Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

CƠ sở lý LUẬN về CÔNG tác PHỐI hợp GIỮA NHÀ TRƯỜNG và các lực LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO dục kĩ NĂNG PHÒNG CHỐNG bạo lực học ĐƯỜNG CHO học SINH THCS TRÊN địa bàn cấp HUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.63 KB, 74 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA
NHÀ TRƯỜNG VÀ CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG GIÁO DỤC KĨ NĂNG PHÒNG CHỐNG BẠO
LỰC HỌC ĐƯỜNG CHO HỌC SINH THCS TRÊN ĐỊA
BÀN CẤP HUYỆN


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Trên thế giới.
Khi đề cập đến vấn đề bạo lực, trên thế giới đã có nhiều
nghiên cứu về vấn đề này. Các nhà tư tưởng đã bàn luận về
vấn đề bạo lực ở con người trong nhiều năm và đã đưa ra
nhiều lí thuyết về BLHĐ.
Trong những năm qua, nghiên cứu về BLHĐ là một
phần nhỏ trong lĩnh vực nghiên cứu về nguyên nhân của tội
phạm tuổi vị thành niên. Do đó những lí thuyết được sử dụng
để giải thích BLHĐ được rút ra từ những nghiên cứu tội phạm
vị thành niên nói chung.

Những lí thuyết này cho rằng,

nguyên nhân tâm lí của BLHĐ cũng giống như nguyên nhân
của các hành vi phạm tội khác của trẻ em vị thành niên.
Những gì các lí thuyết này đề cập là khả năng gây ra phạm
pháp xuất phát từ bạo lực học đường. Có 3 quan điểm
chính,“Lí thuyết căng thẳng” cho rằng, trường học có thể tạo
căng thẳng cho học sinh làm gia tăng hành vi phạm tội
(Cohen 1995), đặc biệt nhấn mạnh rằng học sinh xuất thân từ
tầng lớp xã hội thấp kém có thể cảm thấy nản lòng ở trường
học và phản ứng với sự nản chí đó bằng cách thể hiện lối cư
xử phá rối ra bên ngoài, bỏ học, vi phạm kỉ luật của nhà




trường hoặc hình thành văn hóa phạm tội. “Lí thuyết xếp loại”
cho rằng “ theo dõi quá trình học tập” làm tổn thương học
sinh đạt kết quả thấp và làm tăng khả năng phạm tội (Schafer,
Olexa và polk,1972). Cuối cùng “Lí thuyết kiểm sốt” cho
rằng, sức mạnh của mối rằng buộc giữa học sinh với trường
học và giáo viên là một rào cản quan trọng trong việc rời xa
phạm pháp hơn là học sinh có mối quan hệ mật thiết với giáo
viên và nhà trường (Hirschi,1969)
Khi đề cập đến nguồn gốc bạo lực “Thuyết Bản năng”
của Sigmund freud (1920) và Komand Lorenz (1966) đã xem
xét bạo lực như là bản năng bẩm sinh. Thuyết này khẳng định
hành vi bạo lực là cần thiết nhằm đảm bảo cho cá thể tồn tại.
Các cá thể phải gây chiến với nhau để giành cơ hội tiếp cận
với những nguồn tài nguyên có giá trị. “Thuyết nội tâm” cho
rằng, nguồn gốc của bạo lực không phải do bản năng, do gen
quy định. Bạo lực bắt nguồn từ sự đáp ứng lại với hẫng hụt và
đau đớn. Tác giả Doller và Miller (1939) cho rằng, nếu một
người bị ngăn cản hoạt động để đạt tới mục đích nào đó sẽ có
nguy cơ hẫng hụt. Anh ta sẽ phản ứng lại với hẫng hụt bằng
cách gây chiến với người hoặc vật thể cản trở hoạt động của
anh ta nhằm mau chóng thốt khỏi tình huống khơng thể chịu
nổi đó. “Thuyết học tập xã hội” lại cho rằng, bạo lực là kết


quả của sự bắt chước và học hỏi xã hội, con người tập quen để
trở nên bạo lực. Ví dụ chúng ta học đánh nhau, học cách làm
tổn thương người khác bằng cách quan sát những người có
ảnh hưởng và làm theo cách thức như vậy. Các nhà nghiên

cứu tiên phong về tập quen quan sát là (Bandura,1979) đã đưa
ra các bằng chứng thuyết phục rằng, chỉ cần quan sát các mẫu
hình về bạo lực cũng đủ tạo ra bạo lực nhiều hơn ở trẻ em và
các hành vi bạo lực này tồn tại lâu dài. Bandura và các nhà
tâm lí theo học thuyết xã hội khẳng định, phim ảnh có tầm
quan trọng trong hình thành và củng cố hành vi bạo lực.
Ngồi những nghiên cứu lí thuyết như trên, gần đây các
nghiên cứu thực tiễn về bạo lực học đường trong trường học
được các nhà nghiên cứu Âu – Mỹ quan tâm. Năm 2001, một
nghiên cứu được thực hiện bởi Tonja Nansel và đồng nghiệp
chỉ ra rằng trong số 15000 học sinh Mỹ từ lớp 6 đến lớp 10 có
khoảng 17% học sinh cho biết họ thỉnh thoảng hoặc thường
xuyên bị bắt nạt trong cả năm học. Gần 19% cho rằng học
thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bắt nạt người khác và 6% nói
rằng họ vừa đi bắt nạt người khác vừa là nạn nhân của bắt nạt.
Theo các nghiên cứu được thực hiện ở châu Âu, bạo lực
học đường xảythường xuyên ở trường tiểu học, liên quan tới
15% số học sinh ở trường THCS, tỉ lệ học sinh bị bắt nạt từ 3


-10%, với mức độ cao đột biến ở độ tuổi 13- 14 khi các em
học sinh bắt đầu tuổi dạy thì.
Dựa trên những nghiên cứu được thực hiện tại Na Uy,
nhà tâm lí học Dan Olweus (1993) cho rằng thủ phạm của bạo
lực học đường thường có nhu cầu rất lớn được thể hiện mình
là “ đàn anh” trong mắt những đứa trẻ khác. Thường thì thủ
phạm có ngoại hình to, khỏe hơn những đứa trẻ khác nhưng
lại có kết quả học tập tương đối thấp. Những đứa trẻ này
thường xuất thân từ gia đình ít có điều kiện vật chất hoặc các
gia đình bất ổn, nhiều bạo lực và độc đốn. Ở đó những người

cha, người mẹ thiếu tình thương và luôn sử dụng bạo lực đã
tác động mạnh đến suy nghĩ và hành động của con trẻ. Theo
Dan Olweus, đơi khi bạo lực do một nhóm học sinh gây ra,
thường thì nhóm này do một hoặc vài “thủ lĩnh” đừng đầu.
Ngoài những thủ lĩnh này, các học sinh khác thường bị lơi kéo
chỉ hành động theo tâm lí đám đơng.
Theo một thống kê tại Anh, mỗi ngày có khoảng 20 học
sinh bị bắt nạt, sợ đến nỗi không dám tới trường. Tại Mỹ, hiệp
hội Y tế Mỹ ước tính có 160 trẻ từ chối đến trường mỗi ngày vì
sợ bị bắt nạt, 8% học sinh nghỉ học 1 ngày/ thàng do lo sợ bị
bắt nạt ở trong phòng thay đồ của trường học. Mỗi tháng có
282 học sinh ở các trường THCS Mỹ bị tấn công. Về lâu dài,


hậu quả của bạo lực học đường có thể nghiêm trọng hơn.
Những trẻ là nạn nhân của của bạo lực học đường dễ mắc
chứng suy nhược, lo âu, tự kỉ, sức khỏe tinh thần suy yếu.
Một nghiên cứu của Mottot Florence thực hiện ở châu
Âu khẳng định có đến 61% nạn nhân của bạo lực học đường
có ý định tự tử, cịn theo số liệu của tồ khám nghiệm y lý
bang Victoria (Mỹ) năm 2007 có 40% nạn nhận các vụ tự tử
từng là đối tượng của nạn nhân bạo lực học đường. Đối với
một số em, những di chứng của một thời thơ ấu bị bắt nạt còn
kéo dài cho đến khi trưởng thành. Thậm chí do nỗi ám ảnh của
bạo lực học đường, một số nạn nhân sau này là thủ phạm của
chính các hành động bạo lực học đường. Theo nghiên cứu của
tiến sĩ Catherine Blaya thuộc đại học Bordeaux (Pháp), khoảng
20- 46% nạn nhân của các vụ bạo lực học đường đã tái diễn
chính những hành động bạo lực mà các em phải chịu đựng
nhằm vào các nạn nhân khác .

Có nhiều nghiên cứu điều tra thực trạng về bạo lực học
đường giữa học sinh với giáo viên như: Tại Hoa kì, nền giáo
dục ở đây được đánh giá là tiên tiến nhất toàn cầu nhưng tại
đây, hệ thống trường học của nước này đang phải đương đầu
với nạn bạo học đường đường nhiều nhất thế giới, đặc biệt là
những vụ bạo lực học đường có sử dụng hung khí.


Tại Anh Quốc, năm 2007 một cuộc điều tra của chính
phủ trên 6000 giáo viên tiến hành bởi cơng đồn giáo viên
NASUWT thấy 2% giáo viên thông báo từng phải đối mặt với
gây hấn thể chất, hơn 16% tuyên bố đã từng bị tấn công thể
chất bởi học sinh trong 2 năm trước đó. Theo thống kế của
cảnh sát thơng qua một yêu cầu Tự do thông tin, trong năm
2007 cảnh sát buộc phải xuất hiện 7300 lần, nhưng thực sự
trên tồn nước Anh bạo lực học đường có thể lên đến 10.000
vụ. Đó là kết quả khảo sát gần đây do Đảng bảo thủ công bố
trong lúc lo ngại về nạn bạo lực học đường tăng cao. Tháng 4,
năm 2009 Hiệp hội giáo viên và giảng viên đưa ra các chi tiết
một cuộc điều tra với hơn 1000 thành viên của mình với kết
quả 1/4 trong số họ từng là đối tượng của bạo lực thể chất
của một số học sinh. Trung bình một ngày các trường học ở
Anh xảy ra 40 vụ gây gổ buộc cảnh sát phải can thiệp. Dữ liệu
được tổng hợp từ 25/29 đồn cảnh sát trung tâm nước Anh. Tại
Wales, một cuộc điều tra năm 2009 thấy rằng 2/5 giáo viên
thông báo đã từng bị tấn công trong lớp học, 49% bị đe dọa
tấn công.
Tại Nam phi, nhiều nghiên cứu về bạo lực học đường
giữa học sinh với học sinh đã cho thấy: Nam Phi là một trong
những quốc gia có hệ thống trường học nguy hiểm nhất trên



thế giới, tình trạng bạo lực học đường diễn ra với tỉ lệ rất cao
ở nước này. Cao Ủy nhân quyền Nam Phi cho thấy 40% trẻ
em được phỏng vấn cho rằng chúng từng là nạn nhân của tội
phạm trường học, chỉ 23% học sinh cảm thấy an toàn khi đặt
chân đến lớp học. Hơn 1/5 số vụ tấn công tình dục vào trẻ em
Nam Phi được phát hiện diễn ra tại trường học. Việc phải
đương đầu với bạo lực gia đình, băng đảng, ma túy và để lại
dấu ấn lâu dài trong tính cách học sinh.
Tại Hàn Quốc, theo thống kê cũng cho thấy, gấn 13,2%
học sinh nam và 5,8% học sinh nữ từ lớp 4- lớp 12 bị các bạn
cùng lớp đánh hoặc làm tổn thương. Để ngăn gừa bạo lực học
đường cùng với việc thi hành luật, người dân nước này cũng
tham gia nhiều cuộc vận động nâng cao nhận thức bạo lực học
đường, tư vấn cũng như các biện pháp khác nhằm hỗ trợ nạn
nhân là học sinh. Hệ thống cảnh sát học đường cũng được
tăng cường để chiến đấu với nạn bạo lực học đường gia tăng
và ngăn chặn tội phạm vị thành niên. Công việc của những
cảnh sát này là giám sát bạo lực học đường, tư vấn cho học
sinh, phụ huynh, giáo viên đồng thời bảo vệ nạn nhân. Hơn 70
trường học tại Hàn Quốc đã áp dụng hệ thống này nhằm xóa
sổ bạo lực học đường (29).


Từ những vấn đề trên cho thấy, bạo lực học đường đang
là vấn đề chung của giáo dục quốc tế. Từ những chuyện nhỏ
nhặt như bạn bè ức hiếp nhau, thày cô vô tâm đến những
chuyện lớn như mang hùng khí đến trường, đâm chém nhau
… Nguyên nhân của các vụ bạo lực tuy có khác nhau nhưng

tựu chung lại có liên quan đến tâm lí học sinh. Việc bị bạn bè
xa lánh, thày cô, cha, mẹ không quan tâm, môi trường sinh
sống, học tập không lành mạnh là những nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới những vụ bạo lực học đường gây nhức nhối cho
toàn xã hội.
- Tại Việt Nam
Trong hội thảo khoa học quốc tế về “ Nhu cầu định
hướng và đào tạo tâm lí học đường tại Việt Nam” diễn ra tại
Hà Nội tháng 08, năm 2009, PGS.TS Hoàng Bá Thịnh - Giám
đốc trung tâm nghiên cứu dân số và công tác xã hội, trưởng
Khoa xã hội và nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội đã tìm
hiểu về bạo lực học đường với cách nhìn nhận vấn đề của thế
giới và Việt Nam. Trong báo cáo của ông đưa ra những con số
đáng báo động về tình trạng bạo lực học đường đồng thời báo
động sự gia tăng về bạo lực với các hình thức khác nhau trong
giới học đường ở Việt Nam hiện nay. Một hiện tượng bạo lực


khá phổ biến trong giới học đường đặc biệt ở các trường tiểu
học và THCS đó là nạn “ bảo kê”, trấn lột (tiền bạc, xe đạp,
thức ăn, đồ dùng ….) của bạn học. Tại một số trường tiểu học,
các em học sinh yếu ớt thường bị các đại ca (là những em có
thể hình khỏe, thích đánh nhau ..) bắt nạt.
Cũng trong hội thảo nay, PGS.TS Phan Mai Hương –
viện Tâm lí học với báo cáo “ Thực trạng bạo lực học đường
hiện nay” đã cho thấy sự gia tăng chóng mặt của nạn bạo lực
học đường, nhấn mạnh sự nguy hiểm về mức độ và tính chất
của bạo lực, đa dạng về đối tượng tham gia, hình thức bạo lực
và cách thể hiện. Theo bà nếu như 10 năm trước, Bạo lực học
đường chỉ dừng lại ở mức “chửi nhau”, cãi nhau, gây lộn ở

phạm vi nhỏ thì ngày nay bạo lực học đường diễn ra ở phạm
vi lớn hơn, số lượng người tham dự nhiểu hơn với đầy đủ
hung khí các loại khơng phải là chuyện hiếm gặp. Các sự vụ
trầm trọng và nguy hiểm như giết người, hiếp dâm, cướp của
xảy ra khơng cịn là chuyện lạ. Theo bà, bạo lực học đường
phổ biến tới mức khơng những các em coi đó là chuyện bình
thường mà người lớn chứng kiến cũng tặc lưỡi, thờ ơ mặc kệ
mọi chuyện diễn ra . Đối tượng gây bạo lực ngày một đa
dạng, bạo lực học đường khơng có chỉ ở các nam sinh mà
ngay ở các nữ sinh cũng không thua kém. Một số nữ sinh ưa


quậy phá muốn vươn lên làm “ chị cả”. Họ tập hợp thành
nhóm để “dạy đời” với những người mà họ cho là vô lễ. Họ
giao du, kết thân với một số học sinh nam có “máu mặt” để
làm hậu thuẫn. Bên cạnh đó họ cịn kết thân với thanh niên
bất hảo ở địa phương để nhờ sự trợ giúp nhanh nhất mỗi khi
có sự cố. Khi vây cánh đã mạnh, họ bắt đầu thực hiện các phi
vụ để gây thanh thế như đánh bạn bất kể vì lí do gì. Hiện
tượng lập băng nhóm hành xử theo kiểu “giang hồ” cũng
không hiếm trong giới nữ sinh. Trên nhiều video phát tán trên
các mạng xã hội gần đây cho thấy nhiều nhóm khoảng 5- 6
học sinh nữ lao vào đánh nạn nhân tới tấp, cào cấu, giật tóc,
xé quần áo… rồi rượt đuổi nhau. Sự kiện diễn ra ngay trên
đường phố có sự chứng kiến của rất nhiều học sinh và người
đi đường. Hình ảnh trên những đoạn phim lột tả một điều,
những chuyện như thế này xảy ra như chuyện thường tại các
trường THPT và THCS.
Trong hội thảo khoa học tâm lí – giáo dục Việt Nam “
Tâm lí và giáo dục học với sự đối mới căn bản, toàn diện

giáo dục Việt Nam” được diễn ra vào tháng 12 năm 2011.
ThS Phạm Thanh Bình, khoa Tâm lí giáo dục, trường Đại học
Sư phạm Hà nội đã có nghiên cứu về “ Thái độ của học sinh
THCS huyện Yên Khánh – Ninh Bình về bạo lực học


đường” , qua nghiên cứu, điều tra trên 72 em học sinh trường
THCS Yên Khánh- Ninh Bình đã đưa ra một số kết luận:
Bạo lực học đường xảy ra trong mọi hoạt động, từ hoạt
động học tập đến hoạt động ngoại khóa, bạo lực học đường
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chửi bới, đấm,
đá, đe dọa, ép buộc, cướp giật, trấn lột tài sản …. Đa số học
sinh nhận thức đúng nhưng chưa đủ về bạo lực học đường.
Đứng trước một tình huống bạo lực xảy ra, mỗi học sinh có
cách suy nghĩ và ứng xử khác nhau, nhưng vẫn tồn tại một số
lượng lớn học sinh cịn tỏ ra vơ trách nhiệm đối với tình
huống bạo lực học đường.
Từ các bài viết trên có thể nhận thấy bạo lực học đường ở
học sinh trong đó đặc biệt là học sinh THCS ngày càng gia
tăng, đa dạng về hình thức, mức độ và phạm vi ảnh hưởng. Bạo
lực học đường bao gồm nhiều dạng và để lại nhiều hậu quả
khiến dư luận khơng khỏi giật mình, hoảng hốt. Mặc dù bạo lực
học đường diễn ra phổ biến và phức tạp nhưng đa số mọi người
lại có thái độ thờ ơ trước bạo lực học đường. Nhìn chung, các
bài viết trên đều nhìn nhận vấn đề bạo lực học đường giữa các
học sinh là một vấn đề nóng, đáng báo động trong môi trường
học đường hiện nay, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng trên ở nhiều góc độ và đưa ra một số biện pháp khắc



phục. Tuy nhiên những nghiên cứu về việc phối hợp giữa nhà
trường và các lực lượng cộng đồng trong việc giáo dục kĩ năng
phòng chống BLHĐ đến nay hạn chế và chưa có nghiên cứu
chun sâu. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề phối hợp giữa nhà
trường và các lực lượng cộng đồng trong giáo dục kĩ năng
phòng chống bạo lực học đường cho học sinhTHCS là vô cùng
quan trọng và cần thiết.
- Một số lí luận cơ bản của đề tài.
- Bạo lực học đường:
-. Khái niệm:
Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều bài báo, tạp chí nói
về vấn đề BLHĐ, song những nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề này cịn hạn chế, chính vì vậy, đến nay chưa có một khái
niệm mang tính khái qt và chung nhất cho vấn đề này.
Đây cũng là một trong những khó khăn cho người nghiên
cứu về BLHĐ.
Theo Ban tuyên giáo Trung Ương. “BLHĐ là hệ thống
xâu chuỗi lời nói, hành vi mang tính miệt thị, đe dọa, khủng
bố người khác (thường xảy ra giữa trò với trò, giữa thày với


trị hoặc ngược lại) để lại thường tích trên cơ thể, thậm chí
dẫn đến tử vong, đặc biệt là gây tổn thương đến tư tưởng,
tình cảm, tạo cú sốc về tâm lí cho các đối tượng trực tiếp
tham gia vào quá trình giáo dục trong nhà trường, cũng như
những ai quan tâm đến sự nghiệp giáo dục”
Theo nghị định 80/2017 NĐ- CP,quy định về mơi
trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện,
phòng, chống bạo lực học đường, “BLHĐ là hành vi
hành hạ, đánh đập, ngược đãi, xâm hại thân thể, sức khỏe,

lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, cô lập, xua đuổi
và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh th ần
của người học xảy ra trong các cơ sở giáo dục hoặc lớp
độc lập”.
Theo nhóm tác giả, PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn; ThS.
Nguyễn Thị Diễm My; ThS Nguyễn Huỳnh Ngọc Trâm .
“ BLHĐ là những hành vi cố ý, sử dụng vũ lực hoặc quyền
lực của học sinh hoặc giáo viên đối với những học sinh,
giáo viên hoặc những người khác và ngược lại. Đó là
những hành vi bạo lực về thể xác, bạo lực về tinh thần,
bạo lực về tình dục, bạo lực về ngôn ngữ, những b ắt ép v ề


tài chính hoặc những hành vi khác có thể gây tổn thương
về mặt thể xác hoặc tinh thần cho người bị hại.
Theo PGS.TS. Phan Mai Hương- Viện tâm lí học
Việt Nam: BLHĐ là thuật ngữ để chỉ những hành vi bạo
lực trong môi trường học đường hoặc những hành vi bạo
lực của lứa tuổi học đường. Bao gồm trong thuật ngữ này
là hàng loạt các hành vi bạo lực với các mức độ khác nhau,
từ khơng lời đến có lời, từ hành động đơn giản đến hành
động thù địch, gây hấn, phá phách, gây tổn thương, thậm
chí tổn hại đến người khác.
Theo chúng tôi, BLHĐ là một thuật ngữ dùng để chỉ các
hành động cố ý dùng sức mạnh, quyền lực hay hành động
khác từ khơng lời đến có lời làm tổn hại đến thể chất, tinh
thần và vật chất của đối tượng trực tiếp tham gia vào quá
trình giáo dục.
- Các loại hành vi bạo lưc học đường.
Có nhiều cách phân loại các hành vi bạo BLHĐ, theo

cách chung nhất thì BLHĐ được chia làm hai lo ại là b ạo
lực thể chất và bạo lực tinh thần, theo cánh phân lo ại c ủa


bạo lực gia đình BLHĐ cũng được chia thành 4 loại là: b ạo
lực thể chất, bạo lực vật chất, bạo lực tâm lí, tình c ảm và
bạo lực tình dục.


Bạo lực thể chất.
Bạo lực thể chất là một loại bạo lực rất nghiêm trọng và
rất phổ biến, nó khơng chỉ ảnh hưởng đến người bị bạo lực
mà còn ảnh hưởng đến người chứng kiến hành vi bạo lực.
Bạo lực về thể chất là những hành vi hành hạ, đánh đập,
ngược đãi, xâm hại thân thể, sức khỏe của người khác, các
hành vi cụ thể của bạo lực thể chất như : đấm, đá, tát, cấu,
véo, gõ lên đầu, lên vai, đập vào người, xơ đẩy, bóp cổ, gạt
chân, dùng các đồ dùng học tập, gậy gộc, dao, kéo, côn,
kiếm, đất đá,...
Bạo lực về tâm lí, tình cảm.
Bạo lực về tâm lí, tình cảm trong học đường được xác
định bao gồm: những lời nói, cử chỉ mang tính chất xúc
phạm (lăng mạ, sỉ nhục, chà đạp nhân phẩm..), như dọa
nặt, mắng mỏ, gây áp lực tâm lí, buộc phải làm những việc
không mong muốn và các quan niệm gây hậu quả xấu về
mặt tâm lí, tình cảm.
Bạo lực tâm lí, tình cảm trong học đường được thể
hiện dưới một số hình thức như: kỉ luật mang tính d ọa



dẫm, đe dọa, sỉ nhục gây ra sự ức chế, lo lắng, hoang
mang, xấu hổ, tủi thân, tự ti, mặc cảm, ngồi ra cịn có
biểu hiện bắt nạt, dọa dẫm bạn bè, sức ép học tập và
thành tích giáo dục. Sự ganh ghét, c ạnh tranh c ủa b ạn bè,
sự trêu ghẹo thái quá, những bình luận thiếu thiện c ảm
về người khác lặp đi, lặp lại nhiều lần của b ạn bè dẫn
đến mặc cảm, xấu hổ, thậm chí có thể dẫn đến rối loạn
tâm thần.
Ngồi ra có thể kể đến một số hình thức bạo lực tâm lí,
tinh thần như: dựng chuyện, tạo tin đồn quái ác, bêu riếu,
tung hình ảnh trước cơng chúng, gán ghép những biệt hiệu
xấu, chửi rủa bằng những ngôn ngữ xúc phạm, đe dọa, khai
trừ, cô lập hay tẩy chay một cách có chủ ý ra khỏi nhóm.
Trong những năm gần đây, bạo lực kiểu này còn thể hiện
rất phổ biến trên các phương tiện thông tin truyền thông,
mạng xã hội như facebook, panpege, dẫn đến những căng
thẳng tâm lí, thậm chí là sức ép tâm lí tạo nên khủng hoảng
tinh thần.
Bạo lực vật chất:


Bao gồm những hành động bạo lực gây thiệt hại về đồ
dùng, trạng phục, phương tiện đi lại và tiền của của học
sinh như hiện tượng “ bảo kê”, trấn lột tiền và tài sản,
chiếm đoạt các vật dụng của bạn bè, yêu cầu, hăm dọa học
sinh khác phải nộp tiền hay tài sản có giá trị, cố ý làm hư
hỏng hay hủy hoại vật dụng của người khác. Cũng có
trường hợp học sinh bị nhóm thanh niên bên ngồi trấn lột
xe đạp, lấy tiền, lấy đồ mà phải phục tùng không dám kêu,
không dám báo lại cho thày, cô, cha mẹ. Ngay nay hành vi

này cũng có nhưng biểu hiện diễn ra một cách có chủ đích,
có tính tốn hay thậm chí là có tổ chức.
Bao lực tình dục:
Có thể chia làm hai loại là quấy rối tình dục và l ạm
dụng tình dục.
Quấy rồi tình dục là bất kì lời nói, hành đ ộng cử ch ỉ
có ý nghĩa tình dục ngồi ý muốn, những câu nói xúc
phạm cố ý hay bất kì những nhận xét về tình dục xúc
phạm người khác làm cho người đó cảm thấy bị đe dọa, bị
làm nhục, bị cản trở công việc, hoại sự an toàn và gây ra
sự lo sợ cho nạn nhân.


Lạm dụng tình dục được coi là hành động lợi dụng
sự thiếu hiểu biết hoặc sự thiếu kinh nghiệm, thiếu
quyền lực của người khác để đạt được mục đích tình dục.
Các hình thức của lạm dụng tình dục học đường: Ép bu ộc
quan hệ tình dục ngồi ý muốn, hiếp dâm, c ưỡng dâm, ép
buộc phải tiếp tục yêu đương, có những hành động sàm
sỡ, đánh ghen.... Lạm dụng tình dục có thể diễn ra trong
mối quan hệ giữa học sinh nam với học sinh nữ, giữa h ọc
sinh lớn với học sinh nhỏ, giữa thày, cô giáo với học sinh.
-. Nguyên nhân của tình trạng bạo lực học đường.
Nguyên nhân xuất phát từ phía cá nhân học sinh.
Học sinh có tiền sử biến chứng khi mang thai hoặc
sau khi sinh, có cha mẹ bị bệnh tâm thần, học sinh có chỉ
số IQ thấp, khuyết tật khả năng xử lí thơng tin, học lực
kém, khơng muốn học tập, kiểm sốt hành vi và tự kiềm
chế kém, học sinh có khả năng tập trung kém, hiếu đ ộng,
dễ bị căng thẳng về cảm xúc, có thái độ và hành vi ch ống

đối xã hội, học sinh có tiền sử đang sử dụng ma túy, ch ất
gây nghiện, các chất hướng thần.


Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THCS, các em
đang bước vào thời kì dạy thì, thời kì phát triển mạnh và
không cân đối về thể chất, “dư thừa năng lượng”. Trong
hoạt động thần kinh, quá trình hưng phấn chiếm ưu thế,
q trình ức chế có điều kiện bị suy giảm do vậy nhiều khi
thiều niên không kiềm chế được cảm xúc, dễ bị xúc động,
dễ bực tức ... nên dễ dẫn đến vi phạm kỉ luật.
Nguyên nhân xuất phát từ gia đình.
Trẻ sinh ra trong các gia đình có cha mẹ nghiện
ngập, phạm pháp, thường xun xảy ra tình tr ạng bạo lực
gia đình, thiếu quan tâm và khơng kết nối được tình cảm
với con cái, biện pháp giáo dục và kỉ luật gia đình khơng
nhất qn, dễ dãi quá hoặc khắc nghiệt quá, cha m ẹ li
thân hoặc li hơn, cha mẹ có tiền án, tiền sử ho ặc đang
ngồi tù.
Gia đình là nền tảng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ từ tuổi thơ. Nếu các thành viên
trong gia đình cư xử với nhau bằng bạo lực, sửdụng từ
ngữ hoặc những lời lẽ không hay sẽ ảnh hưởng r ất lớn
đến suy nghĩ, tình cảm của đứa trẻ và từ đó hình thành


cho trẻ những suy nghĩ và hành vi lệch l ạc giống nh ư
trong gia đình của chúng.
Nguyên nhân xuất phát từ phía nhà trường
Học sinh bị thày, cơ giáo, ban giám hiệu, nhân viên

nhà trường bạo hành, bạc đãi, trù dập, giáo viên không
quan tâm đến đời sống, tâm lí, tình cảm của học sinh.
Chương trình học q nhiều, sự bng lỏng quản lí h ọc
sinh của nhà trường dẫn đến học sinh giao du với nhi ều
nhóm bạn xấu ở ngồi nhà trường, nhà trường khơng có
mối quan hệ thường xun, tích cực với gia đình học sinh
và các tổ chức xã hội. Vấn đề giáo dục đạo đức cho h ọc
sinh chưa được quan tâm đúng mức. Các tổ chức Đoàn,
Đội trong nhà trường chưa phát huy hết vai trò, chưa
quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.


Nguyên nhân xuất phát từ cộng đồng, xã hội và các
phương tiện truyền thông.
Xã hội ngày càng phát triển, sự phân hóa giàu, nghèo
giữa các gia đình, giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Áp
lực về kinh tế dẫn đến giảm sút vai trị của gia đình đối với
việc chăm sóc, giáo dục con cái, làm sao nhãng việc chia sẽ
tình cảm, giáo dục, phịng tránh những nguy cơ tiêu cực của
mơi trường sống có thể ảnh hưởng đến thế hệ trẻ.
Bạo lực gia đình, bạo lực ngồi xã hội,các thiết bị công
nghệ thông tin hiện đại như máy tính, điện thoại thơng minh,
Ipac, máy nghe nhạc … ra đời ngày càng nhiều, trẻ em được
tiếp cận với nhiều loại trò chơi điện tử, các trang mạng xã hội
như từ khi còn rất nhỏ. Ảnh hưởng từ các trò chơi điện tử
mang tính bạo lực, các em đã “ tập nhiễm tính bạo lực” dẫn
đến các em bất chấp luật pháp, chuẩn mực đạo đức để được
thỏa mãn “ nhu cầu bạo lực”.
Các ấn phẩm, truyện tranh, sách, báo, các video clip,
phim ảnh mang tính bạo lực cũng góp phần hình thành nhu

cầu “ bạo lực” của trẻ em.


- Hậu quả của bạo lực học đường.
Đối với bản thân người bị hại và người gây án.
Hậu quả của hành vi bạo lực để lại rất đa dạng,
phức tạp với nhiều dạng thức và mức độ khác nhau. Đơn
giản là những vết trầy xước, bầm tìm trên cơ thể, nặng
hơn có thể dẫn đến những thương tích như gãy chân, gãy
tay, vỡ đầu, chảy máu .... nghiêm trọng có th ể gây ra án
mạng hoặc để lại những di chứng suốt đời cho n ạn nhân.
Với các em bị hại: thường có biểu hiện rối nhiễu hành vi
ảnh hưởng đến học tập, lao động và sinh hoạt hàng ngày
của các em. Các em tỏ ra mất tự tin, lo lắng khi đ ến
trường, một số nghỉ học, bỏ học, khơng muốn đến
trường. Về tâm lí các em tỏ ra lầm lì, ít nói, ng ại tiếp xúc
với mọi người, việc ăn ngủ cũng gặp khó khăn, cơ th ể suy
nhược... Nghiêm trọng hơn các em có thể bị tr ầm cảm, r ối
loạn tâm thần, luôn tự ti, mặc cảm, có những tr ường hợp
các em đã tìm đến cái chết để giải thốt bản thân mình.
Đối với học sinh “gây án”, các em sẽ lơ là trong học
tập, ni dưỡng niềm tin “ sức mạnh” của mình, lao vào
con đường ăn chơi lêu lổng để chứng tỏ bản thân. Nghiêm


trọng có nhiều vụ bạo lực cướp đi sinh mạng của những
học sinh vô tội để lại để lại sự đau đớn c ả về th ể xác l ẫn
tinh thần cho học sinh gây án, gia đình người gây án và gia
đình người bị hại. Sự hối hận, lo lắng, hoang mang ln
ám ảnh trong tâm trí của người gây án.

Nếu là bạo lực của giáo viên với học sinh hoặc giữa
những người làm cơng tác giáo dục, ngồi gây th ương tích
cho đối phương khiến gia đình phải bồi thường họ còn
phải chịu áp lực rất lớn từ dư luận. Nghiêm tr ọng là
những vụ bạo lực tình dục, nó làm tổn thương về thể xác
và tinh thần rất khó phục hồi cho người bị hại. Khủng
hoảng tâm lí, suy sụp tinh thần, thậm chí dẫn đến hành vi
tự sát. Có ác cảm về tình bạn, tình u, mang thai ngồi ý
muốn, bị lây nhiễm các bệnh tình dục trong đó có
HIV/AIDS.
Đối với nhà trường.
Những hành vi bạo lực làm cho hoạt động giáo d ục
trong nhà trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thày, cô,
học sinh lo lắng mất tinh thần học tập, giảng dạy, ảnh
hưởng đến thi đua của trường, lớp, ảnh hưởng đến danh


×