang đậm các sắc tộc bản địa đang bị lấn át và mai một.
Nhất là trong những năm gần đây, khi đi vào cơ chế của nền kinh tế thị
trường, khi thông tin và các phương tiện chuyển tải văn hóa nghệ thuật ngày
càng phát triển và hiện đại, bên cạnh những ưu điểm thì những mặt tiêu cực
trong sự vận động của xã hội đã làm cho nền văn hóa truyền thống bị suy
giảm. Nền văn hóa, văn nghệ của các dân tộc ở Tây Nguyên đang đứng trước
những thử thách lớn. Các hoạt động văn nghệ dân gian trước đây diễn ra
thường xuyên ở các buôn làng thì giờ đây trở nên thưa thớt. Nhiều nơi không
còn chế tác các nhạc cụ. Lớp tuổi từ 40 trở xuống ít người biết đánh chiêng.
Thế hệ trẻ không tha thiết với sinh hoạt văn hóa dân gian, coi nhẹ trang phục,
kiến trúc và những giá trị tinh thần truyền thống, có nguy cơ làm đứt đoạn với
truyền thống văn hóa dân tộc.
1.2. Nội dung và tiêu chí giảm tình trạng trẻ em người đồng bào
dân tộc thiểu số bỏ học
1.2.1. Khái niệm giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc
thiểu số bỏ học
Giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ học là các
hoạt động của chính quyền, ngành giáo dục và cộng đồng bằng nhiều cách
khác nhau từ kinh tế, hành chính và tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc
thiểu số nhằm bảo đảm cho trẻ con em đồng bào dân tộc thiểu có thể đến
trường không phải bỏ học.
Các hoạt động này là một quá trình phức tạp và đòi hỏi sự phối hợp của
nhiều bên và các nguồn lực để thực hiện. Nhưng bản thân nó cũng chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố cả khách quan và chủ quan, cả kinh tế và các yếu tố

phi kinh tế.


13

1.2.2. Nội dung giảm tình trạng bỏ học của trẻ em người đồng bào
dân tộc thiểu số
Các hoạt động nhằm giảm tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc
thiểu số bỏ học sẽ bao gồm nhiều nội dung khác nhau như:
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ
cập trung học cơ sở
Triển khai Luật giáo dục, xây dựng xã hội học tập là công việc mà
ngành Giáo dục và các địa phương đang ra sức thực hiện; việc triển khai
chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và THCS ở các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số là hết sức khó khăn vất vã. Để làm được công tác
phổ cập giáo dục ở các vùng này, các tổ chức, đoàn thể phải ra sức tuyên
truyền sâu rộng, thường xuyên, liên tục nhằm huy động học sinh đến trường
và hạn chế tối đa tình trạng học sinh người đồng bào DTTS bỏ học. Để duy trì
kết quả phổ cập cần phải tiếp tục tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
cho nhân dân về chủ trương, mục tiêu quốc gia về PCGD để đồng bào DTTS
thấy được vai trò của tri thức trong đời sống xã hội.
Đối với phổ cập giáo dục tiểu học, đây là chương trình bắt buộc phải
thực hiện mà theo đó yêu cầu chính quyền, ngành giáo dục và gia đình phải
bảo đảm điều kiện để trẻ em đúng 6 tuổi được vào lớp một, bắt đầu cho tiếp
nhận nền giáo dục phổ thông của Việt Nam và được bảo đảm để trẻ có thể tốt
nghiệp tiểu học. Nghĩa là nguồn lực và điều kiện học tập cho trẻ em được nhà
nước bảo đảm và giáo dục tiểu học không mất tiền nhưng bắt buộc phải thực
hiện.
Mục tiêu phổ cập giáo dục THCS được nêu tại Nghị quyết 41/2000/NQ
QH10 ngày 12/9/2000; theo đó phải đảm bảo hầu hết thanh thiếu niên sau khi

tốt nghiệp tiểu học đều đạt trình độ THCS trước khi hết 18 tuổi, đáp ứng yêu
cầu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự


14

nghiệp CNH-HĐH đất nước. Việc phổ cập giáo dục THCS phải đạt được các
chỉ tiêu: Đối với xã phường đảm bảo duy trì, củng cố và hoàn thiện mục tiêu
PCGD tiểu học, huy động số học sinh tốt nghiệp tiểu học hàng năm vào
THCS đạt tỷ lệ từ 95% trở lên, ở những xã có điều kiện KT-XH khó khăn là
80% trở lên; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở cấp THCS, giảm tỷ lệ
học sinh lưu ban bỏ học, bảo đảm tỷ lệ tốt nghiệp THCS 90% trở lên, đối với
các xã có điều kiện KT-XH khó khăn là 75% trở lên; đảm bảo thanh thiếu
niên trong độ tuổi từ 15 - 18 đạt trình độ THCS 80% và 70% đối với những xã
khó khăn [24, 1].
Chương trình phổ cập trung học cơ sở cũng được thực hiện khi chương
trình phổ cập tiểu học hoàn thành và duy trì. Tuy nhiên các địa phương thực
hiện chương trình này tùy thuộc vào điều kiện và nguồn lực của họ. Nhưng
thực tế hiện nay gần như tất các các địa phương đều cố gắng thực hiện và về
cơ bản chương trình này cũng miễn phí.
Đây là hai chương trình đang được triển khai ở các tỉnh Tây Nguyên
nói chung và Gia Lai nói riêng hiện nay. Thực hiện tốt chương trình này cho
vùng nông thôn ở Tây Nguyên hay Gia Lai nơi có nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống sẽ đạt được hai mục tiêu. Thứ nhất, phổ cập giáo dục cho
trẻ em; Thứ hai, giảm tình trạng trẻ em bỏ học.
Mở rộng mạng lưới bao phủ và nâng cấp cơ sở giáo dục
Mạng lưới cơ sở giáo dục chính là điều kiện vật chất đầu tiên để bảo
đảm cho việc cung cấp dịch vụ giáo dục cho con em người dân. Mạng lưới cơ
sở giáo dục thường được quy hoạch theo các điểm dân cư và tùy thuộc vào
quy mô dân số của mỗi vùng và sẽ thường xuyên được điều chỉnh cho phù

hợp với thực tế thay đổi của biến động dân số và tình hình kinh tế xã hội. Việc
phân bố này nếu không phù hợp với những thay đổi và không được tính toán
đầy đủ trong quy hoạch sẽ phát sinh ra nhiều vấn đề và ảnh hưởng tới việc


15

cung cấp dịch vụ công này và sẽ khiến một bộ phận trẻ em không có điều kiện
đến trường phải bỏ học.
Một trong những vấn đề của hệ thống giáo dục ở các nước đang phát
triển hiện nay là mạng lưới giáo dục không đạt được hiệu năng của nó.
Nguyên nhân chính là phân bố mạng lưới cơ sở giáo dục nhất là ở những
vùng sâu vùng xa nơi hạ tầng khó khăn. Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói
riêng, dù địa phương đã có nhiều cố gắng nhưng phân bố mạng lưới giáo dục
trong những năm qua vẫn có những vấn đề.
Đánh giá chung về mạng lưới giáo dục và cơ sở giáo dục ở các vùng
nông thôn, vùng xa, vùng đồng bào DTTS là còn nhiều thiếu thốn là lạc hậu,
điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. Việc đầu tư cho các
xã miền núi không thuộc diện được hưởng Chương trình 135 rất hạn chế nên
giáo dục ở các xã này phát triển chậm. Số trẻ em người đồng bào DTTS được
học mẫu giáo 5 tuổi chiếm tỷ lệ thấp, tỷ lệ trẻ em ở 2 cấp TH và THCS bỏ học
nữa chừng ở mức cao. Nguồn ngân sách hạn hẹp của địa phương còn giàn
trải, manh mún không đủ nhu cầu phát triển đột phá giáo dục ở các vùng này.
Mục tiêu xây dựng trường học thân thiện là tạo nên một môi trường giáo dục
(cả về vật chất lẫn tinh thần) an toàn, bình đẳng, tạo hứng thú cho học sinh
trong học tập, đảm bảo quyền được đi học và học hết cấp của học sinh, giảm
tỷ lệ học sinh nghèo, học sinh người đồng bào DTTS bỏ học [19].
Vì vậy việc mở rộng mạng lưới bao phủ và nâng cấp cơ sở giáo dục
này sẽ cho phép cung cấp tốt nhất cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai các
dịch vụ giáo dục cho trẻ em góp phần cải thiện tình trạng trẻ em bỏ học.

Bảo đảm số lượng giáo viên và các điều kiện cho giáo viên
Giáo dục là một dịch vụ công, và cũng như tất cả các dịch vụ khác chất
lượng của sản phẩm này phụ thuộc vào chất lượng của lao động trong ngành
giáo dục. Cho dù có đầy đủ cơ sở vật chất như trường lớp, thiết bị dạy học,
sách giáo khoa… nhưng thiếu thầy cô giáo - những người có trình độ, nhiệt


16

tình và yêu nghề, cũng như tình trạng không đồng bộ trong đội ngũ nhà giáo
thì chắc chắn dịch vụ giáo dục cũng sẽ có chất lượng kém và người thiệt thòi
nhất chính là học sinh.
Trình độ, thái độ và hành vi của giáo viên sẽ quyết định chất lượng học
của học sinh. Học sinh tiếp nhận được kiến thức phổ thông và các kỹ năng
sống thông qua thầy cô, họ chính là những kênh kết nối học sinh với kho tàng
kiến thức vô tận của con người đồng thời gợi mở sự sáng tạo phát triển cho trẻ
trong tương lai.
Một trong các yếu tố khiến hệ thống giáo dục của các nước đang phát
triển kém hiệu quả chính là chất lượng giáo viên rất khác nhau giữa các vùng
miền. Phần lớn giáo viên giỏi thường tập trung ở các thành phố, trung tâm hay
đồng bằng trong khi nông thôn hay vùng sâu vùng xa thường không đủ giáo
viên chứ chưa nói giáo viên có chất lượng. Một trong những lý do đó chính là
điều kiện sống làm việc cho giáo viên ở những nơi khó khăn không được bảo
đảm ngang bằng với những đồng nghiệp ở vùng đồng bằng hay thành phố, họ
không yên tâm công tác giảng dạy trong điều kiện đó. Do đó cần có một giải
pháp đồng bộ để thu hút giáo viên trẻ có trình độ về vùng nông thôn như: đảm
bảo nhà ở, phụ cấp ưu đãi, thâm niên, nâng mức phụ cấp của giáo viên trực
tiếp dạy học sinh dân tộc, giáo viên thực hiện xóa mù chữ, phổ cập giáo
dục…Việc phân bố giáo viên hợp lý giữa các vùng đặc biệt là vùng sâu vùng
xa sẽ làm cho hệ thống giáo dục hoạt động có hiệu quả.

Muốn cải thiện tình trạng trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số bỏ
học thì bảo đảm số lượng và chất lượng giáo viên cho các trường và phân bổ
hợp lý mới có thể thực hiện được đồng thời phải có chính sách và biện pháp
hỗ trợ cho giáo viên cả vật chất tinh thần để họ yên tâm công tác.


17

Đẩy mạnh tuyên truyền vận động và nâng cao nhận thức của cha mẹ
học sinh
Bài học từ thực tế đã chỉ ra chính nhận thức vai trò và tầm quan trọng
của giáo dục với tương lai của trẻ không phải tất cả các bậc làm cha mẹ đều
đều hiểu rõ. Chính điều này khiến nhiều bậc cha mẹ mà thường rơi vào những
người nghèo học vấn thấp ở nông thôn vùng sâu vùng xa đã không quan tâm
tới việc học hành của con cái. Họ không hiểu giáo dục sẽ giúp cho trẻ có khả
năng để tiếp cận cơ hội việc làm và thu nhập cao trong tương lai và là cách
giúp chúng thoát khỏi nghèo khó.
Thực tế cho thấy những vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, trình độ
dân trí thấp và tỷ lệ hộ nghèo cao là những vùng có nhiều học sinh bỏ học.
Các bậc cha mẹ học sinh là những người lao động nghèo, trình độ học vấn
thấp, ít quan tâm đến sự phát triển của xã hội hiện đại, vấn đề con em của họ
bỏ học cũng là lẽ dễ hiểu; nhiều khi do nhận thức quá kém, chính bản thân họ
đã yêu cầu con em của mình bỏ học để bớt gánh nặng gia đình.
Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của nhà nước mà là của toàn xã
hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, trung ương và địa
phương cùng làm giáo dục [20, 91]. Các cấp, các ngành, các địa phương cần
xác định lại quan điểm của Đảng, nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục của
dân, do dân, vì dân, hướng tới một xã hội học tập. Vì vậy, xem việc học sinh
bỏ học là trách nhiệm chung của đảng bộ, chính quyền và xã hội; việc học
sinh bỏ học sẽ gây ra hậu quả nặng nề cho xã hội. Các lực lượng xã hội cần

tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của cha mẹ học sinh về tầm quan
trọng, lợi ích của việc đi học của con em mình, lồng ghép các biện pháp hỗ
trợ giúp đỡ về vật chất để tạo điều kiện cho học sinh quay trở lại học tập.
Đồng thời giải quyết các vấn đề có tình bền vững như tạo việc làm, xói đói
giảm nghèo cho các hộ gia đình.


18

Tuyên truyền vận động không phải để họ hiểu tầm quan trọng mà phải
làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với việc học hành và tương lai của
con trẻ em.
Công việc này đòi hỏi phải thực hiện bằng nhiều hình thức, nhiều phía,
tạo môi trường giáo dục Gia đình - Nhà trường - Xã hội có hiệu quả. Ngoài
chính quyền, đoàn thể các tổ chức xã hội tham gia vận động, ở vùng đồng bào
dân thộc thiểu số Tây Nguyên, Già Làng có vai trò quyết định làm thay đổi
nhận thức của người dân; vai trò của Già Làng là rất quan trọng cần được chú
ý phát huy.
Hỗ trợ về vật chất cho đối tượng trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu
số bỏ học
Chi phí học hành cho trẻ em bao gồm chi phí học phí, trường lớp còn
bao gồm chi phí cho sách vở ăn mặc của trẻ. Nhiều gia đình người đồng bào
ăn không đủ thì việc trang trải các chi phí cho con đi học là quá tầm tay.
Nhiều vùng sâu vùng xa trẻ khoảng cách từ nhà tới trường quá xa có khi hàng
chục cây đường rừng thì trẻ phải ở lại nội trú thì cha mẹ phải gửi gạo và thức
ăn cho con ở nội trú. Nên ở nhiều địa phương, nguyên nhân cơ bản dẫn tới
tình trạng trẻ em bỏ học chính là yếu tố kinh tế.
Trước tiên cần thay đổi kịp thời các chính sách của nhà nước về hỗ trợ
vật chất cho các đối tượng này; các chính sách về học bổng, cấp không sách
vỡ và đồ dùng học tập; chính sách về đầu tư xây dựng trường học bán trú, nội

trú, hỗ trợ tiền ăn trưa cho các em để có thể khuyến khích các em tới trường.
Các địa phương cần thường xuyên tổ chức có hiệu quả các phong trào “vì
người nghèo”, “hỗ trợ học sinh nghèo vượt khó”…kịp thời động viên giúp đỡ
các em có động lực học tập.
Nếu nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân cơ bản thì chính sách hỗ trợ
về vật chất như gạo tiền và sách vở sẽ giúp cho trẻ có điều kiện vượt qua khó


19

khăn để học hành. Chỉ có như vậy mới bảo đảm thực hiện được mục tiêu cải
thiện tình trạng trẻ em người đồng bào DTTS bỏ học.
1.2.3. Tiêu chí phản ảnh mức giảm tình trạng bỏ học của trẻ em
người đồng bào dân tộc thiểu số
- Số lượng trẻ em vào học các cấp đúng độ tuổi tăng thêm;
- Tỷ lệ trẻ em vào học các cấp đúng độ tuổi tăng thêm;
- Mức giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học ngay đầu cấp học (tiểu học và trung học
cơ sở);
- Mức giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học trong quá trình học tiểu học;
- Mức giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học trong quá trình học trung học cơ sở;
1.3. Điều kiện để cải thiện trình trạng trẻ em người đồng bào dân
tộc thiểu số bỏ học
1.3.1. Điều kiện về kinh tế
Điều kiện về kinh tế bao gồm điều kiện kinh tế của địa phương và
nguồn tài chính cho hoạt động này cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ở
đây. Điều kiện kinh tế tốt dựa trên cở sở trình độ phát triển kinh tế cao, tạo
cho địa phương có cơ sở kinh tế để phát triển giáo dục nói chung và cải thiện
tình trạng thất học của dân chúng. Chính điều kiện này cũng cho phép địa
phương huy động nguồn tài chính từ chính mình thay vì tìm tài trợ từ bên
ngoài. Thiếu các điều kiện kinh tế này sẽ rất khó khăn cho việc thực hiện các

mục tiêu phát triển nguồn nhân lực vì đây là điều kiện vật chất không thể
thiếu cho thực hiện. Cũng cần nhớ rằng một trong các nguyên nhân của tình
trạng trẻ em bỏ học chính là yếu tố gia đình nghèo đói và không đủ điều kiện
kinh tế để trang trải chi phí cho trẻ em đi học.
Điều kiện hạ tầng kinh tế như giao thông, cung cấp điện nước, viễn
thông …và hạ tầng xã hội chính là hệ thống trường học bệnh viện…sẽ là


20

những điều kiện quyết định tới sự nghiệp phát triển nền giáo dục quốc dân để
phát triển nguồn nhân lực nói chung
1.3.2. Điều kiện về chính sách
Chính sách ở đây bao gồm chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói
chung và chính sách phát triển hệ thống giáo dục nói riêng.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực sẽ định hướng không chỉ chính
sách giáo dục mà còn cả chính sách ytế văn hóa thể thao…Do đó đây là định
hướng chung, bảo đảm sự thống nhất và phối hợp các chính sách này không
chỉ mục tiêu mà còn cả phân bổ, sử dụng nguồn lực để thực hiện.
Chính sách giáo dục sẽ trực tiếp tác động vào thực hiện mục tiêu cải
thiện tình trạng trẻ em bỏ học. Vì chính sách này không chỉ bảo đảm cơ sở vật
chất cho giáo dục cũng như phân bổ nguồn lực cho hệ thống này hoạt động
nhằm thực hiện các mục tiêu cung cấp dịch vụ giáo dục tốt nhất có thể.
Hệ thống giáo dục của địa phương có phát triển hay không là thể hiện
sự quan tâm của ngành giáo dục, chính quyền và các lực lượng xã hội. Hệ
thống trường lớp được đầu tư đúng mức, môi trường sư phạm thân thiện, thiết
bị dạy học, sân chơi, điều kiện sinh hoạt là những yếu tố tác động trực tiếp
đến tinh thần học tập của các em. Ở vùng sâu, vùng xa cơ sở vật chất kỹ thuật
nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học
bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu, những tiết học khô khan, thiếu

sinh động làm các em không hứng thú trong học tập. Thực tế trong những
năm qua, kinh phí đầu tư xây dựng cơ sơ vật chất cho ngành giáo dục là
không nhiều, cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, chưa tập trung cao
cho những mục tiêu ưu tiên, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương
khó khăn. Đầu tư của nhà nước cho giáo dục chủ yếu là chi lương, phần chi
cho hoạt động chuyên môn là không đáng kể.


21

Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thông đã được
đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; sự liên thông giữa các cấp chưa
được đảm bảo, từ mầm non lên lớp 1 còn bỡ ngỡ, thiết sự chuẩn bị để chuyển
qua một chương trình mới. Phương pháp dạy học ở phổ thông vẫn theo lối
truyền thụ một chiều, đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ máy móc, không phát huy
được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở các em.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được yêu
cầu nâng cao chất lượng. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo còn thiếu hiệu quả. Ở các vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng khó khăn số lượng giáo viên là người địa phương rất ít, chủ
yếu là ở các nơi khác đến, nên chưa yên tâm công tác, chưa hiểu được văn
hoá và đặc điểm của người địa phương, nên để tâm huyết với nghề đạt được
hiệu quả trong công tác là rất khó. Mặt khác, Các chế độ chính sách đối với
nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực lao động sáng tạo của người
làm công tác giáo dục.
Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, trình độ trong những năm
qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Tuy nhiên, chất lượng
giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển và so với trình độ của các nước
tiên tiến trong khu vực, chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số
lượng với nâng cao chất lượng. Thực tế học sinh tiếp thu kiến thức tốt thì

càng hăng say học tập, ngược lại thì có tâm lý chán nản
1.3.3. Điều kiện về tổ chức
Sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức, đoàn thể và cộng đồng dân cư sẽ
quyết định không nhỏ tới mục tiêu cải thiện tình trạng trẻ em bỏ học.
Các cơ quan chỉnh phủ ở địa phương có liên quan tới giáo dục sẽ là cơ
quan quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Cơ quan này sẽ đóng vai
trò nòng cốt trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển giáo dục và tập hợp


22

các tổ chức đoàn thể và cộng đồng phối hợp hoạt động tuyên truyền giáo dục
dân cư cũng như góp sức giải quyết các vấn đề đặt ra.
Cộng đồng dân cư cũng có vai trò quan trọng khi họ đang duy trì những
truyền thống tốt đẹp trong đó có truyền thống hiếu học và khuyến học của các
làng xã và dòng họ. Chính họ đang đóng góp nhiều vào sự nghiệp giáo dục
của Việt Nam.
1.4. Các nguyên nhân bỏ học của trẻ em người đồng bào dân tộc
thiểu số
Tình trạng bỏ học của trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số có thể
chia ra thành 4 nhóm nguyên nhân:
1.4.1. Nhóm nguyên nhân từ hoàn cảnh gia đình
- Kinh tế khó khăn, đói nghèo không có tiền chi trả học phí,
- Trẻ sớm phải tham gia lao động để phụ giúp gia đình
- Gia đình không hạnh phúc, bố mẹ ly hôn hoặc bạo lực gia đình
- Nhận thức chưa đầy đủ về giá trị của học tập đối với tương lai của
trẻ, đặc biệt với con gái
- Gia đình không có truyền thống hiếu học nên không khuyến khích
trẻ tiếp tục đi học
1.4.2. Nhóm nguyên nhân từ nhà trường

- Chương trình giáo dục không thiết thực, ít phù hợp, đơn điệu, nghèo
nàn, nhàm chán, không hấp dẫn
- Chất lượng dạy học và phương pháp giảng dạy thiếu sự hấp dẫn, sự
thuyết phục và tính sáng tạo để gây hứng thú học tập với học sinh
- Mối quan hệ thầy trò ít thân mật, học trò kém chủ động và thiếu tự tin


23

- Thiếu cơ sở vật chất, thiết bị dạy học thiếu thốn
- Ngôn ngữ sử dụng trong dạy và học không phù hợp (với nhóm dân
tộc ít người)
1.4.3. Nhóm nguyên nhân từ phía xã hội và cộng đồng
Việc học tập của trẻ em phụ thuộc vào môi trường xã hội của địa
phương rất lớn. Giáo dục phổ thông là dịch vụ công những kết quả của nó
chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội và gia đình. Thiếu môi trường hỗ trợ
và sự khích lệ từ cộng đồng cho nhóm trẻ đặc biệt và chịu nhiều thiệt thòi,
nhận thức tầm quan trọng của giáo dục với tương lai của trẻ em còn thấp.
Hầu hết trẻ em đã có nhóm bạn, thường là cùng lứa tuổi, cùng mối quan
tâm và quan điểm xã hội. Đây là bối cảnh khác với gia đình, trường học khi
mà trẻ có thể tham gia các hoạt động không hoặc ít có sự giám sát trực tiếp
của người lớn. Trong nhóm bạn, vai trò độc lập của cá nhân góp phần hình
thành các kinh nghiệm trong quan hệ xã hội cũng như ý thức về bản thân khác
với những gì có trong gia đình. Nhóm bạn cũng tạo cơ hội cho các thành viên
chia sẻ, thảo luận về các mối quan tâm mà trong đó có những cái thường
không làm được điều tương tự đối với cha mẹ hay các thầy cô giáo. Vai trò
của nhóm bạn quan trọng nhất là ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên, đặc biệt
là khi các thành viên sống xa gia đình. Mâu thuẫn này được tạo ra do sự khác
biệt về thế hệ trong khi các mẫu văn hoá luôn thay đổi, hoặc do mối quan tâm
của gia đình thường có tính chất định hướng, mục tiêu dài hạn trong khi nhóm

bạn lại tạo ra những sở thích nhất thời, ngắn hạn... Tuy nhiên, trong khi tham
gia nhóm bạn, các thành viên dễ có xu hướng tuân thủ và đánh giá tích cực
về nhóm của mình đồng thời nhận dạng một cách đối lập thậm chí tiêu cực
với nhiều nhóm khác.
Ngày nay, nhiều trẻ em tiếp xúc với truyền hình trước khi được đi học


24

và hằng ngày các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp cho một số lượng
đông đảo các thành viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn
đến suy nghĩ cũng như hành vi của họ. Truyền thông mang lại cho con người
những kinh nghiệm xã hội, những mẫu văn hoá mang tính tiêu chuẩn dưới
cách nhìn phổ biến. Các thành viên của xã hội đều chịu ảnh hưởng ở mức độ
khác nhau do những gì mà phương tiện thông tin đại chúng coi trọng hoặc
xem nhẹ, đánh giá tích cực hay tiêu cực. Nó cũng là một kênh quan trọng để
phổ biến văn hoá, giúp con người có thể hiểu được các mẫu văn hoá, những
nền văn hoá khác. Truyền thông cũng làm cho các thành viên trong xã hội gắn
kết với nhau hơn thông qua những mối quan tâm chung, những giá trị chung,
Tuy vậy, các phương tiện truyền thông cũng có những vấn đề của nó. Các vấn
đề như quảng cáo, bạo lực, lối sống... trên các phương tiện thông tin đại chúng
thường là các chủ đề gây tranh cãi.
Ngoài tập thể chính, con người cũng chịu tác động của dư luận - thái độ
của những người trong xã hội về những vấn đề đang tranh cãi và cá nhân
thường hành động theo hướng thích ứng với thái độ của người khác để tránh
bị xem là khác biệt hoặc gán nhãn hiệu lệch lạc. Tôn giáo, thể chế nhà nước
cũng là những tác nhân giáo dục. Những nghi lễ tôn giáo và những quy định
của nhà nước cũng định hình nhận thức, hành vi của cá nhân.
Sự nghiệp giáo dục học sinh cấp cơ sở là nhiệm vụ và trách nhiệm
chung của nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội tham gia, góp phần hình

thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, đáp ứng được những yêu
cầu về nguồn lực lao động có chất lượng cao trong sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước
Vai trò của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia phát triển
sự nghiệp giáo dục chưa được phát huy đúng mức, công tác xã hội hoá giáo


25

dục còn lung túng, thiếu cơ chế phối hợp, dẫn đến việc huy động trẻ em bỏ
học đi học lại còn nhiều khó khăn, bất cập
- Khoảng cách đến trường xa và điều kiện đi lại khó khăn khi đến
trường.
1.4.4. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ bản thân trẻ
- Xấu hổ với bạn bè và thầy cô vì các vấn đề của bản thân hoặc gia đình
- Không có thời gian dành cho học tập (do bản thân phải phụ giúp gia
đình hoặc bị tác động xấu từ bạn bè, môi trường)
- Thiếu kỷ luật, không đủ kiên nhẫn theo học
- Cảm thấy việc học quá buồn tẻ
- Học đuối so với bạn, kết quả học tập kém
- Sức khoẻ kém, bệnh tật hoặc khuyết tật.
1.5. Cải thiện tình hình bỏ học của trẻ em ở một số địa phương.
Năm học 2008-2009, theo tổng hợp của Bộ giáo dục, tổng số học sinh
phổ thông bỏ học là 147.005/15.710.060 học sinh, chiếm 0,94%; trong đó học
sinh cấp TH bỏ học là 19.217/6.863.205 học sinh, chiếm 0,28%; học sinh
THCS bỏ học là 66.205/5.794.236 học sinh, chiếm 1,14%; học sinh THPT bỏ
học là 61.583/3.052.620 học sinh, chiếm 2,02%; càng lên cao thì số lượng học
sinh bỏ học càng nhiều. Học sinh bỏ học chủ yếu ở những vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn, vùng dân tộc thiểu số [19, 2].
Theo số liệu báo cáo về tỷ lệ học sinh bỏ học đầu năm học 2008 - 2009

tại các tỉnh ĐBSCL, học sinh bỏ học trong hè ở cấp THCS và THPT còn khá
cao. Càng học lên cao, học sinh càng khó theo đuổi việc học. Cụ thể, các tỉnh
có tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao ở cả 3 cấp học: Cà Mau (18,67%), An Giang
(14,34%), Bạc Liêu (13,23%), Hậu Giang (10,19%) ... Đặc biệt, tỷ lệ học sinh


×