Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực Cạnh tranh đấu thầu xây dựng giao thông của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.11 KB, 155 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa buộc các
doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Sự thay đổi cơ chế
này đã làm cho không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, lúng túng trong sản xuất
và kinh doanh. Tuy nhiên, cũng có không ít doanh nghiệp đã tìm được những
hướng đi đúng đắn, kịp thời đề ra những giải pháp thích hợp nhằm tháo gỡ khó
khăn, tạo lập và phát huy thế mạnh của mình, nhờ đó đã đạt được hiệu quả kinh
doanh cao, đứng vững và không ngừng phát triển.
Xây dựng giao thông là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các
lĩnh vực khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra chủ yếu
thông qua hình thức đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức
đấu thầu xây dựng giao thông đã được áp dụng từ lâu. Ở nước ta, từ khi Nhà
nước ban hành "Qui chế đấu thầu" rồi đến “Luật đấu thầu”, Nghị định số
58/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2008 hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu
và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng, thì đấu thầu xây dựng giao
thông mới thực sự trở thành một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt giữa các
doanh nghiệp xây dựng. Mặt khác, trong những năm gần đây, đã xuất hiện
nhiều dự án xây dựng có qui mô lớn, sử dựng vốn ngân sách hoặc vốn vay, vốn
viện trợ của các tổ chức tín dụng nước ngoài đòi hỏi phải tổ chức đấu thầu xây
dựng giao thông trên cơ sở cạnh tranh. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng giao thông luôn là sự quan tâm hàng đầu
của các doanh nghiệp xây dựng.
Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh là một doanh nghiệp với nhiều
ngành nghề SXKD khác nhau, trong đó ngành sản xuất kinh doanh chủ đạo

1


mang lại doanh thu và lợi nhuận cao nhất của Công ty là lĩnh vực Xây dựng các


Công trình Giao thông. Công ty là một trong những doanh nghiệp ra đời sớm và
có qui mô lớn trên địa bàn Quảng Bình. Trong những năm vừa qua, Công ty đã
có những nỗ lực trên nhiều mặt nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh và đã giành được nhiều thành tựu hết sức quan trọng,
hoàn thành nhiệm vụ được giao, trở thành một trong những doanh nghiệp xây
dựng mạnh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng và miền Trung nói chung.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới Công ty vẫn còn một số hạn chế như hiệu
quả kinh doanh chưa thật cao, đang chịu áp lực cạnh tranh lớn của một số
doanh nghiệp xây dựng khác, đặc biệt là trong lĩnh vực cạnh tranh đấu thầu xây
dựng giao thông.
Trước sự lớn mạnh không ngừng của các doanh nghiệp xây dựng trong
nước, sự xuất hiện của những công ty xây dựng lớn của nước ngoài, sự phát triển
của khoa học công nghệ xây dựng... cho thấy rằng cạnh tranh đấu thầu xây dựng
giữa các doanh nghiệp xây dựng đang diễn ra rất gay gắt. Vì vậy, vấn đề nâng
cao năng lực cạnh tranh đấu thầu có một vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đối với sự thành công và phát triển của các doanh nghiệp xây dựng
giao thông nói chung và của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức trên, là một cán bộ nhiều năm công tác ở Công
ty tôi đã chọn đề tài "Giải pháp nâng cao năng lực Cạnh tranh đấu thầu xây
dựng giao thông của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh" làm luận văn
thạc sỹ của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng về cạnh
tranh đấu thầu xây dựng giao thông của Công ty, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT của Công ty TNHH XDTH
Trường Thịnh.

2



2.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đấu thầu, năng lực đấu thầu
xây dựng và cạnh tranh đấu thầu của các doanh nhiệp xây dựng;
- Phân tích thực trạng họat động và năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT
của Công ty;
- Đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh đấu thầu XDGT của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp thu thập tài liệu
- Đối với tài liệu thứ cấp: Được thu thập từ các báo cáo kế toán, báo cáo
tổng kết hàng năm, số liệu, thông tin của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh,
các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án XDGT, các Công ty tư vấn XDGT, …..
Thông tin số liệu thứ cấp được thu thập nhằm khái quát đặc điểm của ngành
XDGT, việc phát triển xây dựng giao thông ở Việt Nam nói chung, Quảng Bình
nói riêng và thực trạng năng lực xây dựng, khả năng cạnh tranh đấu thầu XDGT
của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh.
- Đối với tài liệu sơ cấp: Điều tra từ các đối tượng là cán bộ, công nhân
viên của Công ty ở tất cả các đơn vị trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực xây
dựng các công trình giao thông có am hiểu nhiều về Công ty và hoạt động đấu
thầu, các chuyên gia làm việc tại các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án XDGT, các
Công ty Tư vấn Xây dựng Giao thông theo phương pháp phát phiếu điều tra lấy
ý kiến. Thông tin số liệu sơ cấp được thu thập làm căn cứ cho việc đánh giá năng
lực xây dựng và khả năng cạnh tranh đấu thầu XDGT của Công ty.
Do tính chất của đề tài nên số phiếu điều tra được phát ra trên phạm vi
vừa phải, bao gồm các chuyên gia làm việc tại các Chủ đầu tư, các phòng
chuyên môn của Sở Giao thông Quảng Bình; các chuyên gia làm việc tại Công
ty Tư vấn Xây dựng Giao thông đã có thời gian tiếp xúc nhiều với Công ty

3



TNHH XDTH Trường Thịnh, cán bộ công nhân viên thuộc các phòng chuyên
môn và các đơn vị trực thuộc Công ty có thời gian làm việc trong lĩnh vực
XDGT từ 2 năm trở lên và am hiểu lĩnh vực công tác như: Tổ chức nhân sự, Kỹ
thuật, máy móc thiết bị, Tài chính, Kế hoạch. Tổng số phiếu điều tra phát ra cho
các đối tượng là 160 phiếu, số thu về 125 phiếu đạt 78%; hoàn toàn thích hợp
cho phân tích trong nghiên cứu này (phụ lục 2.1).
3.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tổ để hệ thống hóa tài liệu điều tra
và việc xử lý số liệu được tiến hành trên máy tính với phần mềm SPSS.
3.3. Phương pháp phân tích
- Vận dụng các phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và
phân tích kinh doanh để phân tích đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh đấu
thầu của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh trên cơ sở các số liệu thứ cấp đã
được tổng hợp;
- Dùng các phương pháp thống kê mô tả, phương pháp phân tích nhân tố,
kiểm định so sánh giá trị trung bình, và các phương pháp thống kê toán khác để
phân tích, đánh giá và kiểm định độ tin cậy, mức ý nghĩa thống kê của các mối
liên hệ đối với năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT của Công ty TNHH XDTH
Trường Thịnh từ các tài liệu sơ cấp thu thập được của các đối tượng điều tra;
- Sử dụng các phương pháp hệ thống và phương pháp chuyên gia để đánh
giá thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT
của Công ty, những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
đấu thầu XDGT làm cơ sở cho việc đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh đấu thầu XDGT của Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh trong
thời gian tới.
Tất cả các phương pháp trên đều dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và phương pháp tiếp cận lịch sử cụ thể; xem xét đối tượng
nghiên cứu theo quan điểm toàn diện, phát triển và hệ thống.


4


4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT và các
giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT của Công ty TNHH
XDTH Trường Thịnh.
Đối tượng tiếp cận của đề tài luận văn là cán bộ, công nhân viên Công ty
TNHH XDTH Trường Thịnh, các chuyên gia thuộc những đơn vị như: Chủ đầu
tư, Ban quản lý dự án XDGT, các Công ty Tư vấn XDGT và một số Công ty đối
thủ cạnh tranh trong đấu thầu XDGT của Công ty.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Công ty TNHH XDTH Trường Thịnh trong quan hệ
với các đối tượng Chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án XDGT, các Công ty Tư
vấn XDGT, một số Công ty đối thủ cạnh tranh trong đấu thầu XDGT.
+ Về thời gian: Phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh đấu thầu XDGT
của Công ty giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2009; đề xuất giải pháp cho những
năm tiếp theo.

5


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẤU THẦU, CẠNH TRANH
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CÁC CTGT CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1. ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
1.1.1. Một số khái niệm liên quan trong đấu thầu xây dựng


- Đấu thầu được xem là một phương thức ưu việt trong mua bán hàng
hoá. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay hoạt động đấu thầu được phát
triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, người
bán thì nhiều mà người mua thì ít. Để nhận thầu được công trình các nhà
thầu không ngừng nâng cao năng lực của mình, tập trung nguồn lực để tham
gia đấu thầu, hoàn thiện phương pháp lập hồ sơ dự thầu.
Thuật ngữ đấu thầu đã xuất hiện trong thực tế xã hội từ xa xưa.
Theo từ điển Tiếng Việt 1998 thì đấu thầu được giải thích là việc “đọ công
khai, ai nhận làm, ai nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm
hoặc được bán”.[39]
Theo Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định số 88/CP ngày
1/9/1999: “là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của Bên
mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu”. [9] [11]
Theo Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 được Quốc Hội thông qua ngày
29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2006: “Đấu thầu là quá trình lựa
chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu của Bên mời thầu để thực hiện gói thầu của các
dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu trên cơ sở cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”. [29]
- Chủ đầu tư: là người sở hữu vốn, người vay vốn hoặc người được giao
trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn để đầu tư theo quy định của pháp luật.

6


- Bên mời thầu: là Chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực
và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định
của pháp luật về đấu thầu.
- Nhà thầu chính: là nhà thầu chịu trách nhiệm về việc tham gia đấu
thầu, đứng tên dự thầu, ký kết và thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn (còn

gọi là nhà thầu tham gia đấu thầu).
Nhà thầu tham gia đấu thầu một cách độc lập gọi là nhà thầu độc lập.
Nhà thầu cùng với một hoặc nhiều nhà thầu khác tham gia đấu thầu trong
một đơn dự thầu thì gọi là nhà thầu liên danh.
- Nhà thầu phụ: là nhà thầu thực hiện một phần công việc của gói thầu
trên cơ sở thỏa thuận hoặc hợp đồng được ký với nhà thầu chính. Nhà thầu phụ
không phải là nhà thầu chịu trách nhiệm về việc tham gia đấu thầu.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình: là tập hợp các đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây
dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc
sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công
trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở.
- Gói thầu: là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được
phân chia theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp
lý và bảo đảm tính đồng bộ của dự án. Trong trường hợp mua sắm, gói thầu có
thể là một hoặc một loại đồ dùng, trang thiết bị hoặc phương tiện. [29]
1.1.2. Đấu thầu xây dựng
1.1.2.1. Thực chất của đấu thầu xây dựng
Trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về đấu thầu xây dựng:
- Đối với Nhà nước: Đấu thầu là một phương thức quản lý các hoạt động
xây dựng cơ bản thông qua việc ủy quyền cho chủ đầu tư (bên mời thầu) theo
chế độ công khai tuyển chọn nhà thầu.

7


- Đối với Chủ đầu tư: Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu tốt nhất đáp
ứng được các yêu cầu về kỹ thuật chất lượng, tiến độ thi công và chi phí xây
dựng công trình. Theo Luật đấu thầu ta có thể hiểu đấu thầu là quá trình lựa
chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu.

- Theo quan điểm của nhà thầu: Đấu thầu là một trong những phương
thức chủ yếu để có được dự án giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
- Thực chất của đấu thầu đối với nhà thầu là một quá trình cạnh tranh với
các đối thủ, thương thảo với chủ thầu làm rõ khả năng tiến hành công tác xây
dựng bảo đảm các yêu cầu về chất lượng, tiến độ để dành lấy hợp đồng thực
hiện dự án mà chủ thầu đưa ra. Đấu thầu là quá trình hết sức khó khăn, không ít
rủi ro nguy hiểm xảy ra.
Như vậy, thực chất của đấu thầu là cuộc thi công khai với cùng một điều
kiện nhằm dành lấy công trình (dự án) xây dựng, mà người ra đề thi (hồ sơ mời
thầu) và chấm thi là bên mời thầu, thí sinh là các nhà thầu với bài thi là các hồ
sơ dự thầu, còn người giám sát cuộc thi là Pháp luật về Đấu thầu do Nhà nước
ban hành.
1.1.2.2. Các hình thức, phương thức đấu thầu xây dựng, yêu cầu lựa chọn
nhà thầu trong hoạt động xây dựng
* Các hình thức lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng
Tuỳ theo quy mô, tính chất, nguồn vốn xây dựng công trình, người quyết
định đầu tư hoặc chủ đầu tư xây dựng công trình lựa chọn nhà thầu theo các
hình thức sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thi công
xây dựng công trình và không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời
thầu phải thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng về điều kiện,
thời gian nộp hồ sơ dự thầu. Bên dự thầu chỉ được tham dự khi có đủ điều kiện
năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng phù hợp với loại,

8


cấp công trình theo điều kiện thông báo của bên mời thầu. Đây là hình thức chủ
yếu được áp dụng trong đấu thầu.[32]
- Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu được thực hiện để lựa chọn nhà

thầu tư vấn xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng công trình đối với công trình
xây dựng có yêu cầu kỹ thuật cao và chỉ có một số nhà thầu có đủ điều kiện
năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng được mời tham gia
dự thầu. Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình, công trình sử dụng vốn Nhà
nước thì không cho phép 2 doanh nghiệp trở lên thuộc cùng một Công ty, Công
ty với công ty thành viên, công ty mẹ và công ty con, doanh nghiệp liên doanh
với một bên góp vốn trong liên doanh cùng tham gia đấu thầu trong một gói
thầu. [32]
- Chỉ định thầu: là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu
của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Đây là hình thức đặc biệt bởi vì người
quyết định đầu tư hoặc Chủ đầu tư xây dựng công trình được quyền chỉ định
trực tiếp một tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng,
năng lực hành nghề xây dựng để thực hiện công việc, công trình với giá hợp lý
trong các trường hợp sau đây: công trình bí mật Nhà nước, công trình xây dựng
theo lệnh khẩn cấp, công trình tạm; công trình có tính chất nghiên cứu thử
nghiệm; công việc, công trình, hạng mục công trình xây dựng có quy mô nhỏ,
đơn giản theo quy định của Chính phủ; tu bổ, tôn tạo, phục hồi các công trình di
sản văn hoá, di tích lịch sử - văn hoá và các trường hợp đặc biệt khác được
người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép.
- Lựa chọn nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình xây dựng. Việc lựa chọn
nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình xây dựng được thực hiện đối với các công
trình xây dựng quy định tại Điều 55 của Luật xây dựng. Trong hình thức này tác
giả của phương án thiết kế kiến trúc được lựa chọn được ưu tiên thực hiện các
bước thiết kế tiếp theo khi có đủ điều kiện năng lực hoạt động thiết kế xây
dựng, năng lực hành nghề thiết kế xây dựng công trình. [32]

9


* Phương thức đấu thầu trong hoạt động xây dựng

Về phương thức tổ chức đấu thầu, theo qui định của pháp luật có ba phương
thức đấu thầu cơ bản mà chủ đầu tư dự án có thể lựa chọn tổ chức đấu thầu, đó là:
đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn.
- Đấu thầu một túi hồ sơ, được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng
rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC.
Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về mặt kỹ thuật và đề xuất về tài chính
theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành một lần.
- Đấu thầu hai túi hồ sơ được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu
thầu hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Nhà thầu nộp đề xuất về
kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng biệt theo yêu cầu của
hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành 2 lần; Trong đó, đề xuất về kỹ
thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu
có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá
tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đề xuất về tài chính
của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét, thương
thảo. Phương thức này trong lĩnh vực xây dựng thường chỉ áp dụng đối với đấu
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. [32]
- Phương thức đấu thầu hai giai đoạn được áp dụng đối với đấu thầu rộng
rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có
kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện theo trình tự sau:
Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu
nộp hồ sơ đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có giá dự thầu;
trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ
mời thầu giai đoạn hai.
Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã

10


tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề

xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp đảm
bảo dự thầu. [32]
* Các yêu cầu lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng
Việc lựa chọn nhà thầu phải bảo đảm những yêu cầu sau đây: Đáp ứng
được hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình; chọn được nhà thầu có đủ
điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng phù hợp,
có giá dự thầu hợp lý; khách quan, công khai, công bằng, minh bạch. Người
quyết định đầu tư, chủ đầu tư xây dựng công trình có quyền quyết định hình
thức lựa chọn nhà thầu. [32]
1.1.2.3. Đặc điểm của đấu thầu xây dựng giao thông
Đấu thầu xây dựng giao thông có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, về chủ thể tham gia đấu thầu xây dựng. Đấu thầu xây dựng
giao thông là một trong những phương thức cạnh tranh nhằm lựa chọn các nhà
thầu thực hiện những công việc như: tư vấn, khảo sát thiết kế, thi công xây lắp,
mua sắm trang thiết bị... cho các công trình, hạng mục công trình xây dựng giao
thông. Xét về thực chất, đây là một hoạt động mua bán mang tính đặc thù, tính
đặc thù ở đây được thể hiện qua quá trình thực hiện của chủ thể tham gia. Thực
chất đây là hoạt động cạnh tranh xuất phát từ mối quan hệ cung - cầu, diễn ra
giữa hai chủ thể: cạnh tranh giữa bên mời thầu (chủ đầu tư) với các nhà thầu và
cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Trong quá trình tham gia đấu thầu có
nhiều chủ thể khác nhau như: chủ đầu tư (bên mời thầu) và các doanh nghiệp
xây dựng giao thông có năng lực đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. Các bên tham
gia đấu thầu phải đảm bảo tuân thủ qui định của pháp luật về điều kiện tham gia
đấu thầu. Đối với chủ đầu tư, phải là đơn vị có đủ năng lực về tài chính, có
năng lực tổ chức thực hiện và quản lý dự án. Về phía các nhà thầu, đối với nhà
thầu trong nước thì phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật

11



về đấu thầu. [32]
- Thứ hai, về đối tượng hàng hóa tham gia đấu thầu xây dựng giao
thông. Hàng hóa tham gia đấu thầu xây dựng giao thông là hàng hóa đặc biệt,
đó là các dự án xây lắp, các dự án cung ứng hàng hóa, các dự án tư vấn về thiết
kế, giám sát, đầu tư... trong lĩnh vực giao thông. Các nhà thầu thực hiện việc
cạnh tranh với nhau để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, đó là: đấu thầu tuyển
chọn tư vấn thiết kế; đấu thầu mua sắm hàng hóa, thiết bị; đấu thầu xây lắp; đấu
thầu thực hiện lựa chọn đối tác thực hiện dự án... Hàng hóa lúc đầu đem ra thị
trường chưa được định giá một cách cụ thể, dựa trên các thông số yêu cầu về
điều kiện kinh tế - kỹ thuật của dự án, doanh nghiệp và nhà đầu tư thông qua
hình thức đấu thầu để xác định giá cả cụ thể của hàng hóa và các yêu cầu cụ thể
về kỹ thuật và điều kiện thực hiện để hoàn tất việc mua bán. Hoạt động này
diễn ra giữa người mua (chủ dự án) với người bán (nhà thầu) và giữa các nhà
thầu với nhau nhằm bán được sản phẩm của mình. Thông qua cạnh tranh đấu
thầu sẽ hình thành giá thầu - giá của hàng hóa đem ra bán, đây cũng chính là giá
dự toán của công trình. [32]
1.1.2.4. Vai trò của đấu thầu xây dựng các công trình giao thông
Trước hết, đấu thầu không phải là một thủ tục mang tính hình thức mà trên
thực tế là một công nghệ hiện đại, là một phương thức tổ chức sản xuất kinh
doanh phổ biến trong xây dựng cơ bản và hiệu quả không chỉ ở nước ta mà đã
được khẳng định ở các nước trên thế giới. Nó không chỉ có ý nghĩa quan trọng
với các chủ thể tham gia đấu thầu mà còn đối với nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
* Đối với Nhà nước
- Nhờ đấu thầu, Nhà nước sẽ lựa chọn được các nhà thầu đáp ứng các yêu
cầu cơ bản của các chủ đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước có đủ thông tin

12


thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự (tài chính, khoa

học kỹ thuật, cơ sở vật chất) của các nhà thầu.
- Hoạt động đấu thầu nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tập trung (vốn
từ ngân sách nhà nước). Đấu thầu dựa trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu
trên mọi mặt (tài chính, kỹ thuật, quản lý…) sẽ thúc đẩy các đơn vị dự thầu phải
tìm cách nâng cao trình độ, hiệu quả về mọi mặt. Nhờ đấu thầu, hiệu quả của
các dự án được nâng cao, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
- Đấu thầu còn góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của nhà nước
về đầu tư và xây dựng, hạn chế và loại trừ được các tình trạng thất thoát, lãng phí
vốn đầu tư và các hiện tượng tiêu cực khác trong xây dựng cơ bản.
- Đấu thầu là động lực, là điều kiện để cho các doanh nghiệp trong
ngành xây dựng cạnh tranh lành mạnh với nhau trong cơ chế thị trường, thúc
đẩy sự phát triển của công nghiệp xây dựng, từ đó tạo tiền đề thuận lợi cho
nền kinh tế xã hội phát triển.
* Đối với chủ đầu tư
- Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm được các nhà thầu hợp lý nhất có
khả năng đáp ứng được các yêu cầu đề ra. Vì trong đấu thầu diễn ra sự cạnh
tranh gay gắt giữa các nhà thầu, chủ đầu tư chỉ lựa chọn nhà thầu nào đáp ứng
được yêu cầu giá thành hợp lý, đảm bảo đúng tiến độ thi công, chất lượng công
trình tốt.
- Thông qua đấu thầu và kết quả hoạt động giao nhận thầu của đầu tư, hiệu
quả quản lý vốn đầu tư sẽ được tăng cường, tình trạng thất thoát vốn đầu tư ở
mỗi khâu của quá trình thi công sẽ được khắc phục và giảm thiểu.
- Đấu thầu giúp chủ đầu tư giải quyết tình trạng phụ thuộc vào một nhà
thầu duy nhất.

13


- Đấu thầu giúp cho chủ đầu tư được quyền chủ động khi đã có sự chuẩn bị
đầy đủ, kỹ lưỡng về tất cả mọi mặt trước khi đầu tư thì chủ đầu tư mới tiến hành

mời thầu và tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên, để đánh giá được
đúng các hồ sơ dự thầu, đảm bảo tính công bằng trong đấu thầu, đòi hỏi các cán
bộ của chủ đầu tư phải có trình độ nhất định. Việc quản lý dự án đầu tư với yêu
cầu thực tế sẽ thúc đẩy nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế, kỹ
thuật của bên chủ đầu tư.
* Đối với các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông
- Phương thức đấu thầu sẽ phát huy được tính chủ động, linh hoạt trong
việc tìm kiếm việc làm thông qua việc tham gia dự thầu và đấu thầu. Các doanh
nghiệp xây dựng sẽ phải tích cực tìm kiếm các thông tin do các chủ đầu tư đang
mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, các thông tin về các đối thủ
cạnh tranh, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước, tìm
cách tăng cường uy tín của mình để có thể nắm bắt được các cơ hội dự thầu và
có khả năng được chỉ định thầu.
- Việc tham gia dự thầu, trúng thầu và tiến hành thi công theo hợp đồng làm
cho các doanh nghiệp xây dựng phải tập trung nguồn vốn của mình vào một trọng
điểm đầu tư.
- Ngay từ quá trình tham gia đấu thầu, nếu trình độ kỹ thuật của các nhà
thầu không cao thì khó có cơ hội trúng thầu, hoặc nếu có trúng thầu thì trình độ
thi công, năng lực dự toán của nhà thầu thấp kém sẽ dễ dẫn đến sự thua lỗ.
Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông phải
không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt như: tổ chức quản lý, đào tạo đội
ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, mở rộng mạng lưới
thông tin ....
- Thông qua đấu thầu, các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông sẽ
tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, tiếp thu được những kiến

14


thức về khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại trong việc xây dựng những dự án

lớn, có điều kiện để khẳng định mình ở hiện tại và trong tương lai, có cơ hội để
cạnh tranh với nhau trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong cơ chế thị trường, phương thức đấu thầu ngày càng thể hiện rõ
tính ưu việt và vai trò quan trọng của nó đối với các chủ đầu tư, các doanh
nghiệp xây dựng công trình giao thông và Nhà nước, do đó việc áp dụng
phương thức này vào hoạt động kinh doanh là hết sức cần thiết.
1.2. CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐẤU THẦU
XÂY DỰNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
GIAO THÔNG
1.2.1. Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là khái niệm được sử dụng cho
cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu
vực liên quốc gia ..... Trong khi đối với một doanh nghiệp, mục tiêu cạnh tranh
chủ yếu là để tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay
quốc tế, thì đối với một số quốc gia mục tiêu đó là để phát triển nền kinh tế
quốc dân một cách bền vững và có hiệu quả hơn so với các quốc gia khác. Theo
K. Marx “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
để thu được lợi nhuận siêu ngạch ”. Nghiên cứu về sản xuất tư bản chủ nghĩa K.
Marx đã khẳng định rằng: “quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá
trị thặng dư”, đồng thời còn chỉ rõ nhiều quy luật khác của phương thức sản
xuất này trong đó có quy luật cạnh tranh.
- Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (tập 1): Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan

15


hệ cung - cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi

nhất. [32]
- Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh" thuộc dự án VIE/97/016: Cạnh
tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành
một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên
thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận,
doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa
với ganh đua ... [21]
1.2.2. Đặc điểm của cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu là sự cố
gắng giành được quyền thực hiện các dự án thông qua gọi thầu với điều kiện
thuận lợi và tối ưu nhất trên cơ sở nguồn nội lực và ngoại lực có năng lực
khống chế được của doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích kinh tế - xã
hội. Cụ thể, cạnh tranh đấu thầu có thể được hiểu trên các khía cạnh sau:
- Theo nghĩa hẹp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu
thầu là quá trình doanh nghiệp đưa ra những giải pháp về kỹ thuật, trang thiết
bị, nhân lực, tiến độ thi công, giá bỏ thầu, ưu thế về kinh nghiệm,.... thể hiện
tính ưu việt của mình so với nhà thầu khác nhằm thỏa mãn các yêu cầu của bên
mời thầu trong việc thực hiện dự án.
- Theo nghĩa rộng, cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là sự ganh đua
quyết liệt giữa các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm thông tin, đưa ra các
giải pháp về kỹ thuật, ưu thế về kinh nghiệm, điều kiện thực hiện dự án, giá bỏ
thầu... nhằm đảm bảo trúng thầu và thực hiện các cam kết theo hợp đồng ký kết
với chủ đầu tư. Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng thường hiểu theo nghĩa
rộng, nó có một số đặc điểm sau:
+Thứ nhất, về chủ thể tham gia cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Cạnh

16



tranh trong đấu thầu xây dựng thường có nhiều chủ thể tham gia, các chủ thể
này có cùng mục tiêu theo đuổi đó là phải giành được những lợi thế về phía
mình. Các chủ thể tham gia cạnh tranh đấu thầu phải tuân thủ các qui định của
pháp luật, các thông lệ quốc tế và các ràng buộc về điều kiện tham gia đấu thầu
do cơ quan quản lý dự án đặt ra. Các chủ thể khi tham gia đấu thầu đều phải
cạnh tranh với nhau, điều này dẫn tới sự hình thành nhiều mối quan hệ cạnh
tranh giữa các chủ thể khi tham gia đấu thầu. Đó là, mối quan hệ cạnh tranh
giữa người bán và người mua, theo đó, người mua (bên mời thầu) thì muốn mua
được công trình xây dựng có chất lượng cao, thời gian thi công ngắn, chi phí
hợp lý, về phía những người bán (nhà thầu) thì muốn bán được công trình trong
tương lai có giá cao với chi phí hợp lý và có lợi nhuận lớn nhất trong hạn độ
bảo đảm các qui chuẩn của xây dựng.
+Thứ hai, về đối tượng của cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Khi đánh giá
và quyết định lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư thường căn cứ vào các tiêu chí để
xét thầu, đó là: kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu; năng lực tài chính; trình độ
chuyên môn, kỹ thuật; tiến độ thi công và giá dự thầu. Trong đó, bên mời thầu
chú ý nhiều nhất tới chất lượng, tính năng ưu việt về kỹ thuật và giá thành sản
phẩm, đó cũng chính là đối tượng cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau.
Cạnh tranh bằng chất lượng công trình, là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong việc đề xuất các giải pháp tốt nhất về khoa học - công nghệ nhằm
đáp ứng các tiêu chuẩn do bên mời thầu đưa ra. Để thắng thầu, doanh nghiệp
phải không ngừng đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ nhằm nâng cao chất lượng công trình. Chất lượng công trình là một
trong những yếu tố quan trọng nhất, nó khẳng định năng lực thi công, uy tín của
doanh nghiệp. Mặt khác, chất lượng công trình còn góp phần không nhỏ trong
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hoàn thành các mục tiêu kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đề ra và thương hiệu của doanh nghiệp.
Cạnh tranh bằng giá dự thầu cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

17



quyết định đến thành công hay thất bại trong đấu thầu xây dựng. Do đó, xây
dựng được mức giá bỏ thầu hợp lý là yêu cầu hàng đầu quan trọng việc đảm
bảo tính cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh doanh cao của doanh nghiệp. Để tạo ra
ưu thế cạnh tranh về giá trong cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh nhạy
và linh hoạt trong việc tìm hiểu thông tin về dự án, đối thủ cạnh tranh, mục tiêu
của dự án, ưu thế của các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh... Tùy theo từng
công trình cụ thể dựa vào mục tiêu của công ty, tiềm lực tài chính, năng lực thi
công từ đó xây dựng chính sách giá khác nhau để quyết định giá bỏ thầu.
Cạnh tranh bằng tiến độ thi công. Tiến độ thi công thể hiện năng lực của
nhà thầu trên các khía cạnh như: trình độ tổ chức và quản lý thi công, năng lực
kỹ thuật, trang thiết bị máy móc và nguồn nhân lực. Nhà thầu cạnh tranh với
nhau qua các tiêu chí này để giành những ưu thế trong đấu thầu. Thực hiện đầy
đủ các cam kết về tiến độ thi công là điều kiện quan trọng để thắng thầu cũng
như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thứ ba, về hình thức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng giao thông.
Trong đấu thầu xây dựng, tồn tại hai hình thức cạnh tranh chủ yếu là: cạnh tranh
theo chiều rộng và cạnh tranh theo chiều sâu.
Cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn) bao gồm các yếu tố
chính như: Đa dạng hóa các công trình xây dựng mà doanh nghiệp kinh doanh trên
cơ sở nguồn lực hiện có; cải tiến phương thức thanh toán và các điều kiện thi
công trong hợp đồng nhận thầu; nâng cao năng lực xây dựng hồ sơ dự thầu, đặc
biệt là hoạt động giới thiệu và thông tin về doanh nghiệp; đổi mới công tác tổ
chức thi công; tăng cường hoạt động tìm kiếm thông tin kinh tế; đẩy mạnh hoạt
động Marketing, truyền thông...
Cạnh tranh theo chiều sâu (cạnh tranh không có giới hạn) là sự đầu tư
của doanh nghiệp thông qua việc nâng cấp thiết bị thi công, nghiên cứu và ứng
dụng những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào thi công, nâng cao trình độ
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và công

18



nhân, viên chức trong doanh nghiệp. Cạnh tranh theo chiều sâu thực chất là sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thông qua việc đầu tư nghiên cứu nhằm nâng
cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật của hàng hóa chào bán nói riêng (công trình)
và năng lực khoa học của doanh nghiệp nói chung.
Trong thực tế, doanh nghiệp thường thực hiện cả hai hình thức trên để
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh
nghiệp xây dựng giao thông
Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng giao thông
thường được đánh giá qua các tiêu chí như: năng lực tài chính, số lượng công
trình trúng thầu, giá trị công trình trúng thầu; tỷ lệ thắng thầu trong các dự án;
chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp; chỉ tiêu về chất lượng công trình; chỉ
tiêu về kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu... Cụ thể:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ
tiêu sau đây:
* Hệ số vay nợ

Hệ số vay nợ =

Tổng tài sản nợ
Tổng tài sản

Hệ số này phản ánh năng lực tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, hệ
số này càng cao thì năng lực tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng giảm.
Do đó, khi năng lực thanh toán lãi vay thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn
trong huy động vốn vay và sẽ không đáp ứng đủ vốn khi nhu cầu vốn lưu động
của công trình tăng.

* Khả năng thanh toán lãi vay

19


Khả năng thanh toán lãi vay =

Lợi nhuận trước thuế + lãi tiền cho vay
Lãi tiền đi vay phải trả

Hệ số này phản ánh năng lực thanh toán tiền lãi vay của doanh nghiệp.
Nếu tỷ lệ này thấp sẽ làm giảm năng lực trả lãi và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đây là một trong những tiêu chí để các ngân hàng xem xét khi cung ứng các
khoản vay của doanh nghiệp.
* Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
* Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản lưu động - Hàng hóa tồn kho
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
* Lợi nhuận của doanh nghiệp. Hệ số doanh lợi bao gồm:

Lợi nhuận sau thuế
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu =
Doanh thu

Lợi nhuận sau thuế
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn SXKD =

Vốn SXKD
Hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả cạnh tranh
đấu thầu của doanh nghiệp, hệ số này tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

20


- Số lượng công trình trúng thầu và giá trị công trình trúng thầu.
Tiêu chí này phản ánh một cách khái quát kết quả, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong hoạt động đấu thầu, tình hình dự thầu, kết quả hoạt
động đấu thầu nói riêng và kết quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp
trong năm. Số lượng công trình trúng thầu phản ánh năng lực và qui mô của
doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu. Giá trị trúng thầu hằng năm của doanh
nghiệp là tổng giá trị của tất cả các công trình (kể cả gói thầu trong hạng mục
công trình) mà doanh nghiệp đã trúng thầu trong năm. Giá trị công trình trúng
thầu trong năm phản ánh năng lực và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ công tác đấu thầu của doanh nghiệp
có hiệu quả và ngược lại.
- Tỷ lệ trúng thầu trong các dự án
Tiêu chí này phản ánh năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp,
nó được xác định dựa trên hai chỉ tiêu: theo số công trình và theo giá trị công
trình trong năm. Chỉ số này tỷ lệ thuận với năng lực cạnh tranh đấu thầu của
doanh nghiệp. Tỷ lệ này được tính như sau:
* Tính theo số công trình

P1 =

 Ctt
 Cdt


x 100

Trong đó:
P1: Tỷ lệ trúng thầu theo số công trình doanh nghiệp dự thầu (%);
Ctt: Số công trình trúng thầu;
Cdt: Số công trình doanh nghiệp dự thầu.
* Tính theo giá trị công trình

21


 Gtt
P2 =

 Gdt

x 100

Trong đó:
P2: Tỷ lệ trúng thầu theo giá trị công trình (%);
Gtt: Giá trị công trình trúng thầu;
Gdt: Giá trị công trình dự thầu.
- Chất lượng các công trình, dự án đã và đang thi công
Chất lượng các công trình, dự án chính là chất lượng hàng hóa mà
doanh nghiệp bán ra. Đó chính là tổng hợp các đặc tính theo yêu cầu của sản
phẩm, của qui trình xây dựng giao thông và của người sử dụng. Chỉ tiêu về chất
lượng các công trình, dự án đó là sự đáp ứng các yêu cầu kinh tế - kỹ thuật của
dự án. Trong lĩnh vực xây dựng giao thông, chất lượng sản phẩm chính là chất
lượng các công trình xây dựng giao thông, nó biểu hiện ở công năng sử dụng,

độ an toàn, tuổi thọ, tính kinh tế, tính kỹ thuật và mỹ thuật của công trình.
Với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện nay, cạnh tranh thông
qua chất lượng các công trình, dự án là sự cạnh tranh hết sức gay gắt và không
có giới hạn. Nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao
chất lượng các công trình dự án là việc làm thường xuyên của doanh nghiệp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp
Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết
định chất lượng của công trình, là yếu tố quan trọng, có tác động lớn đến thành
công hay thất bại của doanh nghiệp trong công tác đấu thầu. Đây là yếu tố hàng
đầu quyết định đến uy tín trên thương trường, tiến độ thực hiện dự án và năng

22


lực thi công của doanh nghiệp. Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp được xác
định dựa trên một số tiêu chí sau:
+ Năng lực đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của bên mời thầu;
+ Tính hợp lý, tính tối ưu và tính khả thi của các giải pháp kỹ thuật;
+ Năng lực đáp ứng các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh môi trường;
+ Năng lực đáp ứng của thiết bị thi công (số lượng, chủng loại, chất
lượng, công nghệ, tiến độ huy động...)
- Uy tín và kinh nghiệm của nhà thầu
Khi đánh giá các tiêu chí để lựa chọn nhà thầu, chủ dự án không chỉ căn cứ
vào tiêu chuẩn kỹ thuật, giá công trình do doanh nghiệp đưa ra mà chủ đầu tư còn
xem xét đến uy tín trên thương trường và kinh nghiệm của doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện các dự án tương tự trước đó. Uy tín của nhà thầu được thể hiện qua
các tiêu chí như: uy tín về thương hiệu, uy tín về năng lực thi công, uy tín về năng
lực tài chính và đội ngũ cán bộ, công nhân viên lành nghề. Đó là những yếu tố hết
sức quan trọng tác động đến năng lực trúng thầu của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh

nghiệp luôn xem việc xây dựng thương hiệu, uy tín trên thương trường là vấn đề
có ý nghĩa sống còn trong chiến lược phát triển của mình.
- Giá bỏ thầu
Giá bỏ thầu có tác động rất lớn đến thành công hay thất bại của doanh
nghiệp trong quá trình tham gia đấu thầu. Khi tham gia dự thầu, các doanh
nghiệp mong muốn đưa ra một mức giá hợp lý, thấp hơn giá của đối thủ cạnh
tranh nhằm lôi kéo sự chú ý của chủ đầu tư, điều này làm cho việc cạnh tranh
về giá giữa các doanh nghiệp diễn ra hết sức khốc liệt.
Khác với các sản phẩm tiêu dùng thông thường, giá của công trình xây

23


dựng giao thông được xác định trước khi có công trình và được xác định thông
qua đấu thầu. Giá công trình xây dựng giao thông được ghi trong hồ sơ dự thầu
và được gọi là giá bỏ thầu. Năng lực cạnh tranh về giá của nhà thầu có thể được
xác định qua các tiêu chí sau:
Gi
KG =
GA
Trong đó:
KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu
GA: Là giá gói thầu
Gi: Là giá dự thầu của nhà thầu thứ i (i = 1  m)
Trong thực tế, giá bỏ thầu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như:
+ Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nơi thực hiện dự án, đó là: đường
giao thông, điện, nước, khả năng khai thác vật tư tại chỗ, trình độ dân trí;
+ Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của dự án;
+ Tiến độ thực hiện dự án.
Đối với những dự án xây dựng lớn, thời gian triển khai thường kéo dài,

do đó nảy sinh nhiều vấn đề như: trượt giá vật tư, chi phí quản lý cao, công trình
chậm được đưa vào sử dụng, ..vv, làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả của dự án. Vì
vậy, chủ đầu tư thường rất quan tâm đến tiến độ thực hiện dự án của doanh
nghiệp và đây là một trong những tiêu chí để xem xét khả năng trúng thầu. Tiến
độ thực hiện dự án xây dựng thường được xem xét trên các khía cạnh:

. Khả năng đảm bảo tiến độ theo qui định đã cam kết;
. Tính hợp lý về tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình liên quan;

24


. Khả năng tổ chức điều hành để đảm bảo rút ngắn tiến độ thi công
nhưng không làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẠNH TRANH ĐẤU THẦU
XDGT CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.3.1. Nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành
công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của
doanh nghiệp thường được xem xét dựa trên các cấp độ sau:
- Nguồn nhân lực cấp cao
Nguồn nhân lực cấp cao của doanh nghiệp là những người hoạch định
chính sách và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển của công ty hoặc là những
người am hiểu, có trình độ chuyên môn sâu, vai trò của họ rất quan trọng, có tác
động lớn đến hiệu quả kinh doanh. Vai trò này thể hiện qua việc họ là người
trực tiếp xây dựng, sử dụng các công cụ để hiện thực hóa chính sách phát triển
doanh nghiệp trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, là người có năng lực đề ra
các giải pháp tối ưu về kinh tế và kỹ thuật có lợi cho doanh nghiệp. Đội ngũ cán
bộ cấp cao có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, năng động, sáng tạo sẽ có

tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả của
cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng. Chính vì vậy, xây dựng nguồn nhân lực cấp
cao luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay.
- Cán bộ cấp trung gian
Trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông, họ là các đội trưởng thi
công, kỹ sư trưởng, trưởng các phòng ban. Với cương vị này, họ là người thừa
hành kế hoạch, mệnh lệnh của cấp trên và lãnh đạo cấp dưới thực hiện các kế

25


×