Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính tại công ty cổ phần đường quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 122 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp tiên tiến, là sản phẩm tất yếu
của quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường. Có thể nói công ty cổ phần là hình thức phát triển cao nhất trong các loại
hình doanh nghiệp và tình hình tài chính trong công ty cổ phần là phong phú và
phức tạp nhất. Một doanh nghiệp phát triển và thành công trong kinh doanh bao giờ
cũng phải đi kèm với tình hình tài chính vững mạnh và hiệu quả, bởi lẽ để hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì nhà quản lý cần nhanh chóng
nắm bắt những tín hiệu của thị trường, xác định đúng nhu cầu về vốn, tìm kiếm và
huy động nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu, và sử dụng vốn hợp lý đạt hiệu quả
cao nhất. Và những điều thiết yếu đó chỉ có được trong công tác quản lý tài chính
doanh nghiệp. Trong khi đó tại Việt Nam, "khoảng trống về quản trị tài chính" lại là
một vấn đề đáng báo động khi mà ngoại trừ một số doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp có 100% vốn nước ngoài còn lại đại đa số doanh nghiệp đều chưa hình thành
bộ phận quản trị tài chính. Do đó, chức năng quản lý tài chính được kiêm nhiệm và
không thực sự phát huy được vai trò quan trọng của nó.
Sau 30 năm xây dựng và phát triển, ngày nay Công ty Cổ phần Đường
Quảng Ngãi trở thành một trong những trung tâm chế biến đường và các sản phẩm
sau đường lớn trong cả nước và là đơn vị chiếm gần 2/3 giá trị sản xuất công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2009, Công ty chuyển sang hoạt động theo loại
hình công ty cổ phần không còn vốn Nhà nước. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt
mới của Công ty, để có thể ổn định và phát triển một cách vững chắc trong nền kinh
tế cạnh tranh gay gắt thì tài chính doanh nghiệp là một trong những lĩnh vực rất
quan trọng và cần được doanh nghiệp quan tâm. Đòi hỏi các quyết định quản trị
doanh nghiệp phải dựa trên các nguyên lý và tín hiệu thị trường. Việc vận dụng các
lý thuyết quản trị hiện đại, đặc biệt là các lý thuyết về quản trị tài chính vào thực
tiễn hoạt động của doanh nghiệp là điều bức thiết.



2

Xuất phát từ nhận định trên, tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện
hoạt động quản trị tài chính tại Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi” để làm
luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm:
• Nghiên cứu các lý thuyết, quan điểm về quản trị tài chính trong công ty
cổ phần.
• Phản ánh thực trạng hoạt động quản trị tài chính của Công ty Cổ phần
Đường Quảng Ngãi
• Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính,
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Đường
Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việc đổi mới doanh nghiệp trong đó có hoạt động quản trị tài chính cho phù
hợp với nền kinh tế thị trường là quá trình lâu dài và phức tạp, phải giải quyết bằng
nhiều vấn đề như nhận thức, tổ chức bộ máy, quy trình hoạt động....Trong phạm vi
của đề tài, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan tài chính doanh
nghiệp, quản trị tài chính của Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi giai đoạn từ
2005 đến năm 2009. Qua đó, tác giả đề xuất những giải pháp cơ bản để hoàn thiện
hoạt động quản trị tài chính tại Công ty như:
• Hoàn thiện tổ chức hoạt động quản trị tài chính tại Công ty Cổ phần
Đường Quảng Ngãi theo hướng nâng cao vai trò của chức năng quản trị tài chính
trong bộ máy quản lý
• Nâng cao hiệu quả quyết định đầu tư của Công ty Cổ phần Đường
Quảng Ngãi
• Xây dựng cấu trúc vốn hợp lý cho Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi
• Lựa chọn chính sách cổ tức thích hợp cho Công ty Cổ phần Đường

Quảng Ngãi


3

Quản trị tài chính là một vấn đề phức tạp, và còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
Do đó, trong phạm vi đề tài này khó chuyển tải hết nội dung, vì vậy đề tài vẫn còn
những hạn chế nghiên cứu như:
• Chưa xem xét đến hoạt động quản trị rủi ro
• Chưa khái quát thành mô hình hoá nhằm nâng cao hiệu qủa công tác lập
kế hoạch tài chính
• Chỉ tổng hợp, quan sát, phân tích dựa trên các số liệu đã công bố mà
không lập bảng câu hỏi để khảo sát tình hình thực hiện chức năng quản trị tài chính
tại Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi
4. Những đóng góp của luận văn
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng đề tài cũng có những điểm mới sau:
Thứ nhất, từ tổng hợp lý thuyết quản trị tài chính doanh nghiệp hiện đại, đề
tài đã khái quát được cơ sở lý luận về quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Thứ hai, phản ánh thực trạng hoạt động quản trị tài chính của Công ty Cổ
phần Đường Quảng Ngãi, một chức năng quản lý trọng yếu trong loại hình công ty
cổ phần hoạt động trong cơ chế thị trường. Việc nghiên cứu là cơ sở để khắc phục
những tồn tại, nhằm hoàn thiện hơn công tác quản trị tài chính tại Công ty
Thứ ba, đề tài đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những nhược điểm
cơ bản của hoạt động quản trị tài chính tại Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi,
qua đó củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
một cách căn bản và lâu dài để tối đa hoá giá trị tài sản của cổ đông
5. Phương pháp nghiên cứu
* Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận chung về tài chính doanh
nghiệp, quản trị tài chính
* Phương pháp thống kê, mô tả nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực

trạng tình hình quản trị tài chính nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về công tác quản
trị tài chính tại Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi
* Phương pháp lịch sử nhằm đối chiếu, so sánh các số liệu, thông tin trong
quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân và có các định hướng phù hợp.


4

6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
nội dung đuợc chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị tài chính tại Công ty Cổ phần
Đường Quảng Ngãi
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính tại Công ty Cổ
phần Đường Quảng Ngãi


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1 Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Tài chính nói chung là hoạt động liên quan đến việc hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế,
là một phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải
có một lượng vốn tiền tệ nhất định, đó là một tiền đề cần thiết. Quá trình hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng
các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các vốn tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình
thức giá trị tức là các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp, có những quan hệ tài chính sau:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: mối quan hệ này
thường thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm nguồn tài trợ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh; từ ngân hàng thông qua việc vay vốn, từ công chúng thông qua
phát hành trái phiếu, cổ phiếu, từ các định chế tài chính khác
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước: được thể hiện qua việc nhà nước
cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động (đối với các doanh nghiệp nhà nước) và doanh
nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước như nộp các khoản thuế và
lệ phí v.v...
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp đối với các chủ thể kinh tế khác như quan
hệ về mặt thanh toán trong việc vay và cho vay vốn, đầu tư vốn, mua hoặc bán tài
sản, vật tư, hàng hoá và các dịch vụ khác.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, được thể hiện trong doanh nghiệp như
thanh toán tiền lương, tiền công đối với công nhân viên của doanh nghiệp; quan hệ thanh


6

toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp; phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh
nghiệp; việc phân chia lợi tức cho các cổ đông; hình thành các quỹ của doanh nghiệp...
Từ những vấn đề trên có thể rút ra: Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của
hệ thống tài chính trong nền kinh tế, chính là qúa trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền
tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
1.2 Khái niệm về quản trị tài chính trong công ty cổ phẩn
Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh là một trong những điều kiện
tiên quyết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách nhịp nhàng,

đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Sự lành mạnh đó có được hay không phụ thuộc phần lớn
vào khả năng quản trị tài chính của doanh nghiệp. Hiện nay có khá nhiều quan điểm
khác nhau về quản trị tài chính do cách tiếp cận khác nhau, dưới đây là một số quan
điểm về quản trị tài chính:
Quản trị tài chính là các hoạt động nhằm phối trí các dòng tiền tệ trong
doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Quản trị tài chính là một
trong các chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Chức năng quản trị tài chính
có mối liên hệ mật thiết với các chức năng khác của quản trị doanh nghiệp như:
Chức năng quản trị sản xuất, chức năng quản trị marketing, chức năng quản trị
nguồn nhân lực [4, tr.22]
Có một khái niệm khác lại định nghĩa: Quản trị tài chính trong công ty cổ
phần (CTCP) là một quá trình quản lý trong đó nhà quản trị tài chính xử lí các thông
tin liên quan đến môi trường tài chính và môi trường nội bộ của công ty, giải quyết
một cách đúng đắn các mối quan hệ tài chính phát sinh trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đưa ra các quyết định tài chính nhằm tối đa hoá giá trị công ty [7,tr.18]
Và có quan niệm lại cho rằng: Quản trị tài chính trong CTCP là hoạt động
liên quan đến việc đầu tư, mua sắm, tài trợ và quản lý tài sản doanh nghiệp nhằm
đạt mục tiêu đề ra. Qua định nghĩa này có thể thấy quản trị tài chính liên quan đến
ba loại quyết định chính: quyết định đầu tư, quyết định nguồn vốn, và quyết định
phân phối lợi nhuận làm ra sao cho có lợi nhất cho cổ đông [3,tr.22]


7

Các khái niệm về quản trị tài chính trình bày ở trên có những quan điểm khác
nhau nhưng từ những khái niệm trên ta có thể rút ra:
- Quản trị tài chính là một bộ phận của quản trị doanh nghiệp được hình
thành để nghiên cứu, phân tích và xử lý các mối quan hệ tài chính nảy sinh trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Nội dung chủ yếu của hoạt động quản trị tài chính trong CTCP là lựa

chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm
đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính có quan hệ chặt chẽ với các chức năng khác của quản trị
doanh nghiệp và giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quản trị doanh nghiệp. Hầu hết
mọi quyết định khác đều dựa trên những kết quả rút ra từ những đánh giá về mặt tài
chính trong quản trị tài chính doanh nghiệp.
Để đương đầu với những thách thức trong kinh doanh, các hoạt động của
doanh nghiệp phải được đặt trên cơ sở nền tảng của công tác hoạch định. Công tác
này thường có hai mức: cấp chiến lược và cấp chiến thuật. Hoạch định chiến lược
phải xác định mục tiêu kinh doanh, các hoạt đông dài hạn nhằm phát triển doanh
nghiệp và chính sách tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ: việc quyết định đưa ra thị
trường sản phẩm mới vào một thời điểm nào đó, việc tham gia liên doanh, việc sử
dụng vốn cổ phần của công ty thay vì sử dụng nguồn vốn vay để tài trợ cho hoạt
động kinh doanh, việc quyết định phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn góp...
đều là những quyết định có tính chiến lược. Về mặt chiến thuật, phải xác định
những công việc tác nghiệp trong thời hạn ngắn để phục vụ cho kế hoạch chiến lược
của doanh nghiệp. Ví dụ việc đưa ra những quyết định thay thế một tài sản cố định
mới, việc lựa chọn địa điểm thuê cửa hàng, việc xem xét giữa đi thuê hay mua một
căn nhà, xem xét giá cả của hàng hoá lúc mới bán ra ở thời điểm đầu vụ, việc hạ giá
theo mùa... đều là những quyết định về mặt chiến thuật.
Phân tích tài chính là trọng tâm của cả hoạch định chiến lược và chiến thuật.
Hoạch định chiến lược là công việc của các quản trị gia hàng đầu như các thành
viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc điều hành, Giám đốc tài chính, Giám đốc


8

sản xuất và các quản trị gia cấp cao khác. Mặc dù có sự tham gia phục vụ cho việc
hoạch định của rất nhiều người, thuộc nhiều bộ phận khác nhau như các kế toán
viên, kỹ sư, các chuyên gia marketing...song, các kế hoạch được lựa chọn chủ yếu

dựa trên cơ sở của những cân nhắc về mặt tài chính
Đối với những kế hoạch chiến thuật, chúng cũng được áp dụng dựa trên cơ
sở của sự lựa chọn về mặt tài chính
Như vậy, các quyết định về mặt chiến lược và chiến thuật đều được lựa chọn
chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích, cân nhắc về mặt tài chính. Hay nói cách khác
quản trị tài chính có mối quan hệ tương hổ và giữ vị trí hàng đầu với các chức năng
quản trị khác, cụ thể quản trị tài chính giữ vai trò giám sát, kiểm tra, hổ trợ và điều
chỉnh các hoạt động quản trị khác như quản trị bán hàng, quản trị sản xuất, quản trị
nhân sự, quản trị marketing...
1.3 Mục tiêu và đặc điểm của quản trị tài chính trong công ty cổ phần
1.3.1 Mục tiêu của quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Để đánh giá quản trị tài chính có hiệu quả hay không chúng ta cần có chuẩn
mực nhất định. Chuẩn mực để đánh giá hiệu quả quản trị tài chính ở đây chính là
mục tiêu mà công ty đề ra. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tiêu biểu của
CTCP đã cho thấy quyền lợi của cổ đông chi phối các mục tiêu quản lý doanh
nghiệp. Mục tiêu cơ bản của hoạt động quản lý được xác định bởi HĐQT, những
người đại diện cho quyền lợi của chủ sở hữu công ty, cho nên chẳng có gì phải bàn
cải nếu họ cho rằng nhiệm vụ của Ban quản lý công ty là tối đa hoá sự giàu có của
cổ đông. Trong lý thuyết quản trị tài chính hiện đại, quyết định của nhà quản trị tài
chính phải nhằm đến mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Giá trị của
cổ đông được tăng tối đa bằng cách tăng tối đa khoản chênh lệch giữa giá trị thị
trường của toàn bộ cổ phiếu và lượng vốn chủ do cổ đông cung cấp. Khoản chênh
lệch này chính là giá trị thị trường tăng thêm (Market Value Added –MVA)
MVA = Giá trị thị trường cổ phiếu - Vốn chủ do cổ đông cung cấp
= ( Số cổ phiếu lưu hành x Giá trị thị trường) - Tổng vốn cổ phần thường


9

Trên thực tế, giá trị thị trường của cổ phiếu thường phản ánh sự đánh giá của

thị trường về các quyết định đầu tư, tài trợ và quản trị tài sản của công ty. Giá trị thị
trường tính đến cả thu nhập hiện tại và thu nhập kỳ vọng của cổ phiếu, thời gian,
thời hạn và rủi ro của các dòng thu nhập, chính sách cổ tức của công ty cũng như
các nhân tố khác liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu.
Hay nói cách khác, giá trị thị trường của cổ phiếu biểu diễn đánh giá chung
của tất cả những người tham gia trên thị trường về giá trị của một công ty cụ thể.
Giá trị thị trường đánh giá sự thành công của một quyết định kinh doanh, là thước
đo về hiệu quả kinh doanh, nó cho biết các nhà quản trị đang hoạt động hữu hiệu và
hiệu quả như thế nào vì các cổ đông của họ. Do đó, tối đa hoá giá trị thị trường của
cổ phiếu cũng chính là tối đa hoá giá trị thị trường của công ty và được xem là mục
tiêu bao quát nhất của hoạt động quản trị tài chính trong CTCP
1.3.2 Đặc điểm của quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Đặc điểm của CTCP là có sự tách rời giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Sự
tách rời quyền sở hữu khỏi việc điều hành đã mang lại cho hoạt động quản trị tài
chính trong CTCP một số điểm khác biệt so với hoạt động quản trị tài chính trong
các doanh nghiệp khác như:
-

Tồn tại sự mâu thuẫn giữa cổ đông và nhà quản lý trong hoạt động quản trị

tài chính CTCP
Tình huống này có thể xảy ra khi nhà quản lý sở hữu một tỷ lệ cổ phần
khiêm tốn trong doanh nghiệp mà họ quản lý, các giám đốc có thể không làm việc
hết mình vì lợi ích của cổ đông bởi vì họ chỉ nhận được một phần nhỏ từ lợi nhuận
công ty chia cho cổ đông (tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà quản lý). Họ
có thể muốn có lương và bổng lộc cao hơn bởi vì phần lớn chi phí này sẽ do cổ
đông bên ngoài gánh chịu. Một mâu thuẫn quyền lợi tiềm ẩn nữa cổ đông và các
nhà quản lý công ty có thể nảy sinh là khi các nhà quản lý thu xếp các khoản vay để
mua lại hết cổ phiếu của công ty khi họ nắm chắc tiềm năng phát triển của công ty
trong tương lai và muốn giành quyền kinh doanh của công ty, biến CTCP công cộng



10

thành CTCP nội bộ hay công ty tư nhân thuộc sở hữu của một vài cá nhân trong Ban
quản lý
Để khắc phục những mâu thuẫn này, một cơ chế ràng buộc được vận dụng để
các giám đốc điều hành công ty vì lợi ích của cổ đông hay chủ sở hữu như: Nhà
quản lý sẽ bị sa thải hay phải bồi thường tổn thất tài chính khi không hoàn thành các
mục tiêu đề ra; (2) Nguy cơ CTCP bị nuốt chửng bởi các đối thủ cạnh tranh, bị phá
sản hay bị sát nhập, trong trường hợp đó họ cũng bị mất việc làm và các quyền lợi
tương ứng; (3) Cơ chế trả thù lao cho nhà quản lý sao cho lợi ích của nhà quản lý
gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Chế độ khuyến khích bao
gồm tiền lương, tiền thưởng phần trăm trên mức vượt của lợi nhuận kiếm được so
với lợi nhuận kế hoạch , thưởng bằng quyền chọn mua cổ phiếu công ty, và những
lợi ích khác mà giám đốc có thể thừa hưởng nhằm hạn chế phần nào sự chênh lệch
hướng trong điều hành quản lý công ty của Ban quản lý và Hội đồng Quản trị có thể
làm phương hại đến lợi ích của các cổ đông
- Công khai hóa thông tin tài chính - kế toán là một nguyên tắc quản lý bắt
buộc trong hoạt động quản trị tài chính của CTCP, đặc biệt là các CTCP đại chúng
niêm yết
CTCP là một loại hình tổ chức doanh nghiệp trong đó quyền sở hữu và
quyền quản lý tách rời nhau nên thông tin về tình hình hoạt động của công ty nói
chung và tình hình tài chính của công ty nói riêng dễ bị bưng bít, bóp méo ảnh
hưởng đến việc xác lập giá trị của công ty trên thị trường chứng khoán, ảnh hưởng
quan trọng đến quyết định đầu tư của công chúng, lúc đó không chỉ riêng các nhà
đầu tư bị thiệt hại mà còn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của cả nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của công chúng đầu tư, luật
pháp qui định cổ đông có quyền được thông báo về tình hình tài chính của công ty
thường xuyên và khi có nhu cầu.

1.4 Nội dung quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Để đạt được các mục tiêu của quản trị tài chính thì các nhà quản trị tài chính
cần phải hiểu và nắm vững được các nội dung cơ bản của quản trị tài chính. Các nội


11

dung cơ bản của quản trị tài chính trong CTCP như sau:
Thứ nhất: Tham gia xây dựng, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư và kế
hoạch kinh doanh.
Việc xây dựng, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư do nhiều bộ phận trong
doanh nghiệp cùng phối hợp thực hiện. Trên góc độ tài chính, điều chủ yếu cần phải
xem xét là hiệu quả tài chính của dự án, tức là xem xét cân nhắc giữa chi phí bỏ ra,
những rủi ro có thể xảy ra và khả năng thu lợi nhuận khi thực hiện dự án. Việc phân
tích đánh giá nhằm lựa chọn được các dự án tối ưu, các dự án có tỷ lệ sinh lời cao là
nhiệm vụ của nhà quản trị tài chính. Trên cơ sở tham gia xây dựng, đánh giá, lựa
chọn các dự án đầu tư, các nhà quản trị tài chính cũng cần tìm ra định hướng phát
triển doanh nghiệp hiện tại cũng như trong tương lai.
Thứ hai: Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng
cho hoạt động của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn. Bước vào hoạt
động kinh doanh, hoạt động đầu tư, quản trị tài chính cần phải xác định các nhu cầu
vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp ở trong kỳ. Vốn hoạt động của
doanh nghiệp gồm có vốn dài hạn và vốn ngắn hạn để tài trợ hình thành các tài sản
ngắn hạn và dài hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động đầu
tư, điều quan trọng là nhà quản trị tài chính phải tổ chức huy động nguồn vốn đảm
bảo kịp thời, đầy đủ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Để đi đến việc quyết định
lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp nhà quản trị tài chính
cần xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt như kết cấu nguồn vốn, chi phí sử dụng vốn
từng thành phần vốn, những điểm lợi và bất lợi của từng hình thức huy động vốn,

trên có sở đó đưa ra quyết định huy động một cơ cấu vốn tối ưu, có chi phí sử dụng
vốn là thấp nhất.
Thứ ba: Tổ chức sử dụng tốt số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu,
chi, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp góp phần huy
động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, giải phóng các khoản vốn còn


12

bị ứ đọng. Theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thu hồi tiền bán hàng và các
khoản phải thu khác. Tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng giữa thu và chi bằng
tiền để đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán.
Thứ tư: Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ
của doanh nghiệp.
Thực hiện việc phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử
dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển
doanh nghiệp và cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh, là một chỉ tiêu mà doanh
nghiệp phải đặc biệt quan tâm vì nó có liên quan đến sự tồn tại, phát triển mở rộng
của doanh nghiệp. Không thể nói doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt, hiệu quả
cao khi lợi nhuận của doanh nghiệp giảm qua các kỳ sau khi loại trừ các nhân tố
ảnh hưởng khách quan làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp ví dụ như sự thay đổi
chính sách khấu hao tài sản của doanh nghiệp… Doanh nghiệp cần có phương án
tối ưu trong việc phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ như thế mới có thể đạt
được mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ năm: Đảm bảo kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt
động và thực hiện tốt hoạt động phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày, tình hình thực hiện các chỉ
tiêu tài chính cho phép thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt động của

doanh nghiệp. Mặt khác định kỳ cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính
doanh nghiệp thông qua hệ thống chỉ số tài chính trên có sở đó cho phép nhà quản
trị đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra những quyết định
đúng đắn về mặt sản xuất kinh doanh và tài chính, xây dựng được một kế hoạch tài
chính khoa học đảm bảo mọi tài sản và mọi nguồn tài chính của doanh nghiệp được
sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
1.5 Chức năng của quản trị tài chính trong công ty cổ phần
Qua xem xét nội dung quản trị tài chính cho thấy quản trị tài chính bao gồm


13

các hoạt động liên quan đến: xây dựng kế hoạch tài chính; lựa chọn và đưa ra các
quyết định tài chính đúng đắn, tổ chức thực hiện những quyết định đó một cách kịp
thời và khoa học (quyết định đầu tư, quyết định tài trợ và quyết định phân phối); và
kiểm tra, kiểm soát thường xuyên quá trình thực hiện các quyết định tài chính. Như
vậy, chức năng của quản trị tài chính có thể chia làm 3 nhóm chức năng: hoạch định
tài chính; đưa ra các quyết định tài chính và tổ chức thực hiện các quyết định tài
chính đó; và kiểm soát tài chính
1.5.1 Hoạch định tài chính
Hoạch định tài chính là quá trình phát triển các kế hoạch tài chính ngắn hạn
cũng như dài hạn nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Các kế hoạch tài
chính có đặc trưng cơ bản là được trình bày bằng đơn vị đo lường chung là tiền tệ.
Vì vậy, hệ thống kế hoạch tài chính đóng vai trò quan trọng, then chốt trong việc lập
kế hoạch và kiểm soát của các doanh nghiệp. Các kế hoạch của doanh nghiệp xác
định mục tiêu và những hành động cần thực hiện để đạt được mục tiêu. Hoạch định
tài chính thông qua hệ thống các ngân sách với khả năng sử dụng đơn vị chung sẽ
dễ dàng lượng hoá các mục tiêu, cụ thể hoá, và tổng hợp việc sử dụng các nguồn
lực. Do vậy, ngân sách cũng được sử dụng cho mục tiêu kiểm soát, trong đó thiết

lập các tiêu chuẩn, tiếp nhận các thông tin phản hồi về hiệu suất thực tế và thực hiện
các hành động điều chỉnh nếu hiệu suất thực tế lệch nhiều so với hiệu suất kế hoạch
1.5.1.1 Mục tiêu của hoạch định tài chính
Các ngân sách thường được xây dựng cho các bộ phận trong tổ chức (phòng
ban, xí nghiệp, đơn vị, v.v...) và cho các hoạt động (bán hàng, sản xuất, nghiên
cứu,..). Hệ thống các ngân sách này phục vụ cho kế hoạch tài chính của toàn tổ chức
và đem lại cho tổ chức nhiều lợi ích, cụ thể bao gồm:
-

Thúc đẩy các nhà quản trị lập kế hoạch,

-

Cung cấp các nguồn thông tin để cải thiện việc ra quyết định,

-

Giúp ích cho việc sử dụng các nguồn lực và quản lý nhân sự thông qua
việc thiết lập tiêu chuẩn đánh giá hiệu suất,

-

Cải thiện vấn đề truyền thông và hợp tác


14

Hoạch định thúc đẩy các nhà quản trị lập kế hoạch cho tương lai – phát triển
định hướng chung cho toàn tổ chức, dự đoán trước các vấn đề và xây dựng chính
sách cho tương lai. Khi các nhà quản trị dành thời gian cho việc lập kế hoạch, họ sẽ

nhận ra các năng lực của tổ chức và biết được nên sử dụng các nguồn lực của tổ
chức vào vị trí nào
Lập kế hoạch tài chính giúp các nhà quản trị ra quyết định tốt hơn. Chẳng
hạn, ngân sách quỹ cho biết khả năng thiếu hụt tiền mặt trong tương lai. Nếu công
ty nhìn thấy trước khả năng thiếu hụt tiền mặt thì họ có thể cải thiện hoạt động thu
nợ từ khách hàng, hoặc trì hoãn kế hoạch mua tài sản mới...
Ngân sách lập ra các tiêu chuẩn mà nhờ đó có thể kiểm soát việc sử dụng các
nguồn lực của công ty cũng như kiểm soát, thúc đẩy nhân viên. Kiểm soát là nền
tảng cho sự thành công của hệ thống ngân sách, nó đảm bảo các hoạt động được
thực hiện để đạt mục tiêu mà tổ chức đã vạch ra trong kế hoạch tổng quát
Ngân sách cũng phục vụ cho việc truyền thông các kế hoạch của tổ chức đến
từng nhân viên và kết hợp các nỗ lực của họ lại với nhau. Theo đó, tất cả các nhân
viên có thể hiểu được vai trò của họ trong việc đạt được các mục tiêu chung. Đây là
lý do vì sao việc kết nối chặt chẽ giữa ngân sách với các kế hoạch dài hạn lại quan
trọng như vậy. Các ngân sách thúc đẩy vì sự hợp tác vì các lĩnh vực và các chức
năng khác nhau trong tổ chức đều phải cùng làm việc để đạt mục tiêu đề ra. Vai trò
của truyền thông và hợp tác trở nên càng quan trọng khi tổ chức phát triển mạnh
hơn nữa về quy mô
1.5.1.2 Các loại kế hoạch tài chính
Lập kế hoạch tài chính là tiến trình xem xét các tác động tổng thể các quyết
định đầu tư và tài trợ mà kết quả là các kế hoạch tài chính. Hệ thống kế hoạch tài
chính bao gồm:
• Kế hoạch dài hạn biểu hiện dưới dạng kế hoạch đầu tư và tài trợ:
Kế hoạch đầu tư và tài trợ là một dự tính về việc sử dụng vốn và khai thác
các nguồn vốn theo từng năm tài khoá trong phạm vi từ 3 đến 5 năm. Kế hoạch đầu
tư và tài trợ là tổng hợp các chương trình dự kiến của công ty. Trên thực tế, kế


15


hoạch này thường đi đôi với kế hoạch trung và dài hạn nhằm thực hiện kế hoạch
chiến lược. Mục đích chủ yếu của kế hoạch đầu tư và tài trợ là đảm bảo duy trì sự
cân đối tài chính. Do vậy, nó thể hiện tính mạch lạc trong việc phối trí các chương
trình kinh doanh và phát triển của công ty. Trong trường hợp phải thương lượng với
những người cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn, công ty phải dựa trên cơ sở kế
hoạch này vì các ngân hàng cho vay sẽ yêu cầu công ty cung cấp kế hoạch đầu tư và
tài trợ để họ xem xét việc cho vay vốn
• Ngân sách hàng năm:
Dự toán ngân sách được xây dựng hàng năm phản ánh các hoạt động trong
năm dưới hình thái tiền tệ trên cơ sở các khoản thu và chi theo từng lĩnh vực và hoạt
động. Có thể chia thành bốn loại ngân sách hằng năm bao gồm:
- Ngân sách đầu tư thể hiện hoạt động mua sắm đầu tư thiết bị trong năm.
Ngân sách này thường là sự cụ thể hoá hoạt động đầu tư được thể hiện sẵn trong kế
hoạch đầu tư và tài trợ
- Ngân sách tài chính thể hiện các hoạt động liên quan đến việc tăng giảm
vốn như vay, phát hành cổ phiếu, trả cổ tức hoặc hoàn vốn, mua lại cổ phiếu...
- Ngân sách kinh doanh là một bộ phận các ngân sách liên quan đến hoạt
động kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp. Đây là những bộ phận ngân sách rất
quan trọng trong quá trình xây dựng kế hoạch tài chính của mỗi doanh nghiệp.
Ngân sách kinh doanh gồm ngân sách bán hàng và ngân sách sản xuất.
+ Ngân sách bán hàng thể hiện những dự kiến về doanh thu phân theo khu
vực, và sản phẩm dịch vụ, chi phí bán hàng. Ngân sách này xây dựng trên cơ sở
những dự đoán về thị trường, tình hình cạnh tranh, các chính sách bán hàng của
doanh nghiệp và sự phát triển mạng lưới bán hàng. Ngân sách này là cơ sở cho ngân
sách hoạt động Marketing, ngân sách sản xuất, ngân sách nhân sự.
+ Ngân sách sản xuất xác định phần chi phí cần thiết cho các hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu và dự trữ
- Ngân sách ngân quỹ là kết quả của các ngân sách trên, nó phản ánh luồng
thu chi bằng tiền của công ty qua từng tháng trong năm. Đây là công cụ không thể



16

thiếu đối với nhà quản trị tài chính trong việc xác định nhu cầu vốn bằng tiền trong
ngắn hạn để từ đó, lập kế hoạch tài trợ ngắn hạn
Cuối cùng, từ các ngân sách trên, các nhà lập kế hoạch sẽ lập dự toán báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dự toán bảng cân đối kế toán
1.5.1.3 Các phương pháp lập kế hoạch tài chính
Căn cứ lập kế hoạch tài chính: kế hoạch tài chính vừa đặt ra mục tiêu, vừa là
các kế hoạch biện pháp và đồng thời vừa có tính tổng hợp. Do đó, kế hoạch tài
chính được xây dựng phải dựa trên các yếu tố sau đây:
+ Kế hoạch mục tiêu trong năm của công ty,
+ Các thông tin dự đoán từ các bộ phận Marketing và mua sắm,…
+ Hệ thống các chính sách, hướng dẫn lập kế hoạch…
+ Đặc điểm về dòng dịch chuyển tiền tệ của doanh nghiệp
Việc lập các kế hoạch tài chính có thể thực hiện bằng cách tổng hợp các
chưong trình hay triển khai thực hiện các mục tiêu thông qua việc sử dụng nguồn
lực trên phưong diện tiền tệ hoặc cả hai. Về mặt phương pháp luận, chúng ta có thể
thực hiện điều này bằng hai cách tiếp cận chủ yếu: quy nạy hay diễn giải
Phương pháp quy nạp: với giả thiết cho rằng kế hoạch tài chính là sự tổng
hợp tất cả các chương trình hoạt động của từng bộ phận, từng cấp trong công ty,
việc lập kế hoạch tài chính sẽ thể hiện từ dưới lên, trên cơ sở hệ thống các ngân
sách bộ phận
Phương pháp diễn giải: phương pháp này cho rằng kế hoạch tài chính là sự
chuẩn bị những điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu. Vì vậy, việc lập kế hoạch tài
chính xuất phát từ những mục tiêu tổng quát, ở cấp cao hay từ yêu cầu của các cổ
đông, sau đó, cụ thể hoá thành những ngân sách ở các bộ phận nhằm thực hiện mục
tiêu. Quá trình diễn giải này được kiểm tra lại trên cơ sở tính hợp lý và cân đối giữa
các chương trình
1.5.2 Các quyết định tài chính chủ yếu

Trên cơ sở hoạch định tài chính, các nhà quản trị tài chính sẽ quyết định tổ
chức thực hiện các kế hoạch tài chính. Các quyết định tài chính chủ yếu mà nhà


17

quản trị phải lựa chọn và tổ chức thực hiện là: quyết định đầu tư, quyết định tài trợ
và quyết định phân phối
1.5.2.1 Quyết định đầu tư
Quyết định đầu tư là những quyết định liên quan đến: (1) tổng giá trị tài sản
và giá trị từng bộ phận tài sản (tài sản lưu động và tài sản cố định) cần có và (2) mối
quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp. Cụ thể, có thể liệt kê
một số quyết định về đầu tư như sau:
• Quyết định đầu tư tài sản lưu động, bao gồm: Quyết định tồn quỹ, quyết
định tồn kho và quyết định chính sách bán chịu hàng hóa, quyết định đầu tư tài
chính ngắn hạn
• Quyết định đầu tư tài sản cố định, bao gồm: Quyết định mua sắm tài sản
cố định mới, quyết định thay thế tài sản cố định cũ, quyết định đầu tư dự án, quyết
định đầu tư tài chính dài hạn
• Quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư tài sản lưu động và đầu tư tài sản
cố định, bao gồm: Quyết định sử dụng đòn bẩy hoạt động, quyết định điểm hòa vốn
Quyết định đầu tư được xem là quyết định quan trọng nhất trong các quyết
định tài chính công ty vì nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp (Hawawini & Vialiet,
2002). Một quyết định đầu tư đúng sẽ góp phần làm gia tăng giá trị doanh nghiệp,
qua đó, gia tăng tài sản cho chủ sở hữu. Ngược lại, một quyết định đầu tư sai sẽ làm
tổn thất giá trị công ty, do đó, làm thiệt hại tài sản cho chủ sở hữu công ty
1.5.2.2 Quyết định tài trợ
Quyết định tài trợ gắn liền với việc quyết định nên lựa chọn loại nguồn vốn
nào cung cấp cho việc mua sắm tài sản, nên sử dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay,
nên dùng vốn ngắn hạn hay vốn dài hạn. Ngoài ra, quyết định nguồn vốn còn xem

xét mối quan hệ giữa lợi nhuận để lại tái đầu tư và lợi nhuận được phân chia dưới
hình thức cổ tức. Một khi sự lựa chọn giữa nguồn vốn vay hay nguồn vốn chủ sở
hữu, sử dụng nguồn vốn vay ngắn hạn hay vốn vay dài hạn, hoặc lựa chọn giữa lợi
nhuận để lại và lợi nhuận phân chia đã được quyết định, thì bước tiếp theo nhà quản


18

trị còn phải quyết định làm thế nào để huy động được các nguồn tài trợ đó. Cụ thể
có thể liệt kê một số quyết định về nguồn vốn như sau:
• Quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn, bao gồm: Quyết định vay
ngắn hạn hay là sử dụng tín dụng thương mại, quyết định vay ngắn hạn ngân hàng
hay là phát hành tín phiếu công ty
• Quyết định huy động nguồn vốn dài hạn, bao gồm: Quyết định sử dụng
nợ dài hạn hay là vốn cổ phần, quyết định vay dài hạn ngân hàng hay là phát hành
trái phiếu công ty, quyết định sử dụng vốn cổ phần phổ thông hay là sử dụng nợ dài
hạn, quyết định sử dụng vốn cổ phần phổ thông hay là vốn cổ phần ưu đã
• Quyết định quan hệ cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu (đòn bẩy tài chính)
• Quyết định vay để mua hay thuê tài sản
Trên đây là những quyết định liên quan đến quyết định tài trợ trong hoạt
động của công ty. Để có được một quyết định đúng đắn là một thách thức không
nhỏ đối với những người phải ra quyết định, nếu như thiếu hiểu biết về việc sử dụng
các công cụ phân tích trước khi ra quyết định
1.5.2.3 Quyết định phân phối
Quyết định về phân chia lợi nhuận hay còn gọi là chính sách cổ tức. Trong
loại quyết định này giám đốc tài chính sẽ phải lựa chọn giữa việc sử dụng lợi nhuận
sau thuế để chia cổ tức hay là giữ lại để tái đầu tư. Ngoài ra, giám đốc tài chính cần
phải quyết định xem doanh nghiệp nên theo chính sách cổ tức nào và liệu chính
sách cổ tức có tác động gì đến giá trị của doanh nghiệp hay giá cổ phiếu trên thị
trường của doanh nghiệp hay không.

• Tỷ lệ trả cổ tức: Hiện nay, hầu hết các CTCP khi công bố các thông tin
về cổ tức, đều công bố chi trả cổ tức hàng năm theo một con số tỷ lệ nhất định tính
trên mệnh giá. Ví dụ công ty A công bố tỷ lệ chi trả cổ tức là là 20%. Với mệnh giá
của cổ phiếu là 10.000 đồng, tức là mỗi cổ phiếu nhận được cổ tức là 10.000 x 20%
= 2.000 đồng. Cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận được tiền cổ tức là 100 x 2.000
= 200.000 đồng.
• Tỷ lệ lợi nhuận trả cổ tức: được xác định bằng cổ tức trên mỗi cổ phần


19

chia cho lợi nhuận trên mỗi cổ phần (DPS / EPS). Nó phản ánh số cổ tức mà công
ty chi trả so với lợi nhuận mà công ty tạo ra trong năm. Nó cho thấy công ty dùng
lợi nhuận tạo ra để phần lớn để chia cổ tức hay dùng để tài đầu tư.


Hình thức chi trả cổ tức:

Các CTCP niêm yết hiện nay, thường chia cổ tức làm thành 2 đợt:
- Đợt 1 (thường là vào tháng 7, tháng 8): sau khi công ty có kết quả kinh
doanh 6 tháng đầu năm thường tạm ứng cổ tức cho các cổ đông dựa vào chỉ tiêu kế
hoạch và kết quả thực tế đã đạt được.
- Đợt 2 (thường là vào tháng 3, tháng 4 năm sau): đây là thời điểm sau khi
kết thúc năm tài chính, công ty có kết quả của kiểm toán và công bố kết quả hoạt
động SXKD của cả năm. Các công ty tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và thông
qua việc phân chia lợi nhuận, cổ tức.
• Một số chính sách cổ tức:
- Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động
Công ty nên giữ lại lợi nhuận khi công ty có các cơ hội đầu tư hứa hẹn các tỷ
suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi các cổ đông đòi hỏi.

Công ty theo chính sách này sẽ có mức độ chi trả cổ tức thay đổi từ năm này
sang năm khác tùy thuộc vào các cơ hội đầu tư có sẵn.
Trong thực tiễn, các công ty thường cố gắng duy trì mức độ chi trả cổ tức
tương đối ổn định qua các năm. Các công ty sẽ giữ lại lợi nhuận để lại với tỷ lệ khá
cao trong những năm có nhu cầu vốn cao. Khi công ty tiếp tục tăng trưởng, công ty
có thể tiếp tục theo đuổi chính sách này
Chính sách này áp dụng cho những công ty tăng trưởng có tỷ lệ chi trả thấp
hơn các công ty trong giai đoạn sung mãn.
- Chính sách cổ tức tiền mặt ổn định
Các công ty và các cổ đông thích chính sách cổ tức tương đối ổn định.
Các cổ đông thường miễn cưỡng chấp nhận việc giảm cổ tức qua các năm vì
luôn muốn ổn định nguồn thu nhập. Ngược lại công ty thường trì hoãn gia tăng cổ
tức khi các khoản lợi nhuận trong tương lai đủ cao để tăng mức chi trả cổ tức. Tỷ lệ


20

cổ tức có khuynh hướng đi sau sự gia tăng lợi nhuận.
Các cổ đông thường thích mức chi trả cổ tức ổn định. Cổ đông cho rằng khi
thay đổi mức chi trả cổ tức thường hàm chứa một số thông tin nào đó. Cắt giảm cổ
tức được cho là tiềm năng về lợi nhuận của công ty sụt giảm. Tương tự gia tăng lợi
nhuận nghĩa là dự kiến lợi nhuận trong tương lai của công ty gia tăng. Ngoài ra
nhiều cổ đông thường xem cổ tức là dòng thu nhập ổn định. Vì thế công ty cho rằng
nhà đầu tư sẽ trả giá cao hơn cho cổ phiếu có cổ tức ổn định.
- Các chính sách khác
Chính sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không đổi: công ty chấp nhận một chính
sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không đổi. Nếu lợi nhuận của công ty thay đổi nhiều từ
năm này sang năm khác thì cổ tức cũng dao động theo.
Chính sách trả cổ tức nhỏ hàng quý cộng với cổ tức thưởng thêm cuối năm:
Chính sách này đặc biệt thích hợp cho những doanh nghiệp có lợi nhuận hoặc nhu

cầu tiền mặt biến động giữa năm này với năm khác, hoặc cả hai. Ngay cả khi doanh
nghiệp có mức lợi nhuận thấp, các nhà đầu tư vẫn có thể trông cậy vào một mức chi
trả cổ tức đều đặn của họ; còn khi lợi nhuận cao và không có nhu cầu sử dụng ngay
nguồn tiền dôi ra này, các doanh nghiệp sẽ công bố một mức cổ tức thưởng cuối
năm. Chính sách này giúp ban điều hành có thể linh hoạt giữ lại lợi nhuận khi cần
mà vẫn thỏa mãn được nhu cầu của các nhà đầu tư là muốn nhận được một mức cổ
tức “bảo đảm”.
1.5.2.4 Các quyết định khác
Ngoài ba loại quyết định chủ yếu vừa nêu trên, còn có nhiều loại quyết định
khác liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty, có thể liệt kê ra như là quyết
định hình thức chuyển tiền, quyết định phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động
kinh doanh đối ngoại, quyết định tiền lương hiệu quả, quyết định tiền thưởng bằng
quyền chọn...
1.5.3 Kiểm soát tài chính
1.5.3.1 Nội dung kiểm soát tài chính
Theo khoa học quản trị thì thường có hai tầng kiểm soát trong CCTP. Kiểm


21

soát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty và kiểm soát của người quản lý
công ty đối với toàn bộ hoạt động trong phạm vi mình quản lý. Ở tầng thứ nhất, đại
hội đồng cổ đông, cơ quan quyền lực cao nhất của CTCP, bầu ra ban kiểm soát. Ban
kiểm soát này có nhiệm vụ kiểm soát tất cả những hoạt động của hội đồng quản trị
(HĐQT). Nếu phát hiện HĐQT có hành vi sai trái, ban kiểm soát sẽ báo cáo đại hội
đồng cổ đông để cơ quan này xử lý, kể cả cách chức, miễn nhiệm HĐQT.
Đến lượt mình, HĐQT cũng bầu ra một ban kiểm soát để giám sát hoạt động
của tổng giám đốc, trong đó có hai hoạt động quan trọng là hoạt động tài chính và
việc thực thi chiến lược, nghị quyết của HĐQT…Tuy nhiên, ở Việt Nam, phần lớn
ở các CTCP, chủ tịch HĐQT kiêm luôn tổng giám đốc nên việc lập ra ban kiểm soát

thứ hai này là không cần thiết. Trong trường hợp như vậy, ban kiểm soát của đại hội
đồng cổ đông không chỉ có bổn phận giám sát HĐQT mà còn nhận thêm nhiệm vụ
kiểm soát hoạt động của tổng giám đốc.
Ở tầng kiểm soát tiếp theo, để giám sát hoạt động của cấp dưới, tổng giám
đốc cũng lập ra một bộ phận kiểm soát nội bộ mà các thành viên trong đó được gọi
là kiểm toán viên nội bộ. Các kiểm toán viên nội bộ thay mặt tổng giám đốc có thể
kiểm tra bất cứ ai, bất cứ bộ phận nào tại công ty. Công việc kiểm tra của họ chủ
yếu gồm ba loại: thứ nhất là kiểm soát việc tuân thủ (pháp luật nhà nước, quy chế
công ty), thứ hai là kiểm soát tài chính, và cuối cùng là kiểm soát hoạt động
Trong doanh nghiệp thì hoạt động kiểm soát tài chính giữ vị trí rất quan
trọng, hoạt động này không những được thực hiện dựa trên hệ thống kiểm soát nội
bộ mà còn được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức chuyên nghiệp bên ngoài cũng
như các cổ đông. Hoạt động kiểm soát tài chính nhằm đảm bảo tính chính xác của
các số liệu kế toán tài chính và tính minh bạch, hiệu quả của hoạt động quản trị tài
chính. Ngoài ra, hoạt động kiểm soát tài chính giúp công ty kịp thời điều chỉnh các
hoạt động bị chệch hướng, góp phần giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp cũng như
cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn và phát triển thị trường tài chính cho nền
kinh tế.
Có nhiều cơ chế kiểm soát tài chính, chúng ta chỉ tập trung vào ba cơ chế cơ


22

bản: phân tích tình hình tài chính, kế hoạch tài chính và kiểm soát chi phí hoạt động
• Phân tích tài chính:
Phân tích tài chính liên quan đến việc (1) so sánh hiệu suất của một công ty
với hiệu suất của các công ty khác trong ngành và (2) đánh giá các xu hướng về vị
thế tài chính của công ty theo thời gian. Những phân tích này giúp các nhà quản trị
xác định các khiếm khuyết và từ đó có những hành động phù hợp nhằm cải thiện
hiệu suất của doanh nghiệp

Kỹ thuật được sử dụng rộng rãi nhất là phân tích tỷ lệ. Phân tích tỷ lệ liên
quan đến việc chọn lựa hai số liệu quan trọng, biểu diễn mối quan hệ giữa chúng
như là một phân số và so sánh giá trị này cho hai giai đoạn khác nhau hoặc với cùng
tỷ lệ với tổ chức tương tự. Có rất nhiều tỷ lệ để so sánh, những tỷ lệ được sử dụng
nhiều nhất để so sánh là khả năng thanh toán, hiệu quả hoạt động, đòn bẩy tài chính
và khả năng sinh lợi
• Kế hoạch tài chính
Hoạch định tài chính thông qua hệ thống các ngân sách thường biểu diễn chi
phí bằng tiền của các công việc hoặc nguồn lực khác nhau. Ngân sách ngoài mục
đích hỗ trợ việc hoạch định công việc một cách hiệu quả, trợ giúp việc phân bổ
nguồn lực, còn trợ giúp trong việc kiểm soát và quản lý nguồn lực sử dụng trong
suốt giai đoạn ngân sách. Khi nhà quản trị phân chia chi phí bằng tiền cho các
nguồn lực cần thiết, thi thoảng họ phát hiện ra rằng các công việc đề nghị không
đáng giá như chi phí, khi đó họ có thể hiệu chỉnh hoặc bác bỏ đề nghị.
• Kiểm soát chi phí hoạt động
Kiểm soát chi phí hoạt động (ABC) là hệ thống tập trung vào các hoạt động
như là trung tâm chi phí. Ngược lại với hầu hết các cơ chế tài chính, ABC tập trung
vào các hoạt động công việc liên quan đến việc vận hành kinh doanh. Số lượng các
hoạt động này thường lệ thuộc vào tính phức tạp của hoạt động. Mức độ phức tạp
trong hoạt động của tổ chức càng lớn, các hoạt động phát sinh chi phí có khả năng
xảy ra càng lớn. Ở mức quan trọng tương tự, các nhà quản trị khám phá ra rằng


23

không phải tất cả sản phẩm có cùng những hoạt động này. Nếu một sản phẩm không
cần sử dụng một hoạt động, chi phí sẽ là không cho hoạt động đó.
1.5.3.2 Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Kiểm soát tài chính có thể thực hiện thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng
ngày, tình hình thực hiện các kế hoạch tài chính hay việc phân tích tình hình tài

chính định kỳ. Trong đó phân tích tình hình tài chính là công cụ hổ trợ chủ yếu cho
kiểm soát tài chính cũng như hoạch định tài chính và quá trình tổ chức thực hiện các
quyết định tài chính
Hoạch định là chìa khoá của sự thành công của nhà quản trị tài chính. Hoạch
định tài chính có thể mang nhiều hình thức khác nhau nhưng một kế hoạch tốt và có
hiệu quả trong việc điều hành hoạt động SXKD, thì kế hoạch đó, phải dựa trên
những điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Phải biết đâu là những ưu điểm để khai
thác và đâu là những nhược điểm để có biện pháp khắc phục. Điều này còn hàm
chứa rằng mọi kế hoạch kinh doanh và chiến lược phát triển của doanh nghiệp nếu
không dựa trên sự phân tích về hiện trạng tài chính doanh nghiệp sẽ thiếu thực tế và
khoa học.
Nội dung trên đã chỉ ra nhiệm vụ tổng quát của quản trị tài chính liên quan
đến việc ra các quyết định đầu tư, quyết định nguồn vốn và quyết định phân chia cổ
tức. Các quyết định này được thực hiện ở hiện tại nhưng sẽ ảnh hưởng đến tương lai
của doanh nghiệp. Do vậy, giám đốc tài chính cần hiểu được tình hình tài chính hiện
tại của doanh nghiệp trước khi ra quyết định. Muốn vậy, giám đốc tài chính có thể
thực hiện phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp có thể do bản thân doanh nghiệp
hoặc các tổ chức bên ngoài doanh nghiệp thực hiện. Với mục tiêu kiểm soát nội bộ,
phân tích tài chính giúp giám đốc tài chính đánh giá được hiệu quả trong công tác
quản trị tài sản và thu nhập trên đầu tư .
Từ những lập luận trên, cho thấy phân tích tình hình tài chính đóng vai trò
quan trọng và là một trong những nội dung chủ yếu mà nhà quản trị tài chính phải


24

thực hiện. Các tỷ số tài chính quan trọng trong việc thể hiện và đánh giá tình hình
tài chính của doanh nghiệp gồm:
a. Tỷ số thanh toán

Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rõ nét qua chỉ tiêu khả
năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, không có tình trạng
bị chiếm dụng vốn hoặc đi chiếm dụng vốn thì tình hình tài chính tương đối khả
quan và ngược lại. Do đó cần đi sâu phân tích các tỷ số thanh khoản nhằm giúp ta
thấy được khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của đơn vị. Các tỷ số thanh
toán bao gồm:
-

Tỷ số thanh toán hiện hành (Khh)

Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết mức độ các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các
Tỷ số thanh toán hiện hành (Khh) =

tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn
của các khoản nợ đó.
Khi giá trị của tỷ số này giảm có nghĩa là khả năng trả nợ của doanh nghiệp
giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm tàng. Ngược lại,
khi giá trị của tỷ số này cao hơn, có nghĩa là khả năng thanh toán nợ của doanh
nghiệp tăng, là dấu hiệu đáng mừng.
-

Tỷ số thanh toán nhanh (Knhanh)

Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho còn được gọi là tài sản quay vòng nhanh.
Knhanh =


Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, để đảm bảo tốt khả năng thanh toán của
doanh nghiệp thì tỷ số thanh toán nhanh duy trì ở mức tối thiểu là 1. Tuy nhiên, còn
phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
- Tỷ số thanh toán tức thời (Ktt)
Tiền
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán tức thời là hệ số thanh toán khắt khe nhất trong nhóm hệ số
Ktt =

thanh toán. Hệ số này bằng 1 chứng tỏ là doanh nghiệp có đủ lượng tiền để thanh


25

toán các khoản nợ ngắn hạn nếu cần thiết. Tuy nhiên hệ số này càng cao chưa chắc
đã tốt vì có thể doanh nghiệp không biết cách sử dụng khoản tiền mặt này sao cho
có hiệu quả để mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
b. Tỷ số đòn bẩy tài chính
Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ một công ty tài trợ cho hoạt động
kinh doanh của mình bằng vốn vay. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ lệ vốn vay trong cơ
cấu vốn có thể giúp cho hiệu suất sinh lời của vốn chủ sở hữu cao (ROE), nhưng điều
này có thể làm giảm mức độ an toàn tài chính. Do vậy, tỷ số đòn bẩy tài chính giúp
nhà quản trị tài chính lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty. Đối với nhà đầu
tư, tỷ số đòn bẩy tài chính cho thấy được rủi ro về tài chính của công ty từ đó dẫn đến
quyết định đầu tư của mình. Các tỷ số đòn bẩy tài chính thông thường là:
- Tỷ suất nợ
Nợ phải trả
x 100%
Tổng tài sản
Tỷ suất nợ phản ánh mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bởi các khoản

Tỷ suất nợ =

nợ. Tỷ suất nợ càng cao thể hiện mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ
càng lớn, tính tự chủ của doanh nghiệp càng thấp và khả năng tiếp nhận các khoản
vay nợ càng khó một khi doanh nghiệp không thanh toán kịp thời các khoản nợ và
hiệu quả hoạt động kém.
- Tỷ suất tự tài trợ
Nguồn vốn chủ sở hữu
x 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết giá trị tài sản được tài trợ bởi bao nhiêu phần trăm từ
Tỷ suất tự tài trợ =

nguồn vốn chủ sở hữu. Tỷ suất tự tài trợ thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của
doanh nghiệp. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có tính độc lập cao về
tài chính và ít bị sức ép bởi các chủ nợ, có thể chủ động đáp ứng nhu cầu tài trợ cho
mọi hoạt động SXKD
- Tỷ suất nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ này cho biết tỷ lệ nợ dài hạn chiếm bao nhiêu trong vốn chủ sở hữu
Tỷ suất nợ dài hạn trên

=

Nợ dài hạn


×