Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.62 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Những vấn đề cơ bản về quốc phòng và tất yếu phải xây dựng
2

nền quốc phòng toàn dân
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng nền quốc

3
4
5

phòng toàn dân
Những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Một số yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân thời kỳ mới
Ý nghĩa đối với xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
Nền quốc phòng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đó là nền quốc phòng toàn


dân, mang tính chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phát triển theo hướng
toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường ngày càng hiện đại dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.


Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, trên cơ sở, thành tựu to lớn trong suốt những năm đổi mới đất nước đã nâng cao
vị thế, uy tín và sức mạnh của dân tộc ta. Đứng trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ
cách mạng, với những diễn biến phức tạp, mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực và trong
nước yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh ngang tầm với sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân ngang tầm với nhiệm vụ, là một vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa đặc
biệt, không chỉ góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, mà còn bảo vệ ngay
chính công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa và tiến lên giành thắng lợi. Nghiên cứu vấn đề xây dựng
nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay, giúp cho Đảng hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế -xã hội, chiến lược quốc phòng - an ninh, đặc biệt trong xây
dựng quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.

1. Những vấn đề cơ bản về quốc phòng và tất yếu phải xây dựng nền quốc
phòng toàn dân
Quốc phòng là: “Công cuộc giữ nước của mỗi quốc gia, gồm tổng thể các hoạt
động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học... của nhà


nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong
đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các
hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi
hình thức quy mô”1. Theo luật quốc phòng: Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực
lượng vũ trang là nòng cốt. Như vậy, phạm vi hoạt động quốc phòng rất rộng; chủ

thể hoạt động quốc phòng là Đảng, nhà nước, nhân dân, sức mạnh của quốc phòng
là sức mạnh tổng hợp toàn diện cả kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá,
trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhất. Mục đích của quốc phòng là để
phòng thủ đất nước, bảo vệ Tổ quốc hay chính là giữ vững hoà bình, ổn định để
xây dựng và phát triển đất nước, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động gây chiến của
các thế lực thù địch và đánh bại chiến tranh xâm lược của kẻ thù bảo vệ nền độc
lập của đất nước.
Nền quốc phòng toàn dân: “là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do
dân, của dân” phát triển theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều
hành của nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất
nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực
đế quốc và phản động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” 2.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là yêu cầu khách quan trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, đồng thời là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong
đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
“Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất
nước được xây dựng trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính
chất toàn dân, toàn diện độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”.
1

1. Từ điển Bác khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.848.

2

2. Từ

điển Bác khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.848.



Xây dựng nền quốc phòng vững mạnh là tạo ra sức mạnh để
ngăn ngừa đẩy lùi đánh bại mọi âm mưu hành động xâm hại đến
mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt nam xã
hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi
lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng an
ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược”.
Thực trạng xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong công cuộc đổi mới đất
nước ta đã đạt được kết quả to lớn như: tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn
định, quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm
tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bảo đảm an ninh quốc gia.
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên
các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo được phát huy. Tổ chức quân đội và công
an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát
triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ.
Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sự
nghiệp củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân còn
bộc lộ những yếu kém và khuyết điểm cần khắc phục như: nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và chưa thực sự
vững chắc. Chậm hình thành chiến lược thống nhất gắn quốc phòng - an ninh với phát
triển kinh tế - xã hội. Chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ của địa phương còn
hạn chế. Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và tiến bộ nhưng nhiều nơi vẫn còn
yếu. Khả năng chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức cơ động chưa cao, còn mất
cảnh giác, còn để bị động bất ngờ về chiến thuật, xử lý còn lúng túng trong một số
tình huống cụ thể. Chất lượng nghiên cứu chỉ đạo của các cấp chiến dịch, chiến lược
chưa cao… công tác huấn luyện đào tạo ở một số trường còn rập khuôn, công tác


nghiên cứu khoa học hiệu quả ứng dụng còn thấp. Tuy có nhiều cố gắng trong xây
dựng quân đội về chính trị, song trình độ lý luận, tính nhạy bén và bản lĩnh chính trị,

đạo đức lối sống của không ít cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ trì trung,
cao cấp chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong cuộc đấu
tranh mới. Công tác tư tưởng ở một số đơn vị còn chủ quan, đơn giản, hình thức, hiệu
quả chưa cao. Trình độ chính quy của quân đội chưa đáp ứng yêu cầu, chưa xác định
được chiến lược tổng thể về trang bị cho quân đội về công nghiệp quốc phòng. Nhận
thức về nhiệm vụ sản xuất làm kinh tế chưa sâu sắc, tổ chức còn manh mún, hạn chế
khả năng cạnh tranh. Sức mạnh quốc phòng trên cả nước chưa đạt được độ phát triển
đồng đều. Việc nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu,
thủ đoạn và hành động chống phá của các thế lực thù địch chưa sâu sắc, còn những
biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác, gây tổn hại đến lợi ích và an ninh quốc gia;
chức năng quản lý Nhà nước về quốc phòng mới ở bước đầu, công tác quốc phòng ở
nhiều bộ, ngành, địa phương chưa được chấp hành tốt theo đúng chức năng và yêu
cầu của tình hình nhiệm vụ; chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang còn có
mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực tiễn đòi hỏi phải
củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp đổi mới trở thành yêu cầu
tất yếu khách quan và cấp bách hiện nay.
Xác định xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong công cuộc đổi mới là yêu
cầu khách quan còn xuất phát từ thực tiễn của việc đại bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta đã nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta bằng âm mưu chiến lược “Diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đẩy mạnh chống phá
cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hoá, quốc phòng - an ninh; thúc đẩy nhanh quá trình “tư nhân hoá”, “tư bản hoá”
nền kinh tế đất nước theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa; tạo dựng lực lượng chống đối
trong và ngoài nước xâm nhập vào trong nước, hòng gây chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn


kết, bạo loạn lật đổ chính quyền của ta. Đồng thời chuẩn bị lực lượng quân sự răn đe
và sẵn sàng can thiệp lật đổ khi có điều kiện. Có thể thấy vấn đề độc lập dân tộc và
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước luôn bị đe doạ, biên giới và lãnh thổ của

Tổ quốc luôn bị xâm phạm, không loại trừ vấn đề có thể gây ra sự xung đột vũ
trang ở các quy mô cấp độ khác nhau đối với nước ta, nhất là vấn đề tranh chấp ở Biển
Đông và quần đảo Trường Sa. Từ những lý do chủ quan và khách quan, và xuất phát từ
tình tình thế giới, khu vực và trong nước, từ thực tiễn công tác xây dựng và củng cố nền
quốc phòng toàn dân ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay đặt
ra yêu cầu tất yếu khách quan phải củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, đáp ứng với yêu cầu cách mạng trong thời đại mới.
2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc được hình thành
trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen khi bàn về lĩnh vực quân sự và hoạt
động quân sự chứ chưa đưa ra một quan niệm trực tiếp về quốc phòng toàn dân.
Song chính đây là cơ sở nền tảng khoa học để V.I.Lênin kế thừa và phát triển, hoàn
chỉnh thành học thuyết mang tính cách mạng, khoa học với đầy đủ các nguyên lý
của nó như: vấn đề xây dựng quân đội cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân,
vấn đề xây dựng quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hậu phương trong chiến tranh. Những
vấn đề đó hoàn chỉnh thành học thuyết về chiến tranh, cách mạng về xây dựng nền
quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chính vì thế khi bàn về quốc phòng toàn dân, V.I.Lênin đã chỉ rõ: sau khi
cách mạng thành công, vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc
là yêu cầu khách quan của các quốc gia, dân tộc, và thực tiễn vấn đề bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp từ sau cách mạng Tháng Mười Nga
(1917). Khi mà Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ra đời và dần trở thành một hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa, đối trọng với chủ nghĩa tư bản giai cấp tư sản thế giới đã huy động mọi


sức mạnh, lực lượng trong tay để tìm cách xoá bỏ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, và
để đối phó với lực lượng phản cách mạng của chủ nghĩa tư bản, học thuyết Mác - Lênin
khi bàn về chiến tranh cách mạng đã chỉ rõ: công cuộc xây dựng chế độ mới không được
phút nào sao nhãng việc đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn là vũ trang bảo vệ Tổ

quốc, bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội nhất là khi có hoà bình, V.I.Lênin chỉ rõ:
“Mỗi khi chúng ta bắt tay vào xây dựng công cuộc hoà bình thì chúng ta sẽ dồn sức mình
để làm việc đó không ngừng. Đồng thời hãy đề phòng, hãy chăm lo đến khả năng quốc
phòng của ta như chăm lo con ngươi của mắt”3. Đồng thời, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Một
cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 4. Sau khi phân tích các mâu thuẫn
cơ bản của thời đại, chứng tỏ còn chủ nghĩa đế quốc, thì còn nguy cơ chiến tranh,
do đó, cùng với nhiệm vụ khác, phải chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cấp thiết và khách quan. Do vậy, khi mà nước
Nga Xô Viết ngay khi giành thắng lợi, V.I.Lênin đã đề ra chủ trương: “Kể từ ngày 25
tháng 10 năm 1917, chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc”5. Hơn thế, Người còn nhấn
mạnh: “Chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc nên chúng ta đòi hỏi phải
có thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị
chiến đấu của nước nhà”6. Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì để giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định phát triển kinh tế, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc
chiến tranh phá hoại của các thế lực thù địch nhất thiết các quốc gia, dân tộc phải xây
dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài
nhưng hết sức khẩn trương, kỷ luật, trên một quy mô rộng lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ tính tất yếu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, Người nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”. Hơn thế, ngay trong Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), Người
3

V.I.Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Sự thật, H, 1968, tr. 67.
V.I.Lênin Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.145.
5
V.I. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb CTQG, H.1978, tr.102.
6
V.I .Lênin Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.480.
4



khẳng định: xây dựng nền quốc phòng toàn dân là tất yếu khách quan. Người trịnh
trọng tuyên bố với nhân dân thế giới và dân tộc ta là: “Toàn thể dân tộc Việt Nam,
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do độc lập ấy”7. Đặc biệt, Người nhấn mạnh: “Trong điều kiện hoàn cảnh nào thì
chúng ta phải ra sức củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, là điều kiện đảm bảo cho chúng ta bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi
kẻ thù trong mọi tình huống. Cho nên khi Tổ quốc được độc lập phải tập trung xây
dựng nền quốc phòng toàn dân”8.
Đề cập đến vấn đề quốc phòng, Hồ Chí Minh đã khái quát: “Bất kỳ hoà bình
hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, phải chuẩn bị
trước”9 và Người chỉ rõ: “Trong điều kiện hoàn cảnh nào thì chúng ta cũng phải ra
sức củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là điều
kiện để bảo đảm cho chúng ta bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù
trong mọi tình huống. Cho nên khi Tổ quốc được độc lập phải tập trung xây dựng
nền quốc phòng toàn dân”10. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc không
phải là hành động nhất thời, không chỉ bó hẹp là chống chiến tranh ngoại xâm giữ
nước; mà là hành động có mục đích, có kế hoạch, thường xuyên được chuẩn bị chu
đáo, tạo sự ổn định, hoà bình vững chắc lâu bền để xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, là điều kiện để chúng ta đảm bảo giữ
vững sự ổn định hoà bình, độc lập, kịp thời ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu xâm
lược của các thế lực thù địch. Cho nên, bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh chúng ta cũng
phải nắm vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước, phải nhìn xa, trông rộng,
thấy trước âm mưu, thủ đoạn kẻ thù để chủ động chuẩn bị trước về mọi mặt nhằm tăng
cường sức mạnh đất nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ nước.
7

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 2000, tr.557.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr.573.
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 317
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 573
8


Nhiệm vụ của nền quốc phòng toàn dân theo Hồ Chí Minh là phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, của toàn dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách
mạng, giữ gìn hoà bình.
Thực tiễn chứng minh không phải chỉ đến khi cả nước độc lập thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta mới xác định xây dựng nền quốc phòng toàn dân, mà
quan điểm, đường lối về xây dựng nền quốc phòng toàn dân đã được thể hiện trong
quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta tiến hành chiến tranh thông qua hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là đường lối tiến hành
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Chính
đường lối đúng đắn, sáng tạo đó đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi tới
thắng lợi hoàn toàn, cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất nước trong điều kiện quốc tế có
nhiều biến động to lớn ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện thế giới, đặc biệt vào những
năm 1989 - 1991 các nước xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô tiến
hành cải tổ vấp phải những sai lầm nghiêm trọng lâm vào khủng hoảng và sụp đổ.
Sự kiện đó làm cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, tạo cơ hội cho
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế tăng cường chống phá, xoá bỏ
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm
tập trung chống phá thì vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân đặt ra những
yêu cầu mới. Tuy nhiên xu thế chung của thế giới là hoà bình, ổn định và phát triển
song bên trong vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp và bất ổn định. Chính sách
can thiệp của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ và các nước lớn ngày càng bộc lộ
sâu sắc; các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, do mâu thuẫn về vấn đề
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo ở các nước diễn ra gay gắt, tranh chấp biên giới, lãnh thổ,

lợi ích kinh tế, tài nguyên giữa các nước vẫn thường xuyên xảy ra. Khu vực Châu á
Thái Bình Dương mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động nhất song
vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định. Đó là vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh


thổ đất liền, biển đảo giữa các nước trong khu vực với nhau trong sự đan cài lợi
ích, phức tạp khó giải quyết. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động lợi dụng
các chiêu bài “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” để can thiệp vào công
việc của các nước có độc lập, chủ quyền gây ra những biến động, phức tạp trong
từng khu vực và trên toàn thế giới. Trong khi cuộc cách mạng khoa học, công nghệ
tiếp tục phát triển mạnh mẽ trực tiếp tác động sâu sắc tới nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội; trong đó có lĩnh vực quốc phòng - an ninh, của mỗi nước trong quá
trình phát triển. Đặc biệt, đối với các nước chậm phát triển như nước ta hiện nay.
Do vậy, củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân là yêu cầu bức thiết đặt ra đối
với công cuộc đổi mới ở nước ta.
3. Những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Kế thừa quan điểm về xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng qua các
kỳ Đại hội VI, VII và VIII, yêu cầu của tình hình thực tiễn trực tiếp đặt ra, Đại hội
Đảng lần thứ IX đã xác định đúng những nội dung yêu cầu xây dựng nền quốc
phòng toàn dân tập trung ở việc xác định phương hướng, mục đích, quan điểm chỉ
đạo xây dựng, nội dung xây dựng và những giải pháp nhằm xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân: Nghị quyết 07 Bộ Chính
trị, Nghị quyết Đại hội VII toàn quân xác định phương hướng xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ngày càng hiện đại. Nền
quốc phòng toàn dân theo quan điểm của Đảng là nền quốc phòng của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, khẳng định sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng không
phải là của riêng ai, riêng tổ chức nào mà là của toàn dân. “Sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực


lượng và thế trận an ninh nhân dân; của sự kết hợp quốc phòng với an ninh, kinh
tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác”11.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là phải xây dựng trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, khoa học - kỹ thuật...Bởi sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố trên; sức mạnh của sự kết hợp giữa con
người và vũ khí trang bị, giữa sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Sức mạnh
tổng hợp của nền quốc phòng phải xây dựng trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự
cường. Bởi xem xét tổng hợp các yếu tố tạo sức mạnh quốc phòng, thì yếu tố giữ vai
trò quyết định vẫn là sức mạnh trong nước, sức mạnh dân tộc, sức mạnh con người,
sức mạnh chính trị tinh thần, mà tập trung trước hết ở sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt khác, ngày nay do sự phát triển cao của khoa học kỹ thuật, trình độ trang
bị vũ khí cho quân đội và quốc phòng trên thế giới ngày càng hiện đại. Bởi vậy,
nền quốc phòng của ta cũng phải xây dựng theo phương hướng từng bước hiện đại,
trên cơ sở phát triển của nền kinh tế đất nước.
Mục tiêu của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới:
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận và lực lượng an ninh nhân dân, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng
của đất nước, đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, xây dựng cơ
sở chính trị - xã hội, xây dựng “thế trận lòng dân”, nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của đất nước. Chú trọng ở các hướng chiến lược các vùng trọng điểm, địa bàn
chiến lược.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là quân đội
nhân dân. Thực hiện xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại.
11


Văn kiện Đại hội IX của Đảng,Nxb CTQG, H. 2001, tr. 40


Xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng độc lập tự chủ với bước
đi thích hợp, trên cơ sở khai thác sự phát triển khoa học công nghệ, thành tựu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chủ động phòng ngừa và làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ, của các thế lực thù địch.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu phương hướng trên, Đại hội IX đã xác định những
quan điểm cơ bản để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn
dân như sau:
Một là,về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đại hội IX khẳng định: “Bảo
vệ Tổ quốc chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới
và lợi ích quốc gia dân tộc”12.
Quan điểm của Đảng xác định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có nội dung
rất rộng: Bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ thành quả cách mạng to lớn của mấy thập
kỷ đấu tranh gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có bảo vệ độc
lập, chủ quyền giữ vững an ninh quốc gia mới tạo sự ổn định, hoà bình để phát
triển. Phải bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa vì chỉ có
Đảng, Nhà nước mới đem lại hạnh phúc cho nhân dân, mới có chủ nghĩa xã hội:
phải bảo vệ nhân dân vì Tổ quốc là Tổ quốc của nhân dân, không bảo vệ nhân dân
thì không có Tổ quốc. Mặt khác, phải bảo vệ sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi
xướng lãnh đạo và thành tựu của công cuộc đổi mới đạt được. Phải “bảo vệ lợi ích
12


ĐCSVN - Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 39.


quốc gia dân tộc”, đấu tranh kiên quyết với mọi hành động đe doạ an ninh và lợi
ích quốc gia dân tộc.
Hai là, về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định:
“Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân,
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”13.
Sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được tạo thành bởi nhiều yếu tố: chính trị,
kinh tế, quân sự, văn hoá...trong đó yếu tố giữ vai trò quyết định và được biểu hiện tập
trung nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
“Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu
dài, là nguồn gốc sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”14.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh dân tộc
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, phải hết sức coi trọng phát huy sức mạnh thời đại và kết hợp sức mạnh thời
đại với sức mạnh dân tộc.
Ba là, về kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, Đại hội IX khẳng định:
“Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế
trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”15.
Sự kết hợp này đòi hỏi hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế, phải được đánh
giá bằng kết quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và
an ninh. Mọi hoạt động quốc phòng, an ninh phải được đánh giá bằng hiệu quả răn
đe, ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu hành động chống phá của các thế lực thù địch,
giữ vững hoà bình ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa.
13,14,15


ĐCSVN - Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 40-44


Bốn là, về phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại, Đại hội IX khẳng định: phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt
động đối ngoại là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi, là bài học thành
công của cách mạng Việt Nam. Việc phối hợp này phải thực hiện trong mối liên hệ
giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, giữ vững bản
sắc dân tộc. Theo ý nghĩa đó, Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” 11. Đồng thời, Đảng cũng khẳng định
nhiệm vụ đối ngoại là: Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển, kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Năm là, về tăng cường quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân trong
đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Tăng cường quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ thường xuyên, song tình hình mới dẫn đến nội dung này có bước phát
triển mới: Nếu Đại hộiVIII xác định là “Củng cố quốc phòng” thì Đại hội IX nói là
“Tăng cường quốc phòng”. Đây là một nhiệm vụ lớn lao, hết sức nặng nề, nên cần
có sự tham gia, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó quân đội và công an
giữ vai trò nòng cốt.
Trên đây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng nền
quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu phương hướng đã định: Những
11


ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2006, tr.119.


quan điểm đó cần được quán triệt cụ thể trong tiến hành xây dựng nền quốc phòng
toàn dân trên những nội dung cụ thể:
Về xây dựng lực lượng quốc phòng: lực lượng quốc phòng là tổng hợp lực lượng
vật chất và tinh thần của các nguồn lực có thể huy động để tạo thành sức mạnh phòng
thủ quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của lực lượng quốc phòng phụ thuộc vào
chất lượng xây dựng chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, khoa học, công nghệ...vv..
Có thể khẳng định một nội dung hết sức quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng
toàn dân là phải xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh. Lực lượng quốc phòng
bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng lực lượng toàn
dân là toàn thể mọi người dân Việt Nam, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, già trẻ,
vùng miền, dân tộc, tôn giáo, người đang làm việc hay người đã nghỉ hưu, người sống
trong nước hay định cư ở nước ngoài miễn là con Lạc, cháu Hồng của dân tộc Việt
Nam. Hơn nữa nền quốc phòng của ta là nền quốc phòng toàn dân nghĩa là toàn thể
nhân dân tham gia vào sự nghiệp củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, nhằm
củng cố và giữ vững hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nền quốc phòng toàn dân nghĩa là quốc phòng của toàn dân, do toàn dân xây dựng và
dựa vào sức mạnh của toàn dân và vì nhân dân. Toàn thể nhân dân làm quốc phòng
thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể như Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội
Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...vv..Thông qua hoạt động
của các tổ chức này mà nhân dân đóng góp phần trách nhiệm của mình vào sự nghiệp
củng cố và tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc. Các tổ chức
Đảng lãnh đạo, tổ chức chính quyền quản lý, điều hành, cơ quan quân sự làm tham
mưu và thống nhất chỉ huy các lực lượng làm công tác quân sự. Những tổ chức này
thông qua các hoạt động của mình để tập hợp và hướng dẫn cho nhân dân tham gia vào
công tác quốc phòng theo khả năng, mức độ có thể đảm nhiệm như: xây dựng phát triển
kinh tế quân sự, đóng góp xây dựng quỹ an ninh, quốc phòng, giữ gìn an ninh trật tự,
vận chuyển phương tiện kỹ thuật quốc phòng, xây dựng thế trận khu vực phòng thủ,



xây dựng trận địa, xây dựng và chuẩn bị hậu phương, động viên con em nhập ngũ..vv..
Thông qua hệ thống pháp luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc để xây dựng quốc phòng,
huy động mọi lực lượng xã hội, mọi thành phần kinh tế tham gia tổ chức thực hiện tốt
nghĩa vụ và trách nhiệm trong sự nghiệp củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, chú trọng trong xây dựng lực lượng quốc phòng cần phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị và động viên toàn dân tham gia, nhưng tập trung xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo yêu cầu mới. Xây dựng quân đội nhân dân và
công an nhân dân theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại”. Xây dựng dân quân tự vệ, phải thực hiện đúng Pháp lệnh dân quân tự vệ
(2004), nhưng cần đổi mới mô hình tổ chức cho phù hợp với các thành phần kinh tế,
nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức dân quân tự vệ rộng
khắp nhưng phải có trọng điểm; trang bị tuy vẫn thô sơ nhưng phải kết hợp với tương
đối hiện đại; huấn luyện toàn diện nhưng phải biết kết hợp với chuyên sâu, đặc biệt là
rèn luyện bản lĩnh chính trị.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng: tiềm lực quốc phòng “Là khả năng về vật chất và
tinh thần ở trong nước và ngoài nước mà mỗi quốc gia dân tộc có thể huy động nhằm
mục tiêu bảo vệ đất nước, giữ vững hoà bình, ngăn ngừa mọi âm mưu, hành động gây
chiến của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược mọi quy mô có
thể xảy ra”12. Hay theo Luật Quốc phòng “Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực,
vật lực, tài chính có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”. Như vậy, tiềm lực
quốc phòng dựa trên nền tảng của các tiềm lực chính trị tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm
lực khoa học công nghệ, tiềm lực quân sự được xây dựng, tổ chức đáp ứng cho quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, xây dựng tiềm lực quốc phòng phải xây dựng
trên bố vấn đề:

12


Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.954.


Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần. Tiềm lực chính trị tinh thần “Là khả năng
về chính trị tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh vật chất hiện thực nhằm
thực hiện những nhiệm vụ nhất định”13. Như vậy, tiềm lực chính trị tinh thần của quốc
phòng toàn dân được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành
của Nhà nước; ý chí, quyết tâm của nhân dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân
sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi
điều kiện, hoàn cảnh tình huống.
Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần thực chất là xây dựng sức mạnh chính trị
tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, là xây dựng và bồi đắp nhân tố con người đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện cụ thể tập trung vào việc
xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện tốt giáo dục
quốc phòng toàn dân. Xây dựng, hoàn thiện đường lối chính trị và bảo vệ đường lối
chính trị - đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng và bảo vệ hệ thống chính trị của
chủ nghĩa xã hội, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng và chính quyền
nhân dân, bảo vệ nhân dân và thành quả cách mạng.
Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần là phải thường xuyên làm tốt công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, giáo dục quốc phòng toàn dân, nâng cao ý thức quốc phòng
cho các thành viên trong hệ thống chính trị và toàn dân, không ngừng phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Thực hiện tốt sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
điều hành của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở. Đặc biệt trong tình hình hiện nay xây dựng tiềm lực chính trị
13


Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.953.


tinh thần của nền quốc phòng toàn dân cần được xây dựng trên nền tảng văn hoá trong
sáng bền chặt, dưới sự định hướng chính trị đúng đắn và sáng suốt, trong một trạng
thái tinh thần ổn định và tích cực. Đồng thời phải rất coi trọng xây dựng “thế trận lòng
dân”, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, nhất là ở các địa bàn trọng điểm xung
yếu, các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây. Bên
cạnh đó phải thực hiện tốt các chính sách xã hội, đấu tranh có hiệu quả chống các tệ
nạn tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân ở một bộ phận cán bộ đảng viên trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Xây dựng tiềm
lực chính trị tinh thần là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, của cả hệ thống
chính trị, và của các lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay.
Xây dựng tiềm lực kinh tế: tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân “ Là khả
năng về kinh tế có thể huy động để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng hoặc tiến hành chiến tranh; cơ sở vật chất của các tiềm lực khác” 14. Biểu hiện ở
khối lượng và chất lượng các nguồn lực có thể động viên đáp ứng nhu cầu quân sự,
quốc phòng và chiến tranh; tính cơ động, sức sống của nền kinh tế trước thử thách ác
liệt của chiến tranh. Tiềm lực kinh tế tạo sức mạnh vật chất của nền quốc phòng toàn
dân, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác.
Nội dung xây dựng tiềm lực kinh tế là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường quốc phòng - an ninh; phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị
kỹ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
với cơ sở hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho
các lực lượng vũ trang nhân dân. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang thời
chiến và duy trì sự phát triển của nền kinh tế.
Biện pháp xây dựng tiềm lực kinh tế là phải quán triệt và thực hiện tốt đường lối,
quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng,

14

Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.954.


an ninh. Chủ động hội nhập kinh tế thế giới (WTO) nhưng vẫn giữ được tính độc lập,
tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt các kế hoạch dự trữ quốc
gia; có kế hoạch động viên nền kinh tế cho quốc phòng và thực hiện tốt kế hoạch đó
khi cần thiết.
Như vậy, việc xây dựng tiềm lực kinh tế cho nền quốc phòng toàn dân được đặt
trên cơ sở một nền kinh tế phát triển lành mạnh, vững chắc, có mức tăng trưởng cao.
Trên cơ sở phát triển kinh tế và thông qua việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền quốc phòng toàn dân, mà trọng tâm là
xây dựng nền công nghiệp quốc phòng và đáp ứng nhu cầu kinh tế cho các lực lượng
vũ trang. Đi đôi với việc làm này là xây dựng một thể chế, động viên nền kinh tế phục
vụ quốc phòng khi cần thiết.
Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của đất nước. Tiềm lực khoa học, công
nghệ “Là khả năng về khoa học và công nghệ có thể huy động giải quyết những
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của xã hội” 15. Tiềm lực khoa học, công nghệ biểu hiện
ở trình độ khả năng phát triển khoa học; ở số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa
học; ở cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu phổ biến và ứng dụng khoa
học. Tiềm lực khoa học, công nghệ có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của khoa
học quân sự, nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, các môn khoa học xã hội
nhân văn khác trong lĩnh vực quân sự, cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang, công tác
quản lý chỉ huy bộ đội. Mức độ động viên tiềm lực khoa học và công nghệ phục vụ
cho nhiệm vụ quân sự và của cuộc chiến tranh, bảo bản chất của chế độ chính trị - xã
hội và trình độ phát triển lực lượng sản xuất của mỗi nước. Xây dựng tiềm lực khoa
học công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, phải huy động tổng lực các khoa học,
công nghệ quốc gia, trong đó khoa học quân sự làm nòng cốt để nghiên cứu các vấn
đề về quân sự, quốc phòng, về nghệ thuật quân sự, về sửa chữa, cải tiến, sản xuất các


15

Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.954.


loại vũ khí trang bị. Đồng thời phải thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.
Như vậy, để tạo tiềm lực khoa học, công nghệ quốc phòng phát triển phải dựa chắc
vào tiềm lực của khoa học, công nghệ đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Xây dựng tiềm lực quân sự: tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân
“Là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh hiện
thực phục vụ cho nhiệm vụ quân sự và tiến hành chiến tranh”16. Biểu hiện của tiềm
lực quốc phòng là ở khả năng duy trì và không ngừng phát triển trình độ sẵn sàng
chiến đấu, năng lực và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguồn dự trữ về sức người, sức của sẵn sàng huy động phục vụ cho nhiệm vụ quân
sự, cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự là nhân tố cơ bản, là nòng cốt của tiềm lực quốc
phòng, là biểu hiện tập trung, trực tiếp sức mạnh quân sự của nhà nước; giữ vai trò
nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Tiềm lực quân sự được xây dựng
trên cơ sở của tiềm lực chính trị tinh thần, tiềm lực kinh tế và khoa học công nghệ.
Nội dung cơ bản xây dựng tiềm lực quân sự là xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân vững mạnh toàn diện; gắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Xây
dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bố trí lực lượng luôn đáp ứng yêu cầu chuẩn bị đất
nước về mọi mặt sẵn sàng động viên thời chiến. Tăng cường nghiên cứu khoa học quân
sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và nâng cao chất
lượng giáo dục quốc phòng.
Như vậy, vấn đề đặt ra trong xây dựng tiềm lực quân sự cần hết sức chú trọng

xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, cơ sở vật chất, khoa học nghệ thuật quân sự, khoa
16

Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2004, tr.954.


học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, xây dựng về mặt tổ chức, lực
lượng, cả thực lực và nhân lực dự trữ. Trong đó quan trọng nhất là xây dựng quân đội
thường trực và xây dựng lực lượng dự bị động viên, xây dựng lực lượng vũ trang địa
phương, có phương án động viên quân đội trong các tình huống.
Về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân: là sự tổ chức, bố trí lực lượng mọi
mặt của đất nước và của toàn dân trên toàn thể lãnh thổ theo ý định chiến lược bảo vệ
Tổ quốc. Khi nói đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao giờ xây dựng tiềm lực,
lực lượng quốc phòng cũng phải gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Khi
xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải luôn luôn gắn với xây dựng “thế trận lòng
dân”. Đó là làm sao cho toàn dân thấy được sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm
của mỗi người dân Việt Nam chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của lực lượng vũ trang
nhân dân.
Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn liền với qui hoạch tổng thể của
quốc gia, của các địa phương, tỉnh (thành phố) theo hướng kết hợp kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế trên các mặt điều hoà nhân lực, bố trí cơ cấu kinh tế kỹ thuật, kết hợp việc bố trí, phân vùng kinh tế với thế bố trí quốc phòng. Xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội cùng các công trình phòng thủ, thiết bị chiến trường, hậu
phương chiến lược. Hình thành các khu vực chiến lược đảm bảo vững trên toàn cục,
mạnh ở trọng điểm, đồng thời là những khu vực vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh
về quốc phòng, an ninh. Thực chất là bố trí lực lượng chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học
công nghệ, dân cư, để hình thành thế trận bảo vệ Tổ quốc ở từng địa phương, từng vùng,
từng hướng và trên phạm vi cả nước.
Nội dung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân rất toàn diện, trong đó tập
trung vào một số nội dung chính: phân vùng kinh tế, phân bố dân cư hợp lý theo ý
định chiến lược thống nhất; tổ chức bố trí lực lượng vũ trang, hệ thống sở chỉ huy, đội

hình chiến đấu vững chắc, nhanh chóng cơ động đối phó các tình huống. Xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trong hệ thống phòng thủ chung của cả nước. Bao


gồm xây dựng các khu vực phòng thủ huyện (quận) vững chắc, xây dựng cơ sở làng,
xã (phố phường) vững mạnh, các khu vực phòng thủ then chốt của lực lượng vũ trang
địa phương, các khu căn cứ hậu phương, căn cứ chiến đấu của tỉnh, huyện và các mục
tiêu trọng điểm vững mạnh. Phân vùng chiến lược gắn với xây dựng hậu phương
chiến lược, hậu phương vùng chiến lược, từng địa phương. Phân vùng chiến lược
quốc phòng, an ninh phải gắn với phân vùng kinh tế theo ý định bảo vệ đất nước đi
đôi với xây dựng đất nước. Về quốc phòng mỗi quân khu là một địa bàn chiến lược,
một hướng chiến lược quan trọng trong thế phòng thủ chung của cả nước. Trên mỗi
quân khu, hình thành thế bố trí chiến lược quốc phòng, an ninh gắn với phân vùng
kinh tế trên địa bàn, chuẩn bị hậu phương của quân khu và hậu phương của các tỉnh
(thành phố).
Trong hoà bình bảo đảm có cơ cấu Đảng và chính quyền tại chỗ mạnh, có lực
lượng quốc phòng, an ninh đủ sức đánh bại mọi âm mưu tiến công “mềm” hay
“cứng” của địch; khi chiến tranh xảy ra, bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ, thống nhất
có thể tự lực, độc lập tác chiến trong địa bàn, kể cả bị bao vây chi cắt chiến lược. Xây
dựng thế trận phòng thủ trên các hướng (khu vực) trọng điểm gắn với khu vực phòng
thủ địa phương và thế bố trí của các binh đoàn chủ lực cơ động, các quân chủng, binh
chủng. Trên các hướng chiến lược trọng điểm, đặc biệt là ở vùng biên giới, hải đảo,
xây dựng thế trận phòng thủ của các lực lượng vũ trang phù hợp với các tình huống
chiến lược và đối tượng tác chiến dự kiến, gắn chặt với thế trận chung của khu vực
phòng thủ trên hướng đó.
Các binh đoàn chủ lực cơ động được bố trí theo ý định chiến lược sẵn sàng phối
hợp với các lực lượng trên các hướng và với khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trong
các tình huống. Các quân chủng Hải quân, Phòng không - Không quân hình thành thế bố
trí chiến lược hợp lý, vừa có thể phối hợp với thế chiến lược chung trên từng vùng, từng
địa bàn đánh địch, vừa có thể độc lập tác chiến, bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến

lược. Tổ chức phòng thủ dân sự bảo đảm toàn dân đánh giặc và phòng tránh khắc phục


hậu quả chiến tranh. Tổ chức phòng thủ dân sự bao gồm: xây dựng có trọng điểm trong
thời bình và hoàn chỉnh khi có chiến tranh hệ thống công trình phòng thủ dân sự và tổ
chức hệ thống phòng vệ dân sự từ Trung ương đến địa phương.
Kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Đây là một
vấn đề chiến lược lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sự kết hợp này thể hiện trong mọi
hoạt động xây dựng và đấu tranh quốc phòng, an ninh trên tất cả các lĩnh vực, nhất là
phối hợp hoạt động trong nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự xã hội; trong công tác phát
động quần chúng xây dựng cơ sở vững mạnh; trong thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch
phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở địa phương và trong việc chuẩn bị
kế hoạch phối hợp đối phó với trường hợp địch can thiệp bằng lực lượng vũ trang, hoặc
trường hợp chiến tranh xâm lược lớn; nhất là trên những địa bàn chiến lược trọng điểm,
vùng biên giới, hải đảo và ven biển, những mục tiêu chiến lược trong nội địa.
4. Một số yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân thời kỳ mới
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để việc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân đạt được kết quả cao cần thực hiện một số nội dung
yêu cầu cơ bản:
Một là: Thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, nhân thức đúng đắn và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc
phòng tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc và của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải thường
xuyên đề cao trách nhiệm của toàn dân và hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm đó cho toàn dân, hệ
thống chính trị, công tác giáo dục phải quán triệt thường xuyên trong toàn xã hội,
mục tiêu chiến lược độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở không ngừng
bồi dưỡng lòng yêu nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho mọi người thấy rõ mối



quan hệ không tách rời giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phấn
đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong
thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đi đôi với quán triệt nâng cao nhận thức, cần phải tổ chức thực hiện trong
thực tiễn, từ toàn dân đến địa phương đơn vị, ở bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng
phải xem chiến lược quốc phòng là một chiến lược gắn với tổng thể chiến lược
quốc gia, để trong thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động thực
hiện chiến lược quốc phòng trên quy mô cả nước, từng khu vực, mỗi địa phương,
củng cố tăng cường sức mạnh tiềm lực của quốc phòng trong thời kỳ mới.
Hai là: Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc.
Một hệ thống pháp luật cụ thể, đồng bộ, thống nhất là yếu tố cơ bản nâng
cao trách nhiệm từng công dân và ý thức chính trị cho mọi người, đồng thời là cơ
sở cho việc huy động các tiềm lực quốc phòng phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc cả thời bình cũng như thời chiến xảy ra. Cần có kế hoạch, nội dung, chương
trình giáo dục kiến thức quốc phòng cho mọi đối tượng sao cho phù hợp. Nên đưa
giáo dục quốc phòng trở thành một môn bắt buộc, có cơ chế và chính sách thực
hiện có hiệu quả. Thường xuyên quan tâm xây dựng cả tiềm lực và thế trận, đặc
biệt chú ý đến xây dựng cơ sở chính trị xã hội và “thế trận lòng dân” của nền quốc
phòng toàn dân, giữ vững ổn định tình hình chính trị, môi trường hoà bình đất
nước tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới có hiệu quả, từ đó mới tạo nền
tảng vững chắc cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Ba là: Không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu
các lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là quân đội nhân dân và công an
nhân dân.



Trong quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân, lực
lượng là toàn dân với lực lượng nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân. Do
vậy trong xây dựng các lực lượng vũ trang nói chung, đặc biệt là quân đội nhân
dân, phải thấu suôt quan điểm xây dựng toàn diện, lấy xây dựng chính trị làm cơ
sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy chất lượng là hàng đầu. Điều này có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến lựơc chống
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Phải lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, quân
đội nhân dân mới hoàn thành các chức năng cơ bản của tình hình mới, đặc biệt làm
tốt chức năng của đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng
cơ sở địa phương, góp phần giữ vững ổn định chính trị đất nước.
Phương hướng và quan điểm đó được quán triệt nhất quán trong chủ trương
và hành động xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân về cơ cấu tổ chức và quân
số phải đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với sự điều chỉnh chiến lược quốc phòng
trong tinh hình mới. Số quân thường trực thích hợp có sức chiến đấu cao dựa trên
ưu thế của nền quốc phòng toàn dân, gắn chặt với lực lượng dự bị động viên, dân
quân tự vệ hùng hậu. Cùng với sự phát triển đường lối của Đảng về quốc phòng và
nghệ thuật quân sự, phải chăm lo cải tiến và trang bị cho quân đội các loại vũ khí
và phương tiện cần thiết. Trong khả năng cụ thể của nền kinh tế và nền công
nghiệp quốc phòng của đất nước. Quân đội nhân dân phải sử dụng thành thạo các
loại vũ khí, phương tiện được trang bị (trong biên chế) dựa vào thế trận nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân để giành hiệu xuất chiến đấu
trong chiến tranh hiện đại.
Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước
đối với quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới.
Để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự
nghịêp đổi mới, Đảng ta xác định phải củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh tạo
sự ổn định chính trị và giữ vững định hướng trong quá trình phát triển. Phải nâng



×